
Hàng không mẫu hạm Hyuga của Nhật
Không quân Việt Nam hiện nay có khoảng 97 chiến đấu cơ bao gồm các loại MiG-21, Su-22, Su-24 và Su-30 [9]. Trong khi 24 chiếc Su-30 và 11 chiếc Su-24 mua từ năm 2004 có thể được xem là cột trụ của lực lượng bảo vệ không phận, th́ đa số máy bay c̣n lại là MiG-21 và Su-22 lại quá lỗi thời, thuộc về công nghệ của thập niên 70-80 và hiện nay không biết là bao nhiêu chiếc c̣n sử dụng được.
Để trả lời câu hỏi lực lượng không quân Việt Nam có đủ khả năng bảo vệ đất nước và biển đảo hay không, chỉ cần so sánh: Đài Loan, với một diện tích chỉ bằng khoảng 1/9 của Việt Nam, lại có một lực lượng không quân gồm khoảng 400 chiến chiến đấu cơ phản lực tối tân!
Nói chung sự phát triển tiêu cực của đất nước ta trên mọi mặt trong 20 năm sau khi thống nhất đă làm cho năng lực quân sự bị suy yếu trầm trọng. Quân đội Việt Nam hiện nay đang có một nhu cầu hiện đại hóa khẩn cấp và tân trang khổng lồ cho mọi binh chủng. Chính quyền Việt Nam đă bắt đầu chi tiền để mua vũ khí mới, nhưng quá ít và quá chậm. Hoặc chi nhiều tiền nhưng không mua được nhiều thiết bị v́ phần lớn số tiền đă vào túi các cán bộ cao cấp. Hậu quả là sự bất lực của hải quân và không quân Việt Nam trước những hành động ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông hiện nay.
Sự thay đổi chiến lược của Mỹ
Truyền thống của Mỹ là chú tâm vào vùng Bắc Đại Tây Dương đă đuợc chính phủ Obama xét lại. Giờ đây đại cường quốc duy nhất trên thế giới xoay ánh mắt đến Thái B́nh Dương, nơi mà tổng thống Obama cho rằng sẽ quyết định sự phát triển của thế kỷ 21. Ngoài sự cộng tác chặt chẻ hơn với các đồng minh truyền thống trong vùng như Nhật và Nam Hàn, chính phủ Mỹ cũng đă nới lỏng những giới hạn trong quy chế cung cấp vũ khí cho các nước trong vùng. Đối với Việt Nam năm 2011 chính phủ Mỹ đă tuyên bố là có thể bán thiết bị quân sự "không sát thương"(non-lethal equipment).
Mới đây, sau cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Mỹ John Kerry với Ngoại trưởng Việt Nam Phạm B́nh Minh hôm 2/10 Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố Washington đă gỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Ngày 10/11 Cơ quan kiểm soát vũ khí và an ninh quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đă ban hành văn bản chính thức và có hiệu lực từ ngày kư. Các loại vũ khí mà Mỹ sẽ bán cho Việt Nam có thể là các hệ thống vũ khí trên không và tàu chiến.
Chính phủ Obama cũng đă lên tiếng hỗ trợ các quốc gia láng giềng của Trung Quốc trong tranh chấp hải phận. Tháng Hai 2014, Mỹ đă chính thức phủ nhận tính cách hợp pháp của cái "bản đồ 9 gạch" khi Thứ trưởng ngoại giao Daniel Russel tuyên bố trước ủy ban ngoại vụ của quốc hội Mỹ rằng, sự khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trong Biển Đông là "không phù hợp với các điều luật quốc tế" [10]. Đây là một chuyện chưa từng xảy ra trong lịch sử tranh chấp Biển Đông và là một tia hy vọng cho Việt Nam trong việc bảo vệ lănh hải. Đương nhiên đối với giới lănh đạo Trung Quốc th́ đây là một sự khiêu khích lớn.
Sự thay đổi chính sách ngoại giao và quân sự của Mỹ để đáp ứng tầm quan trọng của nền kinh tế và chính trị của vùng Đông Á đối với cường quốc này là một điều nhất quán nhưng có thể sẽ đưa hai quốc gia Mỹ và Trung Quốc vào những trường hợp đối đầu trực tiếp với nhau, đặc biệt là về mặt quân sự.
Chính phủ Obama đă bắt đầu xoay trọng lực quân sự từ Đại Tây Dương sang Thái B́nh Dương, tỉ dụ như đóng quân Thủy Quân Lục Chiến tại Úc và chuyển đa số các hàng không mẫu hạm về Hạm Đội Thái B́nh Dương. Năm 2013 hải quân Mỹ c̣n chuyển chiếc hộ tống hạm mới nhất và tối tân nhất là chiếc USS Freedom đến đóng thường trực ở Singapore. Đây cũng là một dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy sự quan tâm của Mỹ đến biển Đông.
