Đó là năm 1964, tôi và các con đang ở thành phố Dalat. Tôi vừa 18 tuổi, hai con, một gái, một trai. Ba mẹ con sống với nhau hồn nhiên như cây cỏ trong ngôi nhà hai từng rộng lớn vắng người, trên một ngôi đồi mà người ở đó gọi là đồi Miên – tên ông nội hai đứa nhỏ. Nhà không cổng ngơ, không hàng rào, đồi rộng thênh thang, từ hông nhà ngó
xuống, là một thung lũng nhỏ xanh ŕ, nh́n mông ra xa thấp thoáng đâu đó mầu đỏ của ngói bên cạnh những vườn trồng rau quả xanh ngắt, tiệp với màu của lá cỏ. Nổi lên trên màu xanh mượt mà như tấm áo dạ hội bằng nhung, tôi có thể biết được đó là những vườn hoa.
Thuở đó, Dalat đẹp lắm. Người ta bảo Dalat đẹp bởi có 4 mùa giống như Hà Nội nên con gái Dalat tuy ít người xuất sắc nhưng ai nấy đều xinh xắn với nước da trắng hồng, mái tóc đen dày óng mượt. Tất cả đều vô tư, hồn nhiên và hiền lành. Các bà bán hàng trong chợ, dù là bán mắm cá, cũng mặc áo dài, bán đậu hủ rong cũng áo dài, bán ngô nướng lúc nửa khuya, bán ḿ Quảng, xôi gà cũng áo dài, hai má cứ ửng hồng lên bên cạnh bếp lửa.
Dalat có 4 mùa nhưng mùa nào cũng mát vào ban ngày, lạnh về đêm, chính thế, người ta mới thú vị khi cầm cái ngô nướng thoa mỡ hành c̣n nóng hổi, người ta mới cảm thấy cái nhẹ nhơm khi bước ra từ những pḥng tắm nước nóng, xê xế rạp ciné Ngọc Hiệp. Bước qua bên kia đường, người ta có thể ghé vào tiệm cháo vịt, tiết canh vịt, gỏi vịt và ngay bên hông tiệm thịt vịt, cái quán ḿ Quảng nhỏ xíu, mái che là một vài tấm ván ép ghép với 4 cái ghế. Hai vợ chồng người bán ḿ Quảng tay thoăn thoắt đơm bún, chan nước hay dọn dẹp cái mặt bàn cũng chỉ là một tấm gỗ dài. Người bán vui cười nh́n khách xuưt xoa ăn trong cái nóng của bún, cái lạnh của con phố về khuya, vắng người.
Điều chắc chắn phải nói là người Dalat hiền. Hiền như nước mưa, nước suối. Hiền như cây trái tốt tươi. Hiền như hoa như gió. Như tiếng chuông reo bốn mùa. Hiền như băi xe lam dăm ba chiếc im ĺm nơi bến đậu. Hiền như những cơn mưa bất ngờ bay nghiêng qua thành phố, không hề làm rối chân khách bộ hành. Những con đường vắng lặng. Những ngôi biệt thự nằm xa nhau, không tường bao bộc, chỉ có hoa và hoa dưới những cây thông rải rác, tưởng như mọc vô t́nh không người săn sóc. Ấy thế mà trong cái vô t́nh gần như hoang dă ấy, luôn có những lúc rộ lên tiếng cười rộn ràng ngây thơ. Đời sống đẹp và đáng sống biết bao nhiêu.
