View Single Post
Old 08-05-2013   #2
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default

Bản anh hùng ca

Ngày 2/6/1967 Tàu vận tải containers Liên Xô “Turkestan” neo đậu dỡ hàng tại vùng nước cảng Cẩm Phả, bị máy bay cường kích hải quân Mỹ tấn công. Thủy thủ kỹ thuật viên điện lực Nicholas Ribachuk hy sinh, sáu người khác bị thương. Một vụ scandal chính trị bùng nổ nghiêm trọng, v́ người Mỹ quyết liệt bác bỏ việc máy bay Mỹ tấn công tàu xô Viết. Nhưng như những câu truyện truyền thống của Nga “trinh sát báo cáo chính xác” Nhóm trinh sát điện tử từ tàu GS-34, thuyền trưởng – đại úy hải quân B.M. Mozzhukhin đă chặn được thông tin liên lạc vô tuyến của nhóm máy bay không kích Mỹ từ tàu sân bay và đưa ra những số liệu chính xác về số hiệu các máy bay thuộc phi đội bay từ tàu sân bay "Midway", thời gian và địa điểm của cuộc tấn công. Phía Mỹ đă buộc phải xin lỗi về vụ việc đă xảy ra và chấp nhận đền bù thiệt hại. Trưởng nhóm trinh sát điện tử B.M.Mozzhukhin đă được trao huân chương "Sao Đỏ".Từ tháng 5/1972 quân đội Mỹ tiến hành các hoạt động ồ ạt phong tỏa bằng thủy lôi các tuyến đường hàng hải vào các hải cảng của miền Bắc Việt Nam. Thủy lôi được thả bởi các máy bay của không quân Hải quân Mỹ A-7 "Corsair" và A-6 "Intruder" từ các tàu sân bay "Kitty Hawk" và "Coral Sea", trong ṿng 8 tháng Mỹ đă thả hơn 11.000 thủy lôi Мк-36 và Мк-52-2. Lượng thủy lôi được thả nhiều nhất vào tháng 8.1972, khi không quân hải quân Mỹ từ 6 tàu sân bay bí mật thả các thủy lôi mang đầu nổ thủy âm và từ trường trên tuyến hành lang hàng hải dẫn vào cảng Hải Pḥng và ngay trong ḷng sông Cấm.

Tại cảng Hải Pḥng, mười tàu vận tải bị phong tỏa không rời cảng. Chiến dịch này bị phát hiện kịp thời bởi nhóm trinh sát điện tử thuộc tàu trinh sát "Deflektor" (thuyền trưởng – đại úy C.V. Kuchin, chỉ huy trưởng nhóm OSNAZ K.P.Chudin) hoạt động ​​trên Vịnh Bắc Bộ. Thông tin chiến dịch đă kịp thời thông báo cho Bộ tư lệnh hạm đội Thái B́nh Dương và Cơ quan lănh đạo đơn vị vận tải tầm xa của Vladivostok. Nhờ thông tin kịp thời mà các tàu hàng hải Xô Viết không bị trúng thủy lôi.

Tháng 12/1972. Tại hội nghị Paris các cuộc đàm phán kéo dài giữa chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa về vấn đề chấm dứt ném bom và ngừng bắn trên lănh thổ Việt Nam.

Các cuộc đàm phán diễn ra trong điều kiện những tổn thất về binh lực và sinh lực Mỹ ngày càng tăng, các hoạt động tấn công của lực lượng Quân Giải phóng Miền Nam diễn ra dồn dập trên khắp các chiến trường. Miền Bắc Việt Nam tiếp tục nhận được những tổ hợp tên lửa pḥng không Dvina và tên lửa, đủ khả năng tiêu diệt tất cả các mục tiêu trên không của Không quân Mỹ và rất hiệu quả khi chiến đấu với các vật thể bay tầm thấp. Không quân Việt Nam nhanh chóng lớn mạnh và càng ngày càng tác chiến hiệu quả. Trên các phương tiện thông tin đại chúng SMI đăng càng ngày càng nhiều h́nh ảnh các máy bay bị bắn rơi và phi công Mỹ bị bắt làm tù binh.

