Đặng Tiểu B́nh coi hành động nầy là sự phản bội của CSVN đối với TQ. Cuối năm 1978, Hà Nội đưa quân sang Cam Bốt, lật đổ chế độ Pol Pot, xóa bỏ Nhà nước Campuchia Dân chủ, dựng lên nước Cộng ḥa Nhân dân Campuchia do số cán bộ Khmer Đỏ thân Hà Nội lănh đạo. Bắc Kinh không ngớt lên án “tiểu bá” VN liên kết với “đại bá” LX thực hiện mưu đồ bá quyền ở ĐNÁ. Đầu năm 1979, TQ b́nh thường hóa bang giao với HK, ngay sau đó Đặng Tiểu B́nh đến thăm Mỹ và hô hào “Trung Quốc, Tây Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ cần phải thống nhất trong một liên minh chống bá quyền”. Đặng tuyên bố: “Bắc Kinh sẽ dạy cho VN một bài học”. Ngày 17/2/1979 TQ huy động 20 vạn quân mở cuộc tấn công quy mô vào VN trên tuyến biên giới dài 1000 cây số.
Năm năm sau khi HK chấm dứt cuộc chiến VN, các nước CS đánh nhau, bắt đầu giai đoạn thoái trào của chủ nghĩa Cộng sản. LX, TQ và CSVN đều chủ trương đổi mới để sống c̣n. Đặng Tiểu B́nh mở cửa TQ, giao thiệp với thế giới, kêu gọi Mỹ, Nhật và Tây Âu giúp ông thực hiện “bốn hiện đại hóa TQ”. Với chính sách mở ngỏ, TQ đă phát triển mạnh và mau lẹ việc giao thương với bên ngoài, đứng đầu là Nhật lên đến 10 tỷ Đôla vào năm 1985, kế đó là Tây Âu 6,8 tỷ. HK đứng thứ ba chiếm 11% trong tổng số ngoại thương của TQ với 4,4 tỷ đôla. Có lẽ nhờ thành tựu này mà Nhật báo Bắc Kinh ngày 7-12-1984 đă phê phán giáo điều Mác Lê không c̣n phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và xă hội của TQ ngày nay. Bài báo viết “Marx chết cách đây 101 năm, tác phẩm của ông được viết ra hơn một thế kỷ trước. Có nhiều điều mà Marx, Engels và ngay cả Lenin cũng chưa từng kinh nghiệm. Chúng ta không thể trông cậy vào tác phẩm của Marx và Lenin của thời trước để giải quyết các vấn đề của thời nay”. (Trung Cộng có từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê hay không? Bài của kư giả Arnold Beichman/Báo Los Angeles Times, Việt Luận Úc châu 1/3/1985)
Về phần LX, lănh tụ Gorbachev chấp nhận sự tan ră của khối Cộng sản Đông Âu, đồng ư việc thống nhất nước Đức, đồng thời đề ra các biện pháp cải cách chính trị một cách sâu rộng như chế độ tổng thống được thành lập, vai tṛ độc quyền lănh đạo của Đảng CS bị hủy bỏ, hệ thống đa đảng được chấp nhận ở Liên Xô. Nhờ đó, Gorbachev trở thành người bạn chân thành của TT Ronald Reagan. Gorbachev cũng bày tỏ ư muốn tái lập mối bang giao thân hữu với TQ. Đặng Tiểu B́nh đưa ra ba điều kiện tiên quyết: LX phải rút quân khỏi Aghanistan, giảm quân số ở biên giới Nga Hoa và áp lực Hà Nội phải rút quân khỏi Campuchia. Gorbachev đáp ứng trọn vẹn ba đ̣i hỏi của Đặng Tiểu B́nh, ông đến Bắc Kinh được sinh viên TQ đón chào như là một anh hùng cải cách của thế giới CS.
