
Passport VNCH. Nguồn: OntheNet
Các giải pháp có thể xảy ra như sau:
1- Trung Quốc có thể sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề chủ quyền. VN sẽ đứng vào thế yếu v́ vừa không đủ sức bảo vệ cũng như không có đồng minh tin cậy giúp đỡ.
2- Việt Nam cố gắng giải quyết vấn đề thông qua thuơng lượng, phù hợp với “luật quốc tế” về việc không thực hiện được các tuyên bố đơn phương[xxxii] (công hàm 1958). Nhưng việc thuơng lượng cho thấy VN khó đạt được giải pháp mà người dân dễ dàng chấp thuận. VN cố gắng tập trung vào việc “hải phận 12 hải lư” ở các đảo, trong khi TQ đi hai bước: đường chữ U và hiệu quả Kinh tế độc quyền ZEE (200 hải lư) của các đảo. Nếu VN bác được đường chữ U th́ cũng khó bác bỏ vùng ZEE các đảo, bởi v́ chính VN cũng đă từng chủ trương như vậy. Làm thế nào anh có quyền cấm người ta khi anh cũng chủ trương y như vậy? VN khó ḷng bác được lập trường này, cho dầu có tuyên bố từ bỏ việc đ̣i hỏi ZEE năm 1977 cho các đảo, th́ cũng không thể ngăn cản được TQ. Đ̣i hỏi này không hề vi phạm Luật quốc tế về Biển 1982.
3- Mong muốn của VN là giữ nguyên trạng. Để đạt được điều này VN nhượng bộ cho TQ quyền lợi chiến lược ở các lănh vực kinh tế, văn hóa, quân sự v.v… với hy vọng TQ sẽ kư kết hiệp ước “COC” với ASEAN. Nhưng việc nhượng bộ chiến lược, thể hiện qua một loạt hiệp ước vừa kư kết, sẽ đẩy VN đi nhanh vào ṿng lệ thuộc TQ. Chưa nói đến các hiệp ước vừa kư kết phải được xếp vào loại “bất b́nh đẳng”. Bất kỳ kiệp ước nào kư kết giữa hai quốc gia cũng đều ảnh hưởng đến sự độc lập (la souveraineté) của quốc gia. Các hiệp ước vừa kư, sẽ viết trong bài tới, cho thấy VN không khác TQ trong thời kỳ bị liệt cường phân xé, hậu bán thế kỷ 19, phải kư các hiệp ước nhượng bộ cho nước ngoài những điều khoản không chấp nhận được.
4- Vấn đề “ḥa giải dân tộc” cho thấy sẽ không có có hội thực hiện. Việc kế thừa danh nghĩa VNCH đă không xảy ra. Các vụ bắt bớ sinh viên Phương Uyên, Nguyên Kha v́ tội “rải truyền đơn cờ vàng ba sọc âm mưu chống chế độ…” cho thấy nhà nước CSVN vẫn bất dung mọi dấu hiệu thuộc về chế độ VNCH. Hiện nay, VN cố thực hiện nghị quyết 36, “hồi chánh” các viên chức VNCH cũ, cho vào dự hội thảo, cho lên truyền h́nh… để tuyên truyền chủ trương của nhà nước CSVN. Lănh đạo CSVN muốn dùng các “học giả” VN hốt những thang thuốc có hiệu quả ru ngủ, đánh lạc hướng mọi sự thật cần phải biết về HS và TS. Lănh đạo CSVN bị lâm vào thế trên đe (TQ) dưới búa (dư luận trong nước). Người dân phẫn nộ hành vi của TQ tại biển Đông, lănh đạo CSVN t́m mọi cách cho người dân không thấy nguyên nhân của vấn đề: hành vi bán nước của ḿnh.
Sắp tới, xương máu người dân VN có thể sẽ phải đổ xuống để bảo vệ chủ quyền của VN tại biển Đông. Nguyên nhân là do lănh đạo CSVN không giữ lời hứa của họ với TQ. Dĩ nhiên có những giải pháp ḥa b́nh khác, thay v́ chiến tranh, 1954-1975, cuộc chiến biên giới 1979, cuộc chiến Kampuchia… Lănh đạo CSVN luôn lựa chọn các giải pháp tồi tệ nhất. Lănh đạo CSVN sẽ tiếp tục đưa nhân dân VN “lên dàn lửa thiêu”, kích động tinh thần dân tộc trong tầng lớp dân chúng, đẩy mũi dùi chống đối về phía một địch thủ khác, để bảo vệ chế độ.
Từ xưa đến nay sĩ phu VN luôn pḥ chính thống. V́ lẽ sống của họ phụ thuộc vào quyền lực của người lănh đạo. Điều này có thể thông cảm, do trường hợp giảm khinh. Nhưng sĩ phu VN hải ngoại không thể v́ chút quyền lợi nhỏ nhoi mà bán rẻ lương tâm của ḿnh. Không bảo toàn được lănh thổ, máu xương người dân đổ xuống, trách nhiệm là do người lănh đạo. Nhưng phần trách nhiệm về lịch sử, về đạo đức và lương tri, là do sĩ phu nhận lănh, mà nhóm người hải ngoại lănh phần nhiều.