Trong cuộc đàm phán cam go này, các đại diện cho chính phủ Mỹ muốn t́m một giải pháp rút quân khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự. Với tư cách là một siêu cường, người Mỹ lựa chọn giải pháp chính trị dựa trên sự đe dọa vũ lực. Từ 25.12.1972 Bộ chỉ huy tối cao quân đội Mỹ bắt đầu tiến hành một chiến dịch không kích miền Bắc quy mô lớn nhất trong tất cả các cuộc chiến tranh tính từ năm 1945 trở về sau này, nhằm vào hai thành phố Hà Nội và Hải Pḥng đồng thời không kích các căn cứ quân sự của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Vấn đề quan trọng nhất là yếu tố bất ngờ.Cuộc không kích bắt đầu vào những ngày trước lễ Giáng sinh không xa, theo thông lệ người Mỹ sẽ không tiến hành các hoạt động chiến tranh tích cực. Thực hiện cuộc tập kích đường không này, người Mỹ đă sử dụng tất cả lực lượng không quân ở châu Á Thái B́nh Dương khu vực Đông Nam Á. Chỉ tính riêng không quân Hải quân trên 7 tàu sân bay của Mỹ đă tiến hành 1500 lần xuất kích.

Nhưng Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam và ban cố vấn quân sự Liên xô đă nắm chắc được ngay từ thời điểm đợt cất cánh ồ ạt của không quân Mỹ từ các tàu sân bay. Nguồn thông tin cung cấp là tàu trinh sát điện tử "Kursograf" (thuyền trưởng - chỉ huy trưởng O.D.Tulchin, các chỉ huy của nhóm OSNAZ là thuyền trưởng - trung úy V.G. Kozlov, Thượng úy hải quân V.A.Karev) nằm ngay ở trung tâm đội h́nh chiến đấu của Tập đoàn không quân hải quân tấn công chủ lực số 77 Mỹ. Tàu trinh sát điện tử nằm trên khu vực căn cứ Guam đă thông báo kịp thời, chính xác thời điểm các cụm máy bay ném bom chiến lược B-52 bắt đầu cất cánh, số lượng máy bay, giăn cách khoảng cách bay của đội h́nh chiến đấu. Do thu thập thường xuyên thông tin trao đổi giữa chỉ huy mặt đất và các lực lượng tập kích, các tàu trinh sát điện tử đă nắm chắc được từng diễn biến bắt đầu các đợt không kích cả ở Utapao và Guam.

Những thông tin thu thập được thông qua Bộ tổng tham mưu quân đội Liên xô đến Bộ tham mưu QĐNDVN liên tục, kịp thời, cho phép toàn bộ hệ thống pḥng không Việt Nam được đưa vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu đúng thời điểm nhất. Trong 12 ngày đêm không quân Mỹ đă ném hơn 100.000 quả bom các loại và Lực lượng Pḥng không Việt Nam cũng hạ 81 máy bay Mỹ, trong đó có 31 là pháo đài bay B-52 và 5 F-111. Trước sức ép ngày một tăng của công luận quốc tế đồng thời gánh chịu những tổn thất nặng nề trong cuộc chiến, đến ngày 27/1/1973. Mỹ buộc phải kư Hiệp định Paris về việc rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Miền Nam Việt Nam.