Trước đó 2 năm, nói chính xác là vào tháng 11 năm 1962, khi tôi lên Dalat t́m sống, cùng đi trên chuyến xe đ̣ Minh Trung với tôi, là chị Ngân Hà, một ca sĩ đẹp và được biết đến, không hiểu v́ sao chị bỏ Sài G̣n ra đi. Lúc đó, người ta chưa nói đến chiến tranh. Sài G̣n đất rộng, người ít. Đời sống dễ dàng, người dân miền Nam chơn chất như ngọn lúa đồng bằng, cá tôm sông lạch, con đường Tự Do, sáng, trưa, chiều, tối chỉ khoảng trên một chục khách bộ hành, xích lô vài chiếc thông thả đạp như thi sĩ thơ thẩn t́m nàng thơ. Taxi cũng thỉnh thoảng ghé qua đỗ người xuống. H́nh như Sài G̣n rất bằng ḷng với nhịp sống thong thả, nhàn hạ. Thói quen của miền Nam trù phú đụng đâu cũng có cái ăn.
Tôi nhận lời lên hát cho Night Club ở Dalat với giá 2500 đồng một tháng, có cơm hai bữa và ngủ chung với các chị ở vũ trường, nếu không muốn về nhà. Kể ra th́ không nhiều nhưng cũng chẳng hẹp ǵ lúc đó, lương Trung Úy cũng chỉ được như thế thôi. Ông bà nội của hai đứa nhỏ ở đó, tôi có cả nguyên một từng dưới rộng thênh thang. H́nh như đây là kiểu nhà sàn lúc khởi thủy cất lên, nhưng rồi sẵn cột, xây thêm thành nhà hai tầng, chưa kể chung quanh đất trống, không trồng trọt ǵ ngoài mấy cây ổi, mấy giàn xu. Bên nội dường như chẳng ai để ư ǵ đến mấy mẹ con tôi ngoài chị Lê Quyên. Vài tháng sau, tiền lương được tăng, tôi t́m một người giữ con và ngày ngày nhảy xe lam, xe đ̣ ra chợ Dalat.
Từ ngày di cư vào Nam, dẫu mới có 10 tuổi, tôi phải trông em, giặt quần áo, đi chợ rồi mới đi học. Mấy anh chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau nhưng lại chẳng bao giờ có th́ giờ hay có chuyện ǵ để chia sẻ với nhau. Nói tóm lại, tuổi thơ của tôi hoàn toàn mờ nhạt, không có ǵ đáng ghi nhớ trong sinh hoạt gia đ́nh, ngoại trừ ông bố đêm nào cũng say rượu và bà mẹ hết ca cẩm chồng đến mắng chửi con. Dalat chính là khoảng trời tôi mơ ước, tưởng chừng như cuộc sống ngừng lại ở đó… Nhưng không. Cuộc đời tôi bắt đầu. Từ đó, ở đó.
Vũ trường Night Club dọn ra hôtel Du Parc, cạnh Nhà Thờ Chánh Toà, Bưu điện và đài phát thanh Dalat. Bà chủ vũ trường là một người Việt Hoa, có một đứa con lai không biết lai ǵ, khoảng 6, 7 tuổi. Bà mướn một căn pḥng ngay bên kia đường cho các chị vũ nữ ở, có người nấu cơm. Tôi thường ngủ lại đây v́ khuya chẳng có ai đưa tôi về tận Chi Lăng. Trong căn nhà nhỏ này, tuyệt không có bóng dáng một người đàn ông, thế nên tôi thích ngủ lại để sáng hôm sau đi chợ rồi mới về nhà, mang đồ ăn, bánh kẹo và chơi với con rồi chiều tối, lại đi xe lam đến Vũ Trường. Căn phố đó nằm cạnh quán café Myosotis, không biết bây giờ có c̣n không.