5- Việc đưa vấn đề tranh chấp ra một trọng tài quốc tế phân giải sẽ không có hy vọng xảy ra, khi mà CSVN c̣n nắm quyền lănh đạo. VN hiện nay c̣n không dám lên tiếng công khai ủng hộ Phi trong vụ kiện TQ, huống chi lên tiếng thắch thức TQ giải quyết tranh chấp bằng các phương tiện của công lư quốc tế. Trong khi sĩ phu vẫn c̣n đang dắt díu, người sau nắm chéo áo người trước, lầm lũi đi theo “tấm chỉ đường của trí tuệ”, mà không biết sẽ đưa về đâu?
VN có nhiều hy vọng thắng kiện, nếu và chỉ nếu, chính quyền VN (hiện tại hay trong tương lai) kế thừa danh nghĩa của VNCH. Mà việc kế thừa chỉ có thể thực hiện bằng phương pháp “ḥa giải quốc gia”.
Việc “ḥa giải quốc gia”, trên b́nh diện chính trị, chỉ có thể thực hiện nếu tương quan lực lượng hai bên “ngang cơ” với nhau. Nhưng khi việc “ḥa giải quốc gia” là một phạm trù thuộc đạo đức, tương quan lực lượng là tương quan giữa “cái đúng, cái sai”, giữa “đạo lư và phi đạo lư”… Như vậy, lực lượng vô minh vẫn áp đảo trong xă hội.
Những tuyên bố về HS và TS, như Luật biển 2012 của VN, tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng… đều không có giá trị pháp lư trên phương diện quốc tế công pháp. Việc không dùng tiếng “ngụy” chỉ người VNCH cũ, như có học giả vừa nói, không hề là dấu hiệu của việc “ḥa giải”, hay thể hiện hành vi kế thừa VNCH.
Nguồn: Vấn đề chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Nhan Tuan Truong. Blog Những vấn đề Việt Nam. July, 14, 2013.
[xv] Gilbert Caty, Les Statut Juridique des Etats Divisés, Ed. A. Pedone 1969.
[xvi] Quốc gia theo định nghĩa của Quốc tế Công pháp: Doit International Public , sdd, tr 449-469.
[xvii] Gilbert Caty, sdd, tr.15.
[xviii] Việc gia nhập LHQ chưa chắc là một yếu tố để chứng minh lănh thổ đó là một quốc gia nếu ta xét trường hợp của Ukraine và Bielorussis. Thật vậy, hai xứ này, trong thời kỳ thuộc Liên bang Xô viết, đă gia nhập LHQ (từ khi LHQ mới thành lập). Hai “quốc gia” này thực ra chỉ là một phần “lănh thổ” của URSS mà thôi.
[xix] Đây là lập trường của nhiều học giả trên thế giới. Một số thí dụ: Gilbert Caty, in Les Statut Juridique des Etats Divisés ; James Crawford, in The Creation the States in International Law, tr 472-477. Conrad G. Buhler, in State Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism, tr94-103…
[xx] Conrad G. Buhler, sdd, tr 77.
[xxi] Bộ Ngoại giao Úc 1974, trong sdd Conrad G. Buhler, tr 73.
[xxii] State Department, 4-3-1966, “The legality of US participation in the Defense of Vietnam” dẫn từ Gilbert Caty, Les Statut Juridique des Etats Divisés, sdd, tr 12.
[xxiii] Conrad G. Buhler, State Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism , tr 68-113.
[xxiv] Nguyen Duy Tan Joële. La représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In: Annuaire français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi: 10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/web/revues/home..._num_22_1_1996
[xxv] Tuyên bố CHXHCNVN gởi chính phủ Thụy Sỹ, dẫn từ Conrad G. Buhler, sdd, tr 104: The S.R.V will continue the participation of the DRV and the RSV in the four “Geneva convention of 1949” concerning the protection of war civil victims with the same observations as those set forth by the DRV and the SRV. Ta thấy VN đă sử dụng chữ “tiếp tục” thay v́ “kế thừa” VNDCCH.
[xxvi] Conrad G. Buhler, State Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism, tr 107.
[xxvii] Conrad G. Buhler, sdd, tr. 87.
[xxviii] Conrad G. Buhler, sdd, tr 107.
[xxix] Đương nhiên, các “qui tắc” về chiến tranh này đều do họ đặt ra, dự tính có khi từ 30-40 năm trước, nếu chúng ta tin theo tài liệu của Cf. Major J. B. Kelly, « Legal Aspects of Military Operations in Counterinsurgency », Military Law Review, juillet 1963
[xxx] Isoart Paul. Les conflits du Viêtnam. Positions juridiques des États-Unis. In: Annuaire français de droit international, volume 12, 1966. pp. 50-88.http://www.persee.fr/web/revues/home..._num_12_1_1870
[xxxi] Isoart Paul, như trên.
[xxxii] Doit International Public , sdd, đoạn 239, tr 402.
Nguồn: Trương Nhân Tuấn Blog