VI
Trong sự thay đỗi chung của các quan niệm văn học như trên đă nói, lẽ tự nhiên là cái cách tự sự trong văn học Việt Nam cũng có thay đổi.
Với việc có ngay một trường thể nghiệm là báo chí và xuất bản, từ nay nghệ thuật viết truyện thoát ly hẳn lối kể truyền miệng mà t́m tới một mặt bằng phô diễn mới là trang giấy trắng.
Trên các trang sách giờ đây không c̣n lồ lộ bóng h́nh người đứng ra kể chuyện như xưa mà lúc này vai tṛ của tác giả là dựng nên khung cảnh để người đọc như được nhập ngay vào không khí trong truyện.
H́nh thức tự sự cũng ngày càng trở nên phức tạp, điều này có thể thấy rơ ở hai điểm: một là thay cho lối kể trước sau tuần tự dễ gây cảm giác tẻ nhạt, thời nay các tác giả thường hay nhảy ngay vào giữa sự kiện mà miêu tả để gợi không khí tiếp đó mới quay về những nguyên nhân ban đầu ;
và hai là không lan man rải ra mỗi chỗ một tí mà chỉ tập trung vào một vài sự kiện có tính cách tiêu biểu, nhờ thế cái nh́n của độc giả tập trung hơn mà cũng sâu sắc hơn.
Thử đọc lại truyện Cô hàng xén của Thạch Lam. Câu chuyện bắt đầu bằng cảnh cô Tâm đi chợ về tiếp đó mới ngược lên kể gia cảnh nhà nàng và vai tṛ của nàng trong gia đ́nh. Rồi tiếp theo đó là chuyện cô Tâm lấy chồng và phải đảm đang công việc bên nhà chồng . Nhưng tất cả những chuyên này được lướt qua rất nhanh để cuối cùng nhấn mạnh cái ư đời nàng ngày một khó khăn vất vả hơn và cuộc sống cứ thế mà kéo dài măi.
Đọc loại truyện này, với tư cách người đọc của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, chúng ta không lấy làm lạ. Nhưng đối chiếu với thi pháp tự sự thời trung đại phải nhận đây là cả một bước rẽ ngoặt.
Phương thức tự sự này đă h́nh thành ở phương Tây từ nhiều thế kỷ trước, đến thế kỷ XIX th́ trở nên thành thục, các nhà văn Việt Nam đă học được rất nhanh để tạo ra một chuyển biến mới cho đời sống văn học, và chỉ cần nh́n vào sự trưởng thành của tiểu thuyết đủ hiểu nghệ thuật tự sự ở Việt Nam thế kỷ XX đă thay đổi như thế nào.
Trường hợp của Việt Nam cũng là trường hợp của nhiều quốc gia khác ở phương Đông bao gồm từ các nước A rập tới các nước ở Đông Nam Á và cả Trung quốc.
VII
Thế nhưng trong khi vận dụng phương thức tự sự mới, những đặc điểm riêng trong tư duy tự sự của VN các thế kỷ trước vẫn bộc lộ, như những cá tính ở một con người, dù hoàn cảnh có thay đổi đến đâu th́ những nết xưa vẫn giữ măi.
Khi bàn về tiểu thuyết VN, các nhà văn ở ta thường nhấn mạnh tới tính chất gọn ghẽ cô đúc của nó, nét nó thanh (chữ của Nguyễn Công Hoan), các đường dây phát triển của nó rành mạch.
Thực tế là khoảng đến 90% tiểu thuyết Việt Nam là những cuốn sách ba bốn trăm trang khổ 13.19.
Xưa đă không có những pho nọ pho kia th́ ngày nay cũng rất hiếm những tiểu thuyết trên dưới ngàn trang.
Vả chăng cái tư duy tự sự trong cuốn sách mới là chuyện đáng nói.
Có thể gọi những Vỡ bờ của Nguyễn Đ́nh Thi, Sóng gầm của Nguyên Hồng là những bộ trường thiên tiểu thuyết viết theo thể roman fleuve trong nghệ thuật tự sự phương Tây.
Đọc cả hai, người ta nhớ tới Tam quốc Thủy hử th́ ít mà nhớ tới Gia đ́nh họ Thibault của R.Martin du Gard hoặc Con đường đau khổ của A.Tolstoi th́ nhiều hơn. Có điều, chúng mới nổi ở chỗ được triển khai theo chiều rộng kèm theo một khối lượng nhân vật lớn mà chưa thể nói là đạt tới một tŕnh độ mới trong việc bao quát hiện thực.