Night Club là Vũ Trường duy nhất ở Dalat. Với khí hậu lành lạnh về đêm là nơi giải trí lư tưởng của thành phố du lịch, vậy mà khách khứa cũng không có bao nhiêu. Lính Mỹ, cấp cố vấn, mới được vào thị xă chơi chứ những cậu học tṛ vừa mới hết Trung Học, rời gia đ́nh đến một đất nước xa lạ, nên có vẻ sợ sệt. Người của thành phố, muốn đi, sợ gặp người quen, khó chối tội với vợ, thế nên ban nhạc đêm đêm cứ chơi những bản nhạc trữ t́nh, chúng tôi vẫn hát, các chị ngồi uống nước tán gẫu hoặc nhảy với nhau. Mỗi đêm vài ba bàn khách. Mọi người b́nh thản nh́n nhau, chờ ngày cuối tuần. Có những đêm Vũ Trường gần đóng cửa, một băng Không Quân áo bay đen khăn quàng cổ màu tím hoa cà, bất ngờ xuất hiện đứng thành một hàng dài nơi cửa. Nhà hàng không chạy lại đón khách. Chúng tôi không ai ngạc nhiên. Chuyện này xảy ra thường. Tôi lặng lẽ lên sân khấu, ban nhạc hiểu ư chơi bài “Gửi gió cho mây ngàn bay”. Tôi hát xong, những chiếc khăn quàng màu tím hoa cà lặng lẽ quay ra, đi vào đêm tối, nơi các anh từ đó bước ra. Không bao giờ hỏi nhưng tôi biết một phi vụ vừa hoàn tất.
Những đêm trời lạnh, mưa rất nhẹ, không ǵ thú vị hơn ngồi hát hay nghe một t́nh khúc Tiền Chiến. Những người lính Mỹ non trẻ kia đang miệt mài bước nhảy, cố quên đi nỗi buồn xa nhà, nỗi lo sợ súng đạn trên mảnh đất mà họ không bao giờ hiểu được v́ sao họ đến đây. Họ lại càng không hiểu ư nghĩa của khúc hát kia. Chỉ biết trong đêm lạnh, khúc hát buồn, tiếng hát c̣n non trẻ với những ước mơ chưa thành h́nh và nỗi ḷng khắc khoải của kẻ xa nhà quấn quít lấy nhau ấm áp chia sẻ đến không ngờ. Nhiều năm sau, nếu những người lính ấy c̣n sống mà trở về, chắc chẳng bao giờ họ nghĩ đến cái vũ trường xưa, nơi thành phố có những cơn mưa bất ngờ nghiêng nghiêng bay trên con phố vắng người vào những đêm gió lạnh. Cũng có thể họ đă không bao giờ trở về để mà nhớ.
Tôi không sống với gia đ́nh nhiều. Tôi không có bạn gái. Bạn của anh tôi cũng là bạn của tôi. Chúng tôi gọi nhau bằng …chú và xưng tôi, không có anh em ǵ cả. Có lẽ thế, tính tôi không hề có chút dịu dàng nào cho đến khi có con và chỉ dành cho con. Có lẽ thế, tôi dễ sống chung với các chị vũ nữ mà tôi thật sự quư mến như một gia đ́nh. Các tay …anh hùng hảo hán ở Sàig̣n, Dalat h́nh như cũng rất quư tôi, đứa em gái lạc loài, lờ khờ trong thế giới muôn mặt về đêm. Chẳng ai hỏi tôi từ đâu đến, con cái nhà ai. Tôi cũng không ṭ ṃ về cuộc sống của các chị vũ nữ.
Thời bấy giờ, giới vũ nữ là giới làm rất nhiều tiền và rất nhiều người có học. Họ chỉ trở thành vũ nữ để giúp gia đ́nh trong khoảng th́ giờ rỗi rảnh. Công việc của các chị ấy là nhảy với khách hàng, những người đi Vũ Trường một ḿnh, những người mới biết khiêu vũ. Thời 60, khiêu vũ là một nghệ thuật. Mọi người nhẩy lấy đẹp, nhẩy biểu diễn. Khiêu vũ là một nghệ thuật, không hề có ư đen tối, lợi dụng. Khách đến Vũ Trường và vũ nữ đối xử với nhau lịch sự. Có những chị nổi tiếng chỉ v́ nhẩy giỏi, nhẩy đẹp. Các chị không đi đêm với khách, tôi biết v́ tôi ở cùng các chị một nhà.
