R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: May 2007
Posts: 136,690
Thanks: 9
Thanked 6,544 Times in 5,490 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 38 Post(s)
Rep Power: 172
|
Trở lại thập niên 1950, một vị tiền nhiệm của Gorbachev, ông Nikita Khrushchev, đă lần đầu thấy rơ sự mong manh của cái nền tảng của ngôi nhà mà Stalin đă xây lên trên sự khủng bố và dối trá. Nhưng thế hệ thứ năm này của giới lănh đạo Xô-viết cảm thấy tin tưởng hơn về sức bật của chế độ. Gorbachev và các đồng chí của ông tỏ ra tin tưởng rằng những điều đúng cũng là những điều có thể quản lư được dễ dàng về mặt chính trị (politically manageable). Gorbachev tuyên bố rằng chủ trương dân chủ hóa “không phải là một khẩu hiệu nhưng là tinh túy của perestroika”. Nhiều năm về sau, ông đă trả lời phỏng vấn như sau:
Mô h́nh Xô-viết không những bị đánh bại trên b́nh diện kinh tế và xă hội; nó bị đánh bại ngay trên b́nh diện văn hóa. Xă hội chúng ta, nhân dân chúng ta, những người có học vấn nhất, những người có trí thức nhất, đă bác bỏ mô h́nh ấy trên b́nh diện văn hóa v́ nó không tôn trọng con người, nó đàn áp con người về mặt tinh thần lẫn chính trị.
Sự thể những cải tổ đă đưa đến cuộc cách mạng năm 1989 phần lớn cũng phát xuất từ một nguyên nhân “lư tưởng” khác: bản thân Gorbachev rất ghét bạo động và, v́ thế, ông cương quyết không sử dụng việc áp bức quần chúng (mass coercion) khi tầm mức của các biến chuyển bắt đầu vượt quá ư định ban đầu của ông. Triển khai các lực lượng đàn áp kiểu Xít-ta-lin cho dù để “duy tŕ chế độ” cũng sẽ là một hành động phản lại niềm tin tưởng son sắt nhất của ông. Một chứng nhân nhớ lại Gorbachev đă nói vào cuối thập niên 1980, “Chúng ta được dạy là chúng ta phải đấm bàn”, rồi ông nắm tay lại, minh họa cú đấm. Viên tổng bí thư phát biểu tiếp: “Nói chung, việc này có thể thực hiện. Nhưng chúng tôi không thích làm như vậy”.
Vai tṛ của tư duy và lư tưởng trong việc mang lại cuộc cách mạng Nga xuất hiện rơ nét hơn khi chúng ta nh́n vào những diễn biến bên ngoài Điện Cẩm Linh. Một kư giả Xô-viết hàng đầu và về sau trở thành một tiếng nói nhiệt t́nh đối với chủ trương glasnost, ông Aleksandr Bovin, đă viết vào năm 1988 rằng những lư tưởng của perestroika đă “chín muồi” giữa lúc nhân dân ngày càng “bức xúc” trước nạn tham nhũng, ăn cắp của công trắng trợn, trước những láo khoét, và những cản trở chặn đứng việc làm của người lương thiện. Những dự kiến “về một cuộc đổi thay có thực chất đang bàng bạc trong không gian”, một chứng nhân khác nhớ lại, và những người mang kỳ vọng này đă tạo nên một khối cử tri rơ nét (appreciable constituency) đang đ̣i hỏi những cải tổ triệt để. Thật vậy, những kỳ vọng đă đón chào Gorbachev khi ông lên cầm cầm quyền là rất mănh liệt và ngày càng gia tăng đến độ chúng có thể định h́nh cho chính sách thực sự của ông. Đột nhiên, chính các tư duy đă trở nên một yếu tố có cấu trúc, có thực thể trong cuộc cách mạng đang diễn ra.