Đối với CSVN, Gorbachev khuyến cáo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nối lại bang giao với TQ, hợp tác với Bắc Kinh giải quyết cuộc chiến ở Campuchia. Tháng 9/1990, Nguyễn Văn Linh cùng Thủ tướng Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Lê Đức Anh và Cố vấn Bộ Chính trị Phạm Văn Đồng đến Thành Đô gặp Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng. CSVN tôn TQ làm minh chủ lănh đạo các nước XHCN, và đưa ra giải pháp Đỏ: hai nhóm Khmer Đỏ Pol Pot và Hun Sen sẽ hợp tác lănh đạo Cam Bốt để xây dựng XHCN. Đề nghị trên bị Bắc Kinh bác bỏ, nhưng bang giao giữa CSVN với TQ đă được tái lập. Nguyễn Văn Linh tuyên bố: “dù bành trướng, nhưng TQ vẫn là nước xă hội chủ nghĩa”. Đối với CSVN, xă hội chủ nghĩa quư hơn đất nước, thà mất nước chớ không để mất Đảng, mất XHCN. Thấy được điều đó, Giang Trạch Dân đề ra phương châm cho mối bang giao mới giữa hai nước và hai đảng: “hợp tác toàn diện” với tinh thần “đồng chí tốt”.
Nay ông Trương Tấn Sang đến Bắc Kinh thảo luận mối quan hệ đối tác chiến lược với TQ, Tập Cận B́nh đưa ra bản Tuyên bố chung do TQ khởi thảo, cho thấy TQ muốn công khai hóa sự “hợp tác toàn diện” của VN đối với TQ. Và những văn kiện mà ông Sang vừa kư chỉ nhằm “thúc đẩy, mở rộng, tăng cường, làm sâu sắc thêm” sự “hợp tác toàn diện”, mà thực chất là sự “lệ thuộc toàn diện” vào TQ. Blogger Bùi Tín c̣n nêu thắc mắc là trong bản Tuyên bố chung VN-TQ “không hề có một chữ nào về Hoàng Sa và Trường Sa”. Đây cũng là điều dễ hiểu, lâu nay TQ luôn khẳng định hai quần đảo nầy thuộc TQ, không có ǵ cần phải tranh căi. V́ lẽ HCM và Phạm Văn Đồng đă “nhất trí” với Mao Trạnh Đông và Chu Ân Lai từ năm 1958. Là “đồng chí tốt”, CSVN không nêu vấn đề TS và HS với TQ nữa.
Trước thảm họa đất nước đang bị Hán hóa, ông Trương Tấn Sang đến Mỹ, gặp TT Obama với món quà tuy tầm thường nhưng mang nhiều ư nghĩa. TT Obama tiếp đón ông cũng tầm thường và đầy ư nghĩa. Nước Mỹ không trải thảm đỏ, không có đội quân danh dự quốc gia dàn chào, không bắn đại bác chào mừng, không một viên chức cao cấp nào từ phía Mỹ ra nghinh đón, cũng không có quốc yến khoản đăi nguyên thủ một quốc gia. Có lẽ TT Obama không thừa nhận ông Sang là Chủ tịch nước Cộng ḥa (XHCN) Việt Nam mà chỉ là Chủ tịch Cộng ḥa XHCN/VN -một phần đất tự trị thống thuộc TQ. V́ thế ông triệu tập Đại sứ Mỹ ở Hà Nội trở về Washington ra sân bay đón Trương Tấn Sang.