Theo ư chúng tôi loại như Nửa đêm của Nam Cao hoặc Giọt máu của Nguyễn Huy Thiệp đáng chú ư hơn v́ thời gian được miêu tả trong mỗi truyện kéo dài tới mấy đời người, để rồi hé ra cho thấy mối quan hệ oan nghiệt của các thế hệ trong một ḍng họ. Đó là một cách h́nh dung về sự liên tục của cuộc sống trên cơi nhân gian, một sự liên tục theo chiều dọc vốn là ít thấy trong cách tư duy của người b́nh thường ở ta, và lại càng ít khi được miêu tả trong văn chương.
Cả hai loại truyện nói ở trên đều đang quá ít đến mức qua đây chưa thể nói ǵ về tŕnh độ tự sự nói chung của các ng̣i bút văn xuôi. Do sự bao trùm của chiến tranh, sự lạc hậu của văn học VN nửa sau thế kỷ XX về mặt h́nh thức nghệ thuật là một sự lạc hậu tuyệt đối -- đây tôi chỉ giới hạn trong phần văn học Hà Nội. C̣n ở Sài G̣n trước 1975, t́nh h́nh dù có khá hơn song cũng vẫn là chưa đáp ứng được nhu cầu của sự biểu hiện đời sống cũng như chưa hiện thực hóa được hết những khả năng mà thời đại mở ra cho chúng ta.
VIII
Một khía cạnh khác của nghệ thuật tự sự là khả năng của người kể chuyện trong việc nh́n sâu nh́n kỹ vào một sự vật tả nó ra một cách tỉ mỉ, tức cũng là khả năng dừng lại kỹ càng ở sự vật đó để t́m thấy cho ḿnh một sự hứng thú trong việc nh́n ngắm nó và cảm thấy ở nó một bí mật có thể t́m hiểu măi mà không chán.
Khi bàn về Tính cách văn chương Việt Nam trước thời Âu hoá một trí thức khá nổi tiếng thời kỳ 1941-1945 là ông Đinh Gia Trinh đă viết “...Văn chương Việt Nam thiên về sự diễn hoặc ngụ những tư tưởng luân lư và sự tả những niềm riêng của một người. Nó đi vào trong tâm người ta hơn là nó vơ ấp lấy tạo vật. Tả tỉ mỉ một căn pḥng một sắc trời một thân thể người như các nhà văn tả chân bên Tây phương ? Không! Ở văn thuật Việt Nam khi xưa không có chỗ cho tài nghệ của một nhà tiểu thuyết tựa Balzac dành một trang sách để tả cái mặt ngộ nghĩnh của một nhân vật trong truyện Le cousin Pons, hoặc như Flaubert dẫn ta qua những bụi cây bên đường, dán mắt ta qua khe cỏ để cho ta mục kích mấy con nhện xôn xao chạy trên mặt nước “ (9).
Về căn bản những nhận xét trên đúng với nghệ thuật tự sự Việt Nam thời trung đại.
Bước sang thế kỷ XX, các nhà văn chúng ta đă cho phép chúng ta nghĩ khác.
Có thể dẫn ra chân dung của những Chí Phèo Thị Nở Lang Rận ở Nam Cao để thấy bây giờ con người đă nh́n kỹ vào gương mặt của nhau nhiều hơn hoặc nhớ lại vài đoạn phân tích tâm lư của Nguyễn Tuân trong các tập tuỳ bút để thấy văn chương đă tiến khá xa trong việc phanh phui đời sống bên trong của mỗi cá thể.
Song phải nhận t́nh h́nh tiểu thuyết VN hiện đại cũng giống như t́nh h́nh bên hội hoạ. Người vẽ ở ta có vẻ thạo các loại phác hoạ hay màu nước hoặc thích làm tranh sơn mài lộng lẫy. C̣n như nghệ thuật sơn dầu đặc tả thật kỹ từng sắc thái của sự vật, th́ kinh nghiệm chưa nhiều và h́nh như các hoạ sĩ cũng không thích làm nữa.
Đi sâu hơn vào kỹ thuật tự sự: trên thế giới ngày nay, bên cạnh lối trần thuật chỉ sử dụng có một điểm nh́n bắt đầu thấy thịnh hành lối tự sự có nhiều điểm nh́n. Đằng sau một chuyện thuần tuư kỹ thuật như thế này là cả một triết lư; có vẻ như nhờ được nh́n từ nhiều góc độ, thế giới hiện ra trong tác phẩm gần với thế giới thực hơn. Thế nhưng ngay ở thời điểm thế giới đă bắt sang một thiên niên kỷ mới, kỹ thuật này với người trần thuật ở VN và với đông đảo bạn đọc nói chung c̣n đang là một cái ǵ xa lạ. Người viết văn ở ta không mấy khi bàn bạc kỹ với nhau về các vấn đề kỹ thuật nghề nghiệp và đối với kỹ thuật tự sự th́ t́nh h́nh cũng là tương tự.