Theo cách nói của Yakovlev, cái uy tín của ư thức hệ chính thống, vốn ràng rịt toàn bộ hệ thống chính trị và kinh tế của chế độ Xô-viết “như những niền thép”, đang ră rệu nhanh chóng. Nhận thức mới đă giúp người dân thay đổi thái độ đối với chế độ và tạo ra “một chuyển biến trong hệ thống các giá trị”. Dần dần, tính chính đáng của các sắp xếp chính trị [cơ chế chính trị] bắt đầu bị chất vấn. Trong một trường hợp điển h́nh của “định lư Thomas” bất hủ mà [nhà xă hội học] Robert K. Merton xây dựng thành lư thuyết – “Nếu người ta tin rằng một t́nh thế là có thực, th́ t́nh thế đó sẽ trở thành hiện thực trong hậu quả của nó”– sự suy đồi thực sự của nền kinh tế Xô-viết chỉ mang lại hậu quả nghiêm trọng sau khi và bởi v́ có một chuyển biến cơ bản trong cách người dân cảm nhận và đánh giá thành tích của chế độ.
Viết cho một tạp chí Xô-viết năm 1987, một độc giả Nga gọi những ǵ ông chứng kiến chung quanh ông là một “sự dứt khoát triệt để trong ư thức của người dân”. Chúng ta biết độc giả này nhận xét đúng v́ cuộc cách mạng của Nga là cuộc cách mạng vĩ đại đầu tiên mà tiến tŕnh của nó được vẽ thành biểu đồ trong các cuộc thăm ḍ dư luận quần chúng ngay từ đầu. Vào cuối năm 1989, cuộc thăm ḍ dư luận tiêu biểu đầu tiên đă cho thấy dân chúng nhiệt liệt ủng hộ các cuộc tuyển cử có tính cạnh tranh và việc hợp pháp hóa các đảng phái ngoài Đảng Cộng sản Xô-viết – sau bốn thế hệ dưới chế độ độc tài độc đảng và trong lúc các đảng phái độc lập vẫn c̣n bất hợp pháp. Giữa thập niên 1990, hơn nửa số người được thăm ḍ trong một vùng nước Nga đồng ư rằng “một nền kinh tế lành mạnh” có khả năng phát triển nhanh hơn “nếu chính phủ cho phép tư nhân làm ăn theo ư họ muốn”. Sáu tháng sau, một cuộc thăm ḍ trên toàn nước Nga cho thấy 56% hậu thuẫn một cuộc chuyển đổi nhanh chóng hay tuần tự sang một nền kinh tế thị trường. Thêm một năm sau th́ số người ủng hộ kinh tế thị trường tăng đến tỉ lệ 64%.
Những người đă gieo vào xă hội “chuyển biến ngoạn mục về ư thức” không ai khác hơn là những kẻ đă từng châm ng̣i cho các cuộc cách mạng tiêu biểu khác của thời hiện đại: đó là, các nhà văn, nhà báo, và giới nghệ sĩ. Như Alexis de Tocqueville nhận xét, những con người này “giúp tạo ra một ư thức chung về sự bất măn như vậy, một công luận được kiên định như vậy, rồi hai yếu tố này … lại tạo ra những đ̣i hỏi hữu hiệu cho các chuyển biến có tính cách mạng”. Đột nhiên, “toàn bộ việc giáo dục” trên cả nước trở thành “công tác của những người cầm bút”.
Tại Nga Xô cũng vậy. Những hàng người dài trước các sạp báo – đôi khi các đám đông phải xếp hàng quanh một khu phố từ lúc 6 giờ sáng, v́ lượng báo ra hàng ngày thường bán sạch chỉ trong ṿng 2 tiếng đồng hồ — và số người đặt mua ngày càng đông các báo nổi tiếng có chủ trương tự do đă chứng minh sức công phá của những nhà b́nh luận nổi tiếng thuộc khuynh hướng glasnost, hay xin mượn cụm từ của Samuel Johnson, “những bậc thầy truyền giảng chân lư” (teachers of truth): kinh tế gia Mikolai Shmelyov; các triết gia chính trị như Igor Klyamkin và Alexandr Tsypko; các tiểu luận gia như Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor Vinogradov, and Ales Adamovich; các kư giả Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor Burlatsky, và chí ít trên hai chục nhà văn nữa.