Danh dự cá nhân không quan trọng bằng lợi ích tối thượng của đất nước. Dù bị chính giới Mỹ coi thường, song ông Sang vẫn bày tỏ ư muốn được hợp tác với Mỹ như ông HCM đă có ư nghĩ này từ năm 1946, nhưng nay trong hoàn cảnh khác xưa. Ngày trước ông Hồ nêu vấn đề độc lập, yêu cầu Mỹ ủng hộ VN chống lại những chèn ép của Pháp. Đây là vấn đề thương thảo giữa VN với Pháp, và ngay bước đầu Pháp đă công nhận VNDCCH là một nước cộng ḥa tự do, nên HK đứng trung lập, không ủng hộ ai cả. Nhưng từ sau 1948 khi Quốc gia VN độc lập ra đời, ông HCM cầu viện khối CS ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Sau đó Đảng CSVN tái hoạt động với danh xưng mới Đảng Lao động VN (1951) và tư tưởng Mao được ghi vào điều lệ của Đảng. CSVN công khai tuyên bố VNDCCH là tiền đồn phe XHCN ở ĐNÁ. Đầu năm 1965, HK đă trực tiếp can thiệp để kết thúc chiến tranh VN, giúp người dân được hưởng tự do, đất nước VN độc lập không lệ thuộc bất cứ cường quốc nào. Nay, Chủ tịch nhà nước VN đến Mỹ và bày tỏ ư muốn hợp tác với Mỹ trong hoàn cảnh VN đang bị TQ khống chế nặng nề. Đó là hậu quả tất nhiên do việc ông HCM đă chọn chủ nghĩa CS và những người kế nghiệp ông tiếp tục con đường sai lầm này, gây biết bao tang thương cho dân tộc trong hơn nửa thế kỷ qua. Tôi kỳ vọng ngày nay Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ giải tỏa mọi thảm họa, giúp đất nước hồi sinh, dân tộc độc lập, tự do, phú cường.
Có điều may mắn cho dân tộc và cũng là điểm thuận lợi của ông Sang là HK đă từng can dự vào VN (1965-1975). Họ đă thảo luận với CSVN ṛng ră 4 năm tại Paris, cuối cùng được sự tán đồng của LX và đặc biệt là TQ, HK kết thúc cuộc chiến VN bằng HĐ Paris 1973. Điều 1 của HĐ đă ghi rơ: “HK và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn của nước VN”. Về phần VN, người dân MN được hưởng đầy đủ mọi quyền tự do và được quyết định tương lai chính trị MN thông qua cuộc tuyển cử dân chủ tự do có quốc tế giám sát. Hai miền Nam Bắc sẽ thảo luận việc thống nhất đất nước bằng con đường ḥa b́nh, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào. HK kỳ vọng “HĐ được thi hành triệt để sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới b́nh đẳng và cùng có lợi giữa VNDCCH và HK. Đồng thời, những việc đó sẽ bảo đảm ḥa b́nh vững chắc ở VN và góp phần giữ ǵn ḥa b́nh lâu dài ở Đông Dương và Đông Nam Á”. Năm 1975 HK rút khỏi MNVN, các nước ASEAN ra tuyên bố ĐNÁ là Khu vực ḥa b́nh, tự do và trung lập (Zone Of Peace, Freedom And Neutrality – ZOPFAN). ASEAN chủ trương đứng ngoài hai khối đối nghịch, nhưng công nhận LX, TC và HK đều có cơ hội đồng đều để hợp tác làm ăn buôn bán, tạo dựng cơ sở kỹ thuật tại đây. Nhờ đó, ĐNÁ sẽ trở thành khu vực ổn định và phồn vinh.
Sau khi thống nhất đất nước, đáng lẽ VN đă gia nhập khối ASEAN, thiết lập bang giao với Mỹ, duy tŕ mối thân hữu với hai đàn anh LX và TC, thực hiện việc ḥa giải dân tộc để xây dựng đất nước thời hậu chiến. Rất tiếc Tổng bí thư Lê Duẩn không thực hiện tiến tŕnh đó, hậu quả là chiến tranh với Cam Bốt, và bị TQ trừng phạt, khiến ĐNÁ lâm vào t́nh trạng mất ổn định trong suốt thập niên 1980. Và từ 1990 đến nay VN “hợp tác toàn diện” với TQ và bị đàn anh chèn ép nặng nề, nay ông Trương Tấn Sang phải bày tỏ mong muốn hợp tác với Mỹ.