Những lựa chọn chính trị của Việt Nam
T́nh huống tuy là bất lợi cho đất nước ta, nhưng cũng vẫn c̣n vài hy vọng. Quan trọng nhất là Việt Nam vẫn c̣n đóng chốt được trên một số đảo ở Trường Sa. Duy tŕ vị trí trên những đảo c̣n lại và củng cố sự hiện diện trên vùng EEZ là một yếu tố quyết định cho tương lai.
Một điều quan trọng là thái độ của Mỹ về Biển Đông. Nước Mỹ không c̣n thờ ơ nữa. Hơn nữa, chính phủ Mỹ bắt đầu lo âu v́ xu hướng ngày càng bành trướng của Trung Quốc. Những hành động của Trung Quốc đă gây xôn xao tại các nước đồng minh của Mỹ và là một yếu tố gây ra rủi ro cho nền kinh tế của vùng châu Á Thái B́nh Dương. Chính phủ Mỹ không bao giờ ngụ ư để Trung Quốc kiểm soát những tuyến đường hàng hải trên Biển Đông và sẽ hoàn toàn không chấp nhận để cho những mạch máu dẫn đến Nhật, Nam Hàn và ngay cả miền Tây nước Mỹ chạy qua hải phận Trung Quốc. Mỹ sẽ can thiệp nhiều hơn trong sự tranh chấp lănh hải này, thứ nhất là để ngăn ngừa một sự xung đột bạo lực, thứ nh́ là để giữ uy tín của các đồng minh tại châu Á.
Việt Nam phải tận dụng điều này. Mối liên hệ Mỹ Việt đang phát triển thuận lợi. Ngoài sự bang giao về chính trị và kinh tế, những bước đầu tiến tới b́nh thường hóa quan hệ quân sự hai bên cũng đă được tiến hành. Thí dụ tiêu biểu là những chuyến thăm cảng Việt Nam của các chiến hạm hải quân Mỹ.
Việt Nam phải tăng cường mối quan hệ với Mỹ, lấy Mỹ làm đối trọng để giữ cân bằng với Trung Quốc. Hơn nữa, nếu bang giao tốt đẹp, Việt Nam có thể được cơ hội mua vũ khí của Mỹ. Bỏ qua những hiềm khích của quá khứ để xây dựng tương lai, đó phải là chính sách để theo đuổi. V́ quyền lợi quốc gia, nước Mỹ đă vượt qua được nỗi đau chiến tranh Việt Nam. Hy vọng là ở Việt Nam cũng sẽ có những nhà lănh đạo sáng suốt làm được chuyện đó.
Việt Nam cũng phải liên kết nhiều hơn với các nước trong vùng, họ cũng lo ngại và bất b́nh với thái độ ngang ngược của Trung Quốc. Nếu tạo đuợc một sự thoả thuận với các nước ven Biển Đông về quyền sử dụng biển, tỉ dụ như theo hiệp ước UNCLOS, th́ sự tranh chấp sẽ biến thành một sự phân chia trên căn bản pháp lư quốc tế. Đó không phải là một điều bất lợi cho Việt Nam. Và nếu Việt Nam đạt được một sự bắt tay chặt chẽ với các nước trong vùng, đặc biệt là với Nhật và Nam Hàn, cả hai nước này đều nằm sát biển với Trung Quốc và hiện đang có những tranh chấp về biển với Trung Quốc, th́ việc lấn ép ngang ngược sẽ khó khăn hơn cho Bắc Kinh v́ Trung Quốc có thể bị cô lập trên chính trường ngoại giao. Đây là một chính sách thông thường theo câu châm ngôn của Napoleon Bonaparte "kẻ thù của kẻ thù tôi là bạn tôi". Một liên minh như thế cũng có thể tạo áp lực cho Bắc Kinh phải ngồi vào bàn tṛn đàm phán t́m giải pháp.
Những lựa chọn về quân sự của Việt Nam
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá so với các thập niên 70-80, cho phép ngân sách quốc pḥng cũng được tăng lên. Nhưng để có thể hiện đại hóa quân đội nhanh hơn, ngân sách quốc pḥng phải được tăng đến một tỷ lệ hơn hẳn 2,3 phần trăm GDP của năm 2013 (tương đương với 3,4 tỷ USD [5]).