Đối với họ, việc phục sinh đạo lư là thiết yếu. Điều này có nghĩa là không những chỉ rà soát lại các hệ thống chính trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật ngược các qui phạm xă hội (social norms), mà c̣n là một cuộc cách mạng trên b́nh diện cá nhân: một sự thay đổi trong nhân cách của người dân Nga. Như Mikhail Antonov tuyên bố trong một tiểu luận rất sáng tạo năm 1987, với tiêu đề “Vậy th́ việc ǵ đang đến với chúng ta?” trên tạp chí Oktyabr, phải “cứu” lấy nhân dân – không phải để họ thoát khỏi các mối nguy từ bên ngoài, nhưng “chủ yếu để họ thoát khỏi chính ḿnh, thoát khỏi các tiến tŕnh phi luân đang giết chết những phẩm chất cao quí nhất của con người”. Cứu nhân dân bằng cách nào? Bằng cách làm cho tiến tŕnh dân chủ hóa c̣n sơ sinh trở thành con đường định mệnh, không thể đảo ngược – không phải bằng “một đợt băng tan” ngắn ngủi của Khrushchev, nhưng bằng một cuộc thay đổi khí hậu. Và việc ǵ sẽ đảm bảo cho t́nh h́nh không thể đảo ngược này? Trên hết, đó là sự xuất hiện của con người tự do, một con người “không bị lây nhiễm trước các sự kiện lặp đi lặp lại của chế độ nô lệ tinh thần”. Tuần báo Ogoniok, một tạp chí quan trọng thuộc chủ trương glasnost, đă viết vào tháng Hai năm 1989 rằng chỉ có “con người không có khả năng làm chỉ điểm cho công an, không có khả năng phản bội và láo khoét, bất luận nhân danh ai hay tổ chức nào, mới có thể cứu chúng ta khỏi sự xuất hiện trở lại của một nhà nước độc tài”.
Lối lư luận ṿng vo này — để cứu nhân dân, người ta phải cứu lấy perestroika, nhưng người ta chỉ cứu được perestroika nếu có thể thay đổi đựợc con người “từ bên trong” — gần như không hề làm cho ai khó chịu. Những người phát biểu tư duy về những vấn đề này gần như đă cho rằng việc cứu nước bằng chủ trương perestroika và việc kéo người dân khỏi băi śnh lầy tinh thần là hai nỗ lực đan kết chặt chẽ, có lẽ không thể tách rời nhau, và họ dừng lại ở đó. Vấn đề quan trọng là phải đưa nhân dân trở về “địa vị công dân” từ vị trí “nông nô” và “nô lệ”. “Đủ lắm rồi!” là một lời tuyên bố của Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu thuyết bán rất chạy trong giai đoạn này về Thế chiến II, một cuốn truyện được đóng thành phim và được khán giả yêu chuộng không kém. Ông nói: “Đủ lắm rồi những láo khoét, đủ lắm rồi tinh thần nô lệ, đủ lắm rồi sự hèn nhác. Sau cùng, chúng ta phải nhớ rằng tất cả chúng ta đều là công dân. Những công dân tự hào của một đất nước tự hào!”
Nh́n kỹ vào những nguyên nhân của Cách mạng Pháp, de Tocqueville có nhận xét nổi tiếng rằng, các chế độ bị cách mạng lật đổ thường thường ít áp bức dân chúng hơn các chế độ trước đó. Tại sao? V́, theo suy đoán của de Tocquevile, mặc dù người dân “có thể ít khổ sở hơn”, nhưng họ lại “cảm thấy bị xúc phạm nhiều hơn”.
Thông thường, Tocqueville có khuynh hướng bàn về những điều tối quan trọng. Từ Những Người cha lập quốc trong Cách mạng Mỹ (the Founding Fathers), đến nhóm Jacobins của Cách mạng Pháp và nhóm Bôn-sê-vich trong Cách mạng Nga, những nhà cách mạng này đă chiến đấu chủ yếu dưới một bóng cờ: phát huy nhân phẩm. Chính v́ nỗ lực t́m kiếm nhân phẩm xuyên qua quyền tự do và quyền công dân mà khuynh hướng lật đổ chính quyền trong tinh thần glasnost vẫn c̣n tồn tại – và sẽ c̣n tồn tại. Cũng như trước đây những trang báo của tờ Ogoniok và tờ Moskovskie Novosti nằm hănh diện bên cạnh h́nh ảnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như là các biểu tượng của cuộc mạng Nga gần đây, ngày nay những trang mạng bằng tiếng Á-rập cũng hiên ngang làm biểu tượng cách mạng bên cạnh những h́nh ảnh các đám đông nổi dậy tại Quảng trường Tahrir của Cairo, tại Khu Casbah của Tunis [Tunisia], trên các đường phố của Benghazi [Lybia], và các thành phố sôi sục bạo động của Syria. Gác các vấn đề ngôn ngữ và văn hóa chính trị qua một bên, các thông điệp và cảm thức mà những cuộc cách mạng này gợi lên là rất giống nhau.