Vũ Trường đóng cửa, ai muốn đi ăn đêm th́ thường chạy tới tiệm xôi gà trước mặt khách sạn Thủy Tiên, sau lưng tiệm bánh mỳ Xương Kư đầu con dốc Hàm Nghi. Chủ quán là cặp vợ chồng trẻ, con ông bà Bắc Hương cơm tám, gị chả nằm gần café Tùng – ông bà chủ quán xôi này hiện đang ở Porland, Oregon - nhiều đêm, vừa thấy mặt tôi, cô vợ da trắng, má hồng cười như hoa nở, hét toáng lên… Đùi Khánh Ly… Phao câu Khánh Ly… câu rao ngắn gọn làm ai cũng quay lại nh́n tôi cười. Và tôi không hề cảm thấy ngượng ngùng, sà ngay vào hàng cầm chiếc đùi gà, miếng phao câu béo ngậy, đĩa xôi trắng dẽo thơm phức mỡ hành. Ở một thành phố nhỏ như Dalat, ai cũng biết mặt nhau.
Cùng đi ăn với chúng tôi là một số các …anh hùng có tên tuổi. Những cái tên ngộ nghĩnh đôi khi do thành tích mà có. Các bạn ấy c̣n trẻ, có người trạc tuổi tôi, có người lớn hơn nhưng ai cũng làm mặt nghiêm, lạnh lùng ít nói. Họ làm ra vậy giữa chốn đông người, thật ra, họ dễ thương, sống có t́nh nghĩa. Họ có bổn phận bảo vệ nhà hàng, các chị vũ nữ, ca nhạc sĩ. Mấy ông say xỉn quậy phá, gây gỗ, họ là người giải quyết, giảng hoà hoặc mời các ông đi về chứ không bao giờ họ gây chuyện rắc rối cho nhà hàng. Giới giang hồ, các chị vũ nữ và ca nhạc sĩ v́ thế mà gần nhau, thương nhau và luôn bênh vực cho nhau. Thời đó, dưới mắt tôi, họ là những người hùng. Cách sống của giới này ảnh hưởng đến lối sống và cách suy nghĩ của tôi không ít.
Tôi hát chưa ra ǵ nhưng lại được nhiều người thương thế nên cuộc sống mấy mẹ con coi bộ cũng đỡ khổ. Tôi mua quần áo đẹp nhất Dalat cho con tôi ở tiệm Au Printemps. Tôi sục vào lầu trên của chợ Hoà B́nh, nơi bán quần áo cũ của Mỹ - hàng viện trợ - t́m mua áo da, váy len, giầy bốt. Diện vào, ai dám nói là quần áo cũ. Tôi thường tới quán café nơi Bích Ly, chị cả của ban CBC ngồi giữ két, nói dóc. Bích Ly và tôi h́nh như bằng tuổi nhau hoặc Ly kém tôi một tuổi ǵ đó. Hai đứa cùng tên Ly, cùng đen đen như nhau, giọng cũng khào khào giống nhau nên bắt chuyện gớm lắm… Giờ gặp lại trên xứ Mỹ, hai đứa vẫn tưởng như đang ngồi trong quán café ở Dalat.
Thời đó, tôi mới 18 tuổi, c̣n ham ăn, ham chơi. Chẳng có ǵ thú vị cho bằng quăng giày dép, chân không, đi, chạy, nhẩy khắp Đồi Cù, xuống Toà Tổng Giám mục, men theo con đường T́nh Yêu dẫn lên Toà Tỉnh rồi lại lên Đồi Cù nằm khểnh dưới gốc thông hoặc thẳng tay chân trên băi cỏ thênh thang nh́n ngắm mây trời. Không nhớ đến ai cũng không cần biết ḿnh là ai, ngày mai sẽ ra sao. Không nhớ ai thật, không cả yêu đương. Không hề nghĩ đến gia đ́nh và Saigon. Tôi thương các con song thường tự hỏi v́ sao tôi có chúng trong khi tôi chẳng có một chuẩn bị nào, chưa hề có một khái niệm về gia đ́nh. Những lúc lang thang trên Đồi Cù, cùng các bạn gái đắm ch́m dưới suối Liên Khương, tôi ước ao trở lại tuổi 14, 15. Có lẽ, tôi sẽ bắt đầu cuộc đời của tôi một cách khác.