Trong t́nh h́nh thế giới hiện nay, việc mua những hệ thống vũ khí tinh vi như chiến đấu cơ hoặc tàu chiến đă trở nên đơn giản hơn. Các nước phương Tây đua nhau bán vũ khí. Thụy Điển, từ xưa đến nay rất khắc khe trong chính sách cung cấp vũ khí cho các nước ngoài châu Âu, nay bán máy bay cho Thái Lan, Nam Phi. Thụy Điển cũng có thể bán chiếc chiến đấu cơ tối tân JAS-39 Gripen cho Việt Nam để đáp ứng nhu cầu thay thế những chiếc MiG cũ mèm. Chiếc Gripen được xem là một máy bay lư tưởng cho không quân Việt Nam: Hiện đại, đa năng, nhưng lại đơn giản và chi phí thấp trong việc bảo tŕ.
Ngay đến nước Pháp c̣n bán vũ khí cao cấp cho Nga, nước mà thành viên NATO này vẫn xem là đối thủ. Pháp đă đóng hai chiến hạm chở quân đổ bộ có sân bay hạng „Mistral“ cho Nga. Chiếc đầu là chiếc „Wladiwostok“ đă hoàn tất nhưng chưa được bàn giao v́ vụ xích mích ở Ukraine. Pháp cũng đă bán hỏa tiễn pḥng không loại „Crotal“ cho Trung Quốc. Hệ thống này được xem là tiền thân của các hệ thống hỏa tiễn pḥng không trên những chiến hạm của Trung Quốc hiện nay. Và đồng thời Pháp cũng đă bán 6 hộ tống hạm lớp „Lafayette“ và chiến đấu cơ „Mirage 2000“ cho Đài Loan năm 1996 [11]. Thế th́ có lư do ǵ để La Grande Nation từ chối cung cấp tàu chiến và máy bay cho Việt Nam?
Mặc dù ngân sách quốc pḥng có tăng gấp đôi nhưng có lẽ cũng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu tân trang của không quân và hải quân cùng một lúc. Để có thể tăng năng lực bảo vệ vùng biển một mức đáng kể trong thời gian tương đối ngắn, Việt Nam phải ưu tiên và tập trung vào việc tăng cường những khả năng:
*. Dành ưu thế và thống trị bầu trời: Ưu thế trên bầu trời là một yếu tố quyết định cho việc pḥng thủ trên đất liền hoặc ngoài biển cả. Các lực lượng bộ binh hoặc các chiến thuyền không thể nào hoạt động tự do và ít tổn thương nếu đối phương khống chế bầu trời. Thêm nữa, khi không quân kiểm soát được vùng biển giữa đất liền và các đảo, việc tiếp tế cho những đơn vị đóng trên các đảo cũng sẽ đơn giản hơn cho hải quân.
V́ vậy lực lượng không quân phải được tăng cường. Số máy bay MiG-21 và Su-22 phải nhanh chóng được thay thế. Việt Nam cần có một số lượng đáng kể các loại chiến đấu cơ có năng lực cao, đa dụng, tối tân nhưng không nhất thiết phải là thế hệ mới nhất và đắt nhất. Như đă mô tả bên trên, thị trường vũ khí hiện nay có nhiều lựa chọn. Máy bay khu trục đa năng của Nga như chiếc MiG-29 cũng phù hợp như máy bay của các xứ phương Tây như Thụy Điển (JAS-39 Gripen), Pháp (Rafale) hoặc Mỹ (F-16, F-18). Không quân Mỹ đă loại một số lớn chiến đấu cơ các loại F-16 A/B và F-18 C/D để thay thế bằng những loại mới hơn. So với MiG-21 và Su-22 của Việt Nam, và ngay với đa số máy bay của không quân Trung Quốc, th́ những máy bay này vẫn c̣n rất tân tiến. Nếu Việt Nam được mua vũ khí của Mỹ th́ có lẽ xác xuất được mua những chiến đấu cơ "second hand" này cao hơn là mua thiết bị mới nhất. Và đó cũng là giải pháp rẻ tiền và có tác dụng nhanh nhất.
*. Ngăn chận xâm nhập khu vực biển: Việt Nam phải tạo được khả năng cho ḿnh có thể gây thiệt hại đáng kể cho các lực lượng hải quân của đối thủ nếu xâm nhập hải phận của ta. Khi đối thủ đă đột nhập rồi th́ ta phải có khả năng để kềm chế hoạt động của chúng. Mục đích của khả năng này là tạo ra sự e ngại cho đối thủ đối với những rủi ro khi vào hải phận của ta, và như thế sẽ không xâm nhập nữa. Đó là khả năng được gọi là "Anti-Access/ Area Denial"(ngăn chặn xâm nhập/ đẩy khỏi khu vực).