Mohamed Bouazizi, một thanh niên bán hoa trái, mà cuộc tự thiêu của anh đă châm ng̣i cho cuộc nổi dậy tại Tunisia khởi đầu cho Mùa Xuân Á Rập 2011, đă tự tử “không phải v́ anh ta thất nghiệp nhưng v́ khi anh đến nói chuyện với [chính quyền địa phương] có trách nhiệm về vấn đề của anh th́ bị đánh đập – cái chết này là để tố cáo chính phủ”, một người biểu t́nh tại Tunis đă nói với một nhà báo Mỹ như thế. Tại Benghazi, cuộc nổi dậy của người Lybia bắt đầu với việc các đám đông hô vang khẩu hiệu, “Nhân dân muốn chấm dứt tham nhũng!”. Tại Ai Cập, các đám đông đă “biểu lộ tinh thần tự cường của một dân tộc bị đàn áp quá lâu đă đến lúc không c̣n biết sợ hăi nữa, không muốn để cho giới lănh đạo của ḿnh tiếp tục tướt đoạt tự do và chà đạp nhân phẩm”, cây viết chuyên đề của tờ New York Times, ông Thomas Friedman, đă tường thuật từ Cairo vào tháng Hai năm nay. [Nếu có mặt ở hiện trường], ông cũng có thể đă tường thuật như thế từ Mát-xkơ-va năm 1991.
“Nhâm phẩm có ưu tiên hơn bánh ḿ!” là khẩu hiệu của cách mạng Tuy-ni-di. Kinh tế Tuy-ni-di đă gia tăng trong khoảng 2 và 8 phần trăm một năm trong hai thập kỷ liền trước cuộc nổi dậy. Với giá dầu lửa ở mức cao,Libya cũng đang phát triển kinh tế khá mạnh ngay trước khi có cuộc nổi dậy. Cả hai trường hợp này nhắc nhở chúng ta rằng trong thế giới hiện nay, tiến bộ về mặt kinh tế không thể thay thế cho niềm tự hào và tự trọng trong tư cách công dân. Nếu chúng ta không nhớ kỹ điều này, chúng ta sẽ tiếp tục kinh ngạc — trước “các cuộc cách mạng màu” trong thế giới hậu-Xô viết, trước Mùa Xuân Á Rập, và không chóng th́ chầy trước một biến động dân chủ tất yếu tại Trung Quốc – như chúng ta từng kinh ngạc trước cuộc cách mạng tại Nga Xô. “Thượng Đế đă ban cho chúng ta một ư thức mănh liệt về nhân phẩm khiến chúng ta không thể chấp nhận sự khước từ các quyền tự do và các quyền bất khả xâm phạm, bất chấp cả quyền lợi có thực hay giả tưởng nào mà các chế độ độc tài “ổn định’ có thể mang lại”, tổng thống của nước Kyrgyzstan, ông Roza Otunbayeva, đă viết vào tháng Ba năm nay. “Thật là kỳ diệu khi người dân, nam, phụ, lăo, ấu, thuộc nhiều tôn giáo và khuynh hướng chính trị khác nhau, qui tụ trong các quảng trường thành phố và tuyên bố ‘chúng tôi đă bưa lắm rồi’ (enough is enough)”.