40 năm trước, đó là ư nghĩ của một thiếu phụ tuổi 18, nằm ngủ quên dưới gốc thông già. Buổi trưa nắng vàng chan hoà trên cỏ lá, tiếng thông reo ngân dài, bất tận như một lời ru buồn. Lời ru âm thầm đi vào giấc ngủ và ở lại đó. Lời ru buồn. Rất buồn…
Ngày di cư tôi, tôi mới 9, 10 tuổi.Chưa kịp làm quen với Sài G̣n, c̣n đang lạ lùng với cách nói cười rộn ràng rất Nam kỳ, c̣n thích thú xé tờ giấy một đồng làm hai, gọi là 5 cắc đủ mua một ly đá nhận xi-rô, đă theo gia đ́nh lên Dalat. Đó là năm 1956. Bố tôi – tức dượng nếu gọi theo tiếng miền Nam, tôi gọi dượng bằng bố theo lời mẹ tôi dặn – làm việc ở Ty cảnh sát Dalat. Gia đ́nh tôi ở một biệt thự khu Chi Lăng. Căn nhà nằm lưng chừng con dốc ngắn và tất cả đều xây một kiểu giống nhau. Tôi chưa bao giờ đi hết con dốc đó để biết c̣n ǵ phía sau v́ tôi bắt đầu đi học.
Trường tiểu học Phan Chu Trinh nằm ngay một ngă tư.Trước mặt nó là khu đất trống có con đường nhỏ dẫn vào đồi Bà Miên, nơi mà ít năm sau này, lại chính là nơi mẹ con tôi ở. Con đường đó cũng đưa vào trường Đại Học Quân Sự và khoảng đất trống trước mặt trường Phan Chu Trinh năm nào nay đă xây đầy những biệt thự của các ông Tướng. Căn đầu tiên là nhà của tướng Thái Quang Hoàng, cách 2 căn là tướng Đỗ Cao Trí. Tôi vào học lớp một v́ chuyển qua chương tŕnh Việt, nên chẳng hiểu ǵ cả, thậm chí không biết đọc tiếng Việt, trong khi chị tôi, chị Lệ Yến, lại được bố mẹ tôi cho học tại trường Domaine de Marie, chương tŕnh Pháp-Việt.
Từ nhà đến trường không xa lắm mà cũng không gần. Tôi đi bộ lúc đi và cả lúc về. Bấy giờ, ngoài Ngọc Anh, tôi biết ḿnh có thêm 3 đứa em nữa. Duyên Hải, Tố Loan, Tố Uyên. Sau giờ đi học, tôi làm những ǵ mẹ tôi bảo làm nhưng thường trốn nhà ra hồ Chi Lăng chơi. Chân không mang giày dép, thơ thẩn đi quanh tụt xuống ven hồ ṃ ốc hoặc lượm …cứt để chơi – tôi tưởng đó là thuốc tể như của bà nội. Ở đó có một biệt thự to lắm. Người ta bảo nguyên khu Chi Lăng này, ngày xưa dành cho người Pháp, và các căn biệt thự của chúng tôi cũng vậy! Cái Hotel Chi Lăng với cái giếng nước giả xây trước mặt cũng là nơi người Pháp thường đến nghỉ hè. Thời đó chưa có tên Chi Lăng mà là Saint Benoit. Măi sau này vẫn c̣n những người gọi thế.