Khả năng này có thể thực hiện bởi lực lượng không quân tấn công các đơn vị của đối phương trên mặt nước, dùng máy bay bắn hỏa tiễn chống chiến hạm, hoặc dùng hỏa tiễn bắn từ bờ chống tàu chiến. Để ngăn chận tàu ngầm xâm nhập hải phận, cần phải có máy bay hoặc chiến hạm có thiết bị chống tàu ngầm. Hiện nay hải quân Việt Nam chỉ có 7 hộ tống hạm có khả năng này.
Những tŕnh bày ở trên cho thấy nhu cầu khẩn cấp nhất là phải tân trang lực lượng không quân, không những với chiến đấu cơ phản lực đời mới mà ngay cả với máy bay săn tàu ngầm.
* Tuần tiễu và kiểm soát mặt biển: Máy bay không thể hoạt động lâu dài trên một vùng bởi thế cũng phải cần một số lượng chiến hạm lớn có khả năng đi tuần và hiện diện trong một thời gian dài trên mặt biển. Chỉ với hai chiếc hộ tống hạm tối tân "Đinh Tiên Hoàng" và "Lư Thái Tổ" Việt Nam hiện tại rất yếu về mặt này.
Một giải pháp nhanh chóng cho vấn đề này, đồng thời phù hợp với ngân khoản quốc pḥng, chỉ có thể đạt được bằng cách mua lại tàu chiến đang dùng hoặc được phế bỏ. Hải quân của các cường quốc phương Tây thường bán lại những tàu chiến không sử dụng nữa. Đặc biệt hải quân Mỹ luôn có một hạm đội trừ bị với nhiều chiến hạm vừa được loại ra khỏi hạm đội chủ lực. Hiện tại trong hạm đội trừ bị này có những chiến hạm lớp "Perry" và "Spruance" mà Mỹ cũng đă bán lại một số cho hải quân Đài Loan. Nhưng trong t́nh huống hiện tại th́ việc mua vũ khí của Pháp có lẽ vẫn c̣n dễ dàng hơn là mua của Mỹ, và như đă tŕnh bày ở trên, những hộ tống hạm lớp "Lafayette" có thể là một tăng cường rất thích hợp cho hải quân Việt Nam.
Kết luận
T́nh h́nh chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông hiện rất nguy kịch. Việt Nam chỉ c̣n giữ được vài ḥn đảo ở Trường Sa. Sức ép của Trung Quốc ngày càng mạnh. Nh́n về mặt quân sự th́ Việt Nam gần như không có khả năng tự vệ với lực lượng hải quân và không quân vô cùng yếu ớt so với Trung Quốc. Nhưng trong những năm gần đây có những phát triển tích cực nuôi niềm hy vọng là t́nh h́nh chưa bi đát và tuyệt vọng lắm. Đó là những bước đầu của chính phủ Việt Nam hiện đại hóa lực lượng hải quân và không quân. Những bất đồng về lănh hải giữa Trung Quốc và Nhật và Nam Hàn sẽ khiến hai nước này trở thành những đồng minh tương lai của ta v́ phải đối phó với Trung Quốc trong cùng một vấn đề. Và nhất là sự thay đổi chiến lược của Mỹ xoay về vùng Thái B́nh Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, Mỹ đă lên tiếng chống chính sách bành trướng của Trung Quốc và tỏ thái độ muốn cộng tác và trợ giúp Việt Nam trên lănh vực quân sự.
Trong t́nh huống này Việt Nam phải áp dụng một chính sách ngoại giao khôn khéo, tận dụng luật lệ quốc tế, tận dụng mối quan tâm của Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ về an ninh trên Biển Đông để giữ cân đối với Trung Quốc. Đồng thời Việt Nam phải tăng nỗ lực tân trang lực lượng hải quân và không quân của ḿnh, trong đó phải ưu tiên tăng khả năng dành ưu thế trên không và khả năng ngăn chận xâm nhập vùng biển. Hai điều này cuối cùng đ̣i hỏi sự ưu tiên cho lực lượng không quân. Với những biện pháp chính trị và quân sự đó, hy vọng chúng ta vẫn có thể giữ vững vùng biển tổ tiên để lại, và hy vọng rằng giới lănh đạo tại Việt Nam sẽ có sự sáng suốt để thực hiện những điều ấy.
Nguyễn-Xuân Vĩnh
CHLB Đức, 01.11.2014
(Dân luận)