Từ tháng 2 đến tháng 4/1973, người Mỹ sau khi kết thúc cuộc chiến tranh trên không chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă chuyển toàn bộ hoạt động tác chiến của ḿnh về phía miền Nam Việt Nam, bao gồm các các tàu sân bay. Theo hiệp định Paris 1973, hạm đội 7 Mỹ có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động gỡ toàn bộ thủy lôi đă phong tỏa vùng vịnh Bắc Bộ, đặc biệt là khu vực Cảng Hải Pḥng. Chiến dịch này mang tên gọi là "End Sweep" (" lần quét cuối cùng"). Quân đội Mỹ đă tổ chức một lực lượng rà phá thủy lôi bao gồm tàu sân bay trực thăng "Okinawa" (kỳ hạm), các tàu đổ bộ hải quân có sân bay cho trực thăng rà quét ḿn, các tàu đổ bộ, các tàu quét ḿn phi từ trường, tàu cảnh giới yểm trợ và các tàu đảm bảo hậu cần kỹ thuật.

Toàn bộ đội tàu rà phá thủy lôi gồm có 50 chiến hạm và tàu khác nhau. Lực lượng chủ đạo giải quyết nhiệm vụ rà quét thủy lôi được trang bị máy bay trực thăng đổ bộ "Sea Staley" với lưới sonar và lưới quét từ trường trên thân và các tàu quét ḿn phi từ tính (tàu không chế tạo từ kim loại) trang bị các lưới quét ḿn. Để thực hiện nhiệm vụ, hải quân Mỹ đă triển khai hệ thống tọa độ 3D có độ chính xác cao "Reydist" dẫn đường cho máy bay và các tàu quét ḿn. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử hải quân hiện đại trên thế giới có một chiến dịch ra quét thủy lôi – ḿn trên biển bằng trực thăng và tàu quét ḿn phi từ tính.Theo mệnh lệnh của Tổng tư lệnh lực lượng Hải quân Xô Viết và tư lệnh trưởng hạm đội Thái B́nh Dương, một đơn vị hỗn hợp của hạm đội dưới sự chỉ huy của Hải đoàn trưởng hải đoàn 38 đại úy hạng 1 D.T. Lukas được thành lập bao gồm các tàu trinh sát biển "Aneroid" (kỳ hạm), "Protraktor", "Kursograf", "Barograf", "Gidrofon" tàu quét ḿn MT-4 và MT-5 cùng với tàu chở dầu yểm trợ hậu cần kỹ thuật "Vladimir Kolechitsky." Mục tiêu chính của đội gồm:


- Phát hiện và nắm bắt được các hoạt động tác chiến của phân đội tàu rà quét thủy lôi, chiến thuật ra phá thủy lôi, các phương tiện và lực lượng dùng để rà phá thủy lôi, tính năng kỹ chiến thuật và khả năng triển khai các trận địa thủy lôi của địch trên biển.;

- Đánh giá được kết quả rà quét thủy lôi của đối phương trên vịnh Bắc Bộ, từ đó xác định được những nguy hiểm c̣n tồn tại, cảnh báo sớm cho phía Việt Nam và các tàu thuyền của lực lượng vận tải Xô Viết về nguy cơ thủy lôi ở khu vực nghi ngờ.

Với nhiệm vụ được giao, phân đội hỗn hợp cấp chiến dịch đă hoàn thành xuất sắc, xác định được hầu hết các khu vực ẩn chứa nguy cơ thủy lôi, số lượng thủy lôi đă rà phá và số lượng c̣n tồn đọng ở các vùng nước khu vực. Khi chiến dịch rà quét thủy lôi “Sea Sweep” của Mỹ kết thúc. Bộ Tổng tham mưu lực lượng QĐNDVN và Bộ tổng tham mưu lực lượng Hải quân Xô Viết đă có được những thông tin đầy đủ về kết quả của chiến dịch.

Vào giữa tháng Ba năm 1973, chiếc tàu vận tải của Liên Xô "Pioneer Marat Kazei" rời cảng Hải Pḥng và trên đường ra khơi gặp tàu trinh sát điện tử "Kursograf." Và điều đầu tiên các thủy thủ Liên Xô đă trao đổi với nhau bản đồ các băi thủy lôi do Mỹ đă rải, các tuyến đường hải hành an toàn và vài mảnh vỡ của máy bay B-52.