Tan học tôi thường không đi theo đường chính mà chui qua những bụi cây, những hàng thông, những khóm lay-ơn đủ màu mọc khắp mọi nơi nhưng không bao giờ tôi bẻ hoa, chỉ t́m loài dây leo để đem về chơi nhảy dây. Bố mẹ tôi ít khi nh́n thấy tôi, ông bà gần như không để ư, không hỏi đến nếu không có ǵ để sai bảo, dặn ḍ. Tôi lại cảm thấy khoái hơn dù đôi lúc cũng tủi thân khi không được mẹ ngó ngàng.
Ngoài con đường từ nhà đến trường và ngược lại, ngoài khung cảnh yên tĩnh của hồ Chi Lăng, tôi chui xuống cái rảnh nước chảy quanh nhà, đắp đất trồng bắp cải từ những cuống cải già bị cắt bỏ, có chút xíu mầm, mà tôi tưởng là sẽ sống được. Tôi có thể lang thang trong những khoảng đất trồng đầy cỏ dại để t́m hái trái mâm xôi, bứt dây rừng, xuống hồ Chi Lăng vọc nước, bắt ốc, hoặc ngồi dưới cái rảnh nước ấy cả ngày, nếu không có ai t́m.
Qua đến năm 1957, gia đ́nh tôi phải chuyển về Saigon. Hơn một năm ở Dalat, có một vài điều đă khắc sâu vào tâm trí non nớt của tôi và không bao giờ tôi quên. Nó là những vết cháy dẫu đến ngàn năm vẫn c̣n hằn dấu…. Trước ngày di cư, Hà-nội mở một Hội Chợ, ở đâu th́ tôi không nhớ nhưng có lẽ do người Pháp tổ chức sau khi hội nghị Genève được kư kết. Tôi đi hội chợ với một thằng nhỏ ở cùng đường, tên nó tôi c̣n nhớ, nó là thằng Đồng. Hội Chợ th́ thường có nhiều tṛ chơi, vậy mà tôi chỉ nhớ là có một gian hàng nhỏ có dựng sân khấu cho mọi người thi hát, tôi đă leo lên và hát bài “Thơ Ngây”…. Khi ấy em c̣n thơ ngây, đôi mắt chưa vướng lệ sầu …, rồi leo xuống lủi mất tiêu. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi cất tiếng hát. Lúc c̣n học nội trú St Marie, tôi cũng được lên sân khấu, chỉ đội lốt làm con thỏ mà thôi, nhưng trước đó, trước đó gần chục năm…
….Tôi sinh ra vào một buổi chiều ngày 6 tháng 3 năm 1945 tại nhà thương Bạch Mai. Ba ngày sau đảo chính Nhật, dân Hà-nội sơ tán về các vùng xa thành phố, bố mẹ tôi cũng mang chị em tôi chạy ra khỏi Hà-nội.Mới có 3 ngày, tôi làm sao biết được những ǵ đă xảy ra nhưng khi hơn 1 tuổi, tôi đă nhận biết và nhớ cho đến ngày hôm nay và một vài sự việc mà lúc nào tôi cũng tưởng như c̣n rất mới… Hai chị em chúng tôi được gánh đi, mỗi đứa ngồi một cái thúng, chị Yến được chú Tích cơng. Cùng vài người nữa, cả nhà tôi cứ xuyên rừng, lội sông, lội suối, trèo đồi, trèo núi mà đi. Một ngày trên đường đi gặp ngôi chùa hoang, mẹ tôi đặt tôi nằm trên cái bệ cao và kết quả là tôi ngă xuống giập cằm vào cái bệ xi-măng. Vết thương sâu lắm, ăn cơm ḷi cả cơm ra ngoài. Bố tôi lấy vải trắng băng lại và buộc trên đầu. Vết sẹo khá dài vẫn c̣n đây. Bố tôi đă làm dữ v́ với ông, tôi là…ḥn ngọc đen yêu quư của ông.