Hẳn nhiên, động lực đạo lư tuyệt vời, sự t́m kiếm chân và thiện, chỉ là một điều kiện cần nhưng không đủ để tái tạo một đất nước thành công. Nhân dân có thể đủ sức lật đổ chế độ cũ (ancien régime), nhưng không thể cùng một lúc khắc phục được nền văn hóa chính trị độc tài đă ăn sâu trên cả nước. Gốc rễ của các định chế dân chủ do những cuộc cách mạng có động cơ đạo lư có lẽ tỏ ra c̣n quá nông cạn, không thể giữ vững một nền dân chủ hữu hiệu trong một xă hội thiếu truyền thống quí giá là cơ sở hạ tầng biết tự tổ chức và biết tự trị. Đây là điều có thể gây trở ngại to lớn cho việc thực hiện những hứa hẹn của Mùa Xuân Á-rập – đă thấy ở Nga. Sự phục sinh đạo lư ở Nga đă bị trở ngại do sự phân hóa và ngờ vực mà 70 năm độc tài toàn trị sản sinh ra. Mặc dù Gorbachev và Yeltsin đă tháo dỡ một đế quốc, nhưng cái di sản của năo trạng đế quốc trong hằng triệu người Nga đă khiến họ dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa tân độc tài của Putin (neo-authoritarian Putinism), với các chủ đề tuyên truyền to lớn như “sự bao vây của các thế lực thù nghịch” và “Nước Nga đứng dậy từ bước ngă quị”. Hơn thế nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi quốc gia) mà chủ nghĩa Xit-ta-lin gây ra chưa bao giờ được t́m hiểu đầy đủ và chưa bao giờ được thống hối, v́ vậy đă làm hỏng toàn bộ nỗ lực phục hồi đạo lư, đúng như các người rao giảng glasnost từng mạnh mẽ cảnh báo.
Đó là lư do nước Nga ngày nay một lần nữa đang từng bước tiến tới một thời điểm perestroika khác. Mặc dù những đợt cải tổ thị trường trong thập niên 1990 và giá dầu lửa tăng cao hiện nay đă kết hợp lại để tạo nên sự phồn vinh chưa từng có trong lịch sử cho hằng triệu người Nga, nhưng sự tham nhũng trắng trợn của tầng lớp cai trị ở chóp bu, chế độ kiểm duyệt kiểu mới, và việc công khai khinh thường dư luận đă tạo ra t́nh trạng bất măn và yếm thế, một t́nh trạng đang bắt đầu lên tới (nếu không muốn nói đă thực sự vượt qua) mức độ của đầu thập niên 1980.
Người ta chỉ cần đến Mát-xcơ-va vài ngày để tiếp xúc với giới trí thức hiện nay hay, tốt hơn nữa, liếc qua các trang nhật kư mạng (blogs) trên LiveJournal (Zhivoy Zhurnal), diễn đàn Internet nổi tiếng nhất của Nga, hay qua các website của những nhóm trí thức đối lập và độc lập hàng đầu, là thấy được rằng câu châm ngôn của thập niên 1980 – “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa!” đang trở thành tín điều một lần nữa. Lệnh truyền đạo lư của tinh thần tự do đang tái khẳng định chính nó, và hiện tượng này không chỉ diễn ra hạn hẹp trong các giới trí thức và những nhà hoạt động dân chủ. Tháng Hai năm nay, Viện Phát triển Đương đại (the Institute of Contemporary Development), một viện nghiên cứu chính sách tự do do Tổng thống Dmitry Medvedev làm chủ tịch, đă xuất bản một tài liệu có vẻ như là một chương tŕnh vận động tranh cử tổng thống Nga năm 2012:
Trong quá khứ nước Nga cần tự do để sống [tốt đẹp hơn]; hiện nay nước Nga cần tự do để sống c̣n…Thách thức của thời đại chúng ta là làm sao để rà soát lại hệ thống giá trị, hun đúc một ư thức mới. Chúng ta không thể xây dựng một đất nước hiện đại với tư duy cũ…Đầu tư tốt đẹp nhất [mà nhà nước có thể dành cho con người] là Tự do và Nền Pháp trị (the Rule of Law). Và tôn trọng Phẩm giá của con người.
Chính cuộc t́m kiếm có tính cách trí thức và đạo lư này, một nỗ lực khôi phục niềm tự hào và tự trọng, bắt đầu bằng một cuộc duyệt xét đạo lư không nương nễ đối với quá khứ và hiện tại của đất nước, chỉ vỏn vẹn trong vài năm đă khoét hổng nhà nước Sô-viết đồ sộ, tước sạch tính chính danh của nó, và biến nó thành một chiếc vỏ bị thiêu rụi (burned-out shell) để rồi tan ră vào tháng Tám 1991. Câu chuyện về hành tŕnh đạo lư và trí thức này là một câu chuyện hoàn toàn chiếm vị trí trung tâm về cuộc cách mạng vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20.
ttxva
|