Ngày 31/12/1974, tàu trinh sát điện tử cuối cùng "Kursograf" quay trở về căn cứ từ Biển Đông. Đó cũng là kết thúc tuyệt vời của bản anh hùng ca Việt Nam của hải đoàn trinh sát điện tử. Ngày 1.05.1975 các thủy thủ - trinh sát viên điện tử rất hài ḷng xem vô tuyến trận chiến cuối cùng của Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam tiến vào Sài G̣n trong cờ hoa rực rỡ, cũng với những chiếc máy bay trực thăng bay hoảng loạn từ nóc nhà đại sứ quán Mỹ, và sự tan giă của chính quyền chế độ cũ.

Trong các trận không chiến trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, các chiến sĩ trinh sát điện tử ghi lại được 526 máy bay chiến đấu Mỹ và 13 máy bay trực thăng bị bắn rơi, không tính 193 máy bay và 270 trực thăng của tập đoàn quân lính thủy đánh bộ Mỹ, 591 phi công Mỹ bị bắt. Những thông tin này đă được khẳng định gần sát với con số mà cuốn sách không quân hải quân Hoa Kỳ 1910-1995 «United States Naval Aviation 1910-1995» (Washington, 1997) đă nêu.

Trong cuộc chiến tranh điện tử mà các thủy thủ - trinh sát điện tử tiến hành trong khu vực chiến sự, nguy hiểm luôn cận kề. Các tàu trinh sát của hải quân Xô Viết, người Mỹ biết rất rơ, nhưng họ không muốn va chạm, do các tàu này hoạt động ở vùng nước quốc tế. Ngoài ra, tồn tại một quy luật bất thành văn giữa hai lực lượng hải quân Nga và Mỹ: “các tàu trinh sát không can thiệp”. Nhưng những hành động khiêu khích quấy rối vẫn luôn xảy ra với các tàu trinh sát trên biển: Tháng 9/1967, tàu trinh sát điện tử "Anemometr" ("Kirby") ở Biển Đông, tàu tác chiến điện tử Mỹ "Bonner" đă cố ư gây một vụ đâm húc va chạm. Trường hợp này cả hai tàu đều không có những tổn thất quá nặng. Tàu trinh sát điện tử ("Kirby") bị một vết lơm lớn ở thân tàu phía trước.

- Năm 1968, trên biển Đông, tàu trinh sát điện tử "Izmeritel" lại bị chính tàu "Bonner" của Mỹ tấn công đâm húc một lần nữa nhằm đẩy tàu trinh sát ra khỏi khu vực đang hoạt động tác chiến.

- Ngày 3/10/1969, tàu “Gidrofon” bị các tàu tuần biển của hải quân Sài G̣n tấn công khi đang hoạt động trinh sát tại vùng nước ven bờ của Miền Nam Việt Nam, trúng đạn, tàu “Gidrofon” bị cháy một số nơi, một phần trang thiết bị bị hỏng hóc, nhưng các thủy thủ trên tàu an toàn. Ḷng dũng cảm và ư chí kiên cường trong thực tế công tác đă trở thành bản chất của lực lượng trinh sát điện tử. Nhiều thủy thủ - chiến sĩ trinh sát điện tử được thưởng huy chương “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.

- Tháng 12/1969, tàu trinh sát "Protraktor" bị tàu tuần biển của Hải quân Sài G̣n tấn công hỏa lực khi đang hoạt động gần vùng nước chủ quyền Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ, cuộc tấn công hỏa lực đă làm thủy thủ A.N. Lebedev bị thương ở chân. Tàu bị bắn thủng 16 lỗ mạng tàu trên vạch ngấn nước, mặc dù vậy, tàu chỉ chạy ra xa vùng lănh hải và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ;