Trong Tuyên bố chung ngày 25/7/2013, hai nhà lănh đạo Việt Mỹ thừa nhận “quan hệ đối tác toàn diện HK và VN nhằm góp phần vào ḥa b́nh, ổn định, hợp tác và thịnh vượng của mỗi nước, trong khu vực và trên thế giới”. HK quyết định thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với VN và thúc đẩy VN tham gia tích cực vào việc hoàn thành hiệp ước TPP vào cuối năm nay. Gia nhập khối Thương Mại Xuyên Thái B́nh Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP) là nhu cầu của VN hiện nay để thúc đẩy nền kinh tế đang bị suy thoái trầm trọng v́ đă đi theo “định hướng XHCN”. Gia nhập TPP, hàng xuất cảng của VN sẽ tăng vọt v́ được miễn hàng rào quan thuế. Về phần HK, gia nhập TPP, không những thể hiện việc hợp tác, phát triển với các nước Á châu –Thái B́nh Dương về thương măi, mậu dịch; TPP c̣n là vũ khí chiến lược để cầm chân TC. Trước đây, năm 1999, tại Wellington (Tân Tây Lan) TT Bill Clinton đă cam kết với TT Phan Văn Khải giúp VN gia nhập khối APEC, nhưng hai ông Cố vấn tối cao Đỗ Mười và Lê Đức Anh không chấp nhận v́ VN đă “hợp tác toàn diện” với TQ. Năm sau TQ gia nhập WTO, giúp kinh tế TQ phát triển mạnh nhờ sản phẩm ồ ạt xuất cảng sang Mỹ được giảm hoặc miễn thuế quan. Trong khi VN trở thành thị trường của TQ, tiêu thụ những sản phẩm kém chất lượng, không đủ tiêu chuẩn để bán ở Mỹ và các nước phương Tây. Măi đến năm 2006, VN mới được gia nhập tổ chức này.
Giờ đây, TT Obama thúc đẩy VN tham gia tích cực vào việc hoàn thành hiệp ước TPP chính là thúc đẩy chính quyền CSVN tranh thủ Cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Sau cuộc họp với Chủ tịch Trương Tấn Sang, TT Obama tuyên bố với báo chí “Cuối cùng chúng tôi đồng ư với nhau rằng một trong những sức mạnh giữa hai quốc gia chúng ta là Cộng đồng người Mỹ gốc Việt, họ sống ở đây nhưng vẫn tiếp tục có mối liên hệ mật thiết với VN. Và kết quả là mối giao hảo giữa người với người là chất keo làm tăng cường mối giao hảo giữa hai nước” (“Finally, we agreed that one of the great sources of strength between our two countries is the Vietnamese American population that is here but obviously has continued strong ties to Vietnam. And ultimately, it’s those people-people relations that are the glue that can strengthen the relationship between any two countries”.)
Sau đó, Đài Tiếng nói VN đă tường thuật những phát biểu của ông Sang tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (Center for Strategíc and International Studies-CSIS) chiều ngày 25/7/2013: “Đối với Cộng đồng người Việt tại HK, chủ tịch nưóc bày tỏ tin tưởng chắc chắn rằng, bà con Việt kiều sẽ là chiếc cầu vững chắc để thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước, nhất là trong khuôn khổ đối tác toàn diện. Theo Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người Mỹ gốc Việt đóng vai tṛ hết sức quan trọng trong quá tŕnh đưa quan hệ hai nước lên một bước phát triển mới”.
Để hoàn thành Hiệp ước TPP, từ nay VN cần phải cải tổ hệ thống chính trị, kinh tế, xă hội...một cách sâu rộng như: tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do công dân; chấp nhận chế độ đa đảng với các cuộc tuyển cử dân chủ tự do; dẹp bỏ các xí nghiệp quốc doanh; các nghiệp đoàn được thành lập v.v. Thực hiện triệt để những cải tổ trên, chính quyền trong nước sẽ tranh thủ được Cộng đồng người Việt ở hải ngoại, tạo sự đoàn kết toàn dân. Chỉ có Nội lực dân tộc mới bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ, VN sẽ có tiếng nói mạnh để thảo luận về mối quan hệ đối tác toàn diện với các nước để h́nh thành một Châu Á –Thái B́nh Dương ḥa b́nh, ổn định, hợp tác và thịnh vượng.
Úc Châu, 12/8/2013
Lê Quế Lâm
(Thông luận)