IX
T́m hiểu tư duy tự sự suy cho cùng tức là t́m hiểu cách h́nh dung của mỗi dân tộc về cuộc đời với tất cả bề rộng và bề sâu của nó mà họ có được trong quá tŕnh sống, bởi vậy nó c̣n liên quan đến ít nhất mấy khu vực nữa, một là khoa nghiên cứu lịch sử và hai là cách hiểu về cái thực đă trở thành truyền thống trong nền văn học của dân tộc đó. Mà các phương diện này ở ta th́ thế nào?
Nghề chép sử VN thời trung đại ít phát triển và sự thực là mới chỉ có một vài bộ thông sử ghi chép hoạt động của các triều đại các vua chúa, ngoài ra chưa có sử hay đúng hơn gần như chưa bao giờ nghĩ tới chuyện có những bộ sử đi vào các mặt sinh hoạt cụ thể các tầng lớp cụ thể, ví dụ lịch sử nghề nông, lịch sử đê điều, lịch sử trí thức, lịch sử tôn giáo....và hàng ngàn loại lịch sử khác như ở một nước cạnh ta là Trung quốc họ đă làm.
Sang thời hiện đại, một số công việc loại trên mới được bắt đầu song lại chẳng có tài liệu ǵ nhiều để làm việc.
Đến như các loại lịch sử ăn mày, lịch sử cờ bạc, lịch sử kỹ nữ... ( 10 ) chắc chắn ở VN không ai dám nghĩ tới việc viết như các đồng nghiệp ở Bắc Kinh Thượng Hải.
Lâu nay trong quan niệm của ông cha ta đây là những sự thực không đáng ghi chép.
Mà người xưa đă vậ th́ người hôm nay biết dựa vào đâu để viết ?
Và do chỗ hôm nay cũng không ai nghĩ chuyện ghi chép nên năm mươi năm sau cũng sẽ không ai viết nổi!
Sở dĩ chúng tôi nhấn mạnh tới khoa chép sử v́ ở nhiều nước, thực tế lịch sử chính là cái nguồn vô tận cung cấp đề tài và cốt truyện cho sáng tác văn chương.
Bởi tự sự là kể về đời thực, cho nên lẽ tự nhiên là quan niệm về cái thực của một dân tộc có vai tṛ chi phối đối với nghệ thuật tự sự ở dân tộc ấy. Thành thử chỉ cần nhớ lại một nhận xét cho rằng cái thực trong văn chương cổ điển VN không phải là cái thực khách quan mà là cái thực của tâm do nhà nghiên cứu Trần Đ́nh Hượu nêu lên (11) th́ người ta đă có một điểm tựa vững chắc để giải thích t́nh trạng yếu kém đơn điệu của nghệ thuật tự sự ở VN thời trung đại và t́nh trạng phát triển ngập ngừng của nó trong thời hiện đại. Cố nhiên đối với nghệ thuật trữ t́nh th́ phải nhận định một cách khác.
Chú thích
(1)Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên Văn học dân gian, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp H. 1974, t.II, tr.70
(2)Nguyễn Hiến Lê Sử Trung quốc NXB Văn hoá H. 1997, t.I,tr. 351
(3)Pearl Buck,Lê Đ́nh Chân dịch Tiểu thuyết Tàu, tạp chí Thanh Nghị 1944 từ số 83 trở đi
(4) Như (2),t.II,tr.67
(5) Đàm Gia Kiện chủ biên Lịch sử văn hoá hoá Trung quốc Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang Phan Văn Các dịch NXB Khoa học xă hội H. 1993, tr.277
(6)Trương Ái Linh Hoa hồng trắng hoa hồng đỏ, NXB Phụ nữ H. 2001, tr.7
(7)Chú ư là trong văn học cổ điển VN c̣n nhiều trường hợp có sự vay mượn cốt truyện từ văn học Trung quốc như Truyền Kỳ mạn lục, Ngọc Kiều Lê hoặc về sau một chút là Đào hoa kư...
(8)Câu chuyện trong Hoàng Lê nhất thống chí có thể bao quát mấy đời vua và số lượng nhân vật ở đây cũng khá lớn. Nhưng đây là do nhu cầu của việc ghi lại lịch sử chứ không liên quan đến tư duy tự sự.
(9)Đinh Gia Trinh Tính cách văn chương VN trước thời Âu hoá tạp chí Thanh Nghị 1941 số 2-3,in lại trong Hoài vọng của lư trí NXB Hội nhà Văn 1996,tr.27
(10)Đây là một xê-ri sách được NXB Trẻ TP HCM cho in trong năm 2001, người khởi xướng dịch và bắt tay trực tiếp dịch là nghà nghiên cứu Cao Tự Thanh.
(11) Trần Đ́nh Hượu Thực tại cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học VN trung cận đại in trong Nho giáo và văn học VN trung cận đại NXB Văn hoá thông tin H.1995 tr.443.
Nguồn: Vuongtrinhan Blog