- Tháng 4./1970, với mục đích đẩy tàu “Peleng” ra khỏi khu vực theo dơi các tàu sân bay, máy bay cường kích "Skyhawk" tiến hành ném bom dọc theo hải tŕnh của tàu phía mũi và đuôi tàu trên khoảng cách 1 đến 2 sải. Máy bay không tấn công vào tàu và không có tổn thất;

- Tháng 4/1973, trong quá tŕnh theo dơi chiến dịch “End Sweep”, một trong những tàu kéo của Mỹ đă cố ư giả như đâm thẳng vào tàu trinh sát "Aneroid", đang thả neo trên tuyến đường hành lang trên trận địa thủy lôi và bật đèn neo tầu. Tàu kéo Mỹ đă đi sát mũi tàu của "Aneroid" cách khoảng vài mét và chân vịt tàu kéo đă mắc phải xích neo của tàu "Aneroid". Rất may các lái tàu của tàu kéo Mỹ khá có kinh nghiệm, nếu không cả hai tàu có thể bị tổn thất nặng nề. Trong chiến tranh là chiến tranh. Có trường hợp, các thủy thủ của tàu "Kursograf" đă cứu một thủy thủ Mỹ bị rơi khỏi boong của tàu chỉ huy tham mưu "Blue Ridge". Nhờ sự kiện này họ nhận được thư cảm ơn và quà của Bộ chỉ huy hải quân Hạm đội 7. Có nhiều trường hợp các tàu trinh sát cũng cứu được những thuyền nhân, hoặc các thủy thủ các tàu đánh cá bị trôi dạt trên biển. Rất nhiều trường hợp bất ngờ đă xảy ra. Nhưng sau gần 40 năm tính từ thời điểm chiếc tàu trinh sát cuối cùng rút khỏi Biển Đông, Hải quân Thái B́nh Dương mới có điều kiện viết lại một biên niên sử.

Kinh nghiệm của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước và những hoạt động của Hải đoàn tác chiến điện tử của Hạm đội Thái B́nh Dương Liên Xô cho thấy, tác chiến điện tử trên biển lớn đóng vai tṛ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lănh thổ và ngăn chặn những nguy cơ chiến tranh trong giai đoạn hiện nay. Tác chiến điện tử trên biển lớn có ưu thế vượt trội so với các loại h́nh tác chiến khác như tác chiến điện tử mặt đất, tác chiến điện tử trên không và trên vũ trụ. Hầu hết mọi cuộc xâm lược và chiến tranh đều đến từ phía biển, bắt đầu tập trung lực lượng, xây dựng đội h́nh tác chiến, liên kết phối hợp và xuất phát hỏa lực tấn công đều bắt đầu trên biển lớn. Mọi tuyến thông tin liên lạc dù thời b́nh hay thời chiến đều diễn ra bằng sóng vô tuyến các dải tần số trên biển rộng – dễ dàng cho hoạt động t́nh báo hoặc trinh sát. Hoàn toàn không bị nhiễu địa h́nh hoặc ảnh hưởng của điều kiện không khí. Các t́nh huống chiến tranh hoặc xung đột bao giờ cũng có nguồn gốc từ không gian biển và tác động trực tiếp lên bờ biển và vào sâu trong lănh thổ.

Để bảo vệ vững chắc biên cương tổ quốc, chủ quyền và lợi ích quốc gia – dân tộc, tác chiến điện tử trên biển, trong điều kiện thời b́nh là trinh sát – t́nh báo điện tử phải được h́nh thành và phát triển nhanh chóng, dưới mọi h́nh thức từ các lực lượng tuần biển đến các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan khai thác tài nguyên và đến lực lượng ngư dân trên biển lớn. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tác chiến điện tử trên biển thời b́nh sẽ tránh được yếu tố bất ngờ trong xung đột vũ trang hay xâm phạm chủ quyền, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về t́nh báo – trinh sát cảnh báo sớm, có đầy đủ điều kiện để đập tan mọi âm mưu xâm lược.
Nguồn : Tiền Phong
Hanna_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.09062 seconds with 10 queries