| 
			
			 R10 Vô Địch Thiên Hạ 
			
			
			
				
			
			
				 
				Join Date: Dec 2006 
				
				
				
					Posts: 88,250
				 
				 
	Thanks: 11 
	
		
			
				Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
			
		
	 
	Mentioned: 5 Post(s) 
	Tagged: 0 Thread(s) 
	Quoted: 8 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power:  109
  
  
  
				
				     
			 
	 | 
	
	
	
		
		
		
		
			
			BTV: 33 năm trước, vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc đă xua quân tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. Cuộc chiến khốc liệt này đă cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người lính Việt Nam, những người đă xả thân bảo vệ Tổ Quốc, cũng như của rất nhiều thường dân vô tội ở biên giới phía Bắc. Hôm nay, xin quư độc giả hăy giành những giây phút tưởng niệm, để nhớ đến những người lính Việt Nam đă anh dũng ngă xuống, hy sinh thân ḿnh bảo vệ mảnh đất thân yêu mà chúng ta đang sống hôm nay. Cũng  không quên những người dân vô tội sống dọc các tỉnh biên giới, đă bị Trung Quốc giết hại 33 năm trước.
Liên quan đến cuộc chiến này, chúng tôi xin giới thiệu 2 tài liệu để độc giả tham khảo: Một tài liệu nói về con số thương vong của hai phía Việt – Trung và một tài liệu khác, nói về vai tṛ của Liên Xô liên quan đến cuộc chiến này. Đây là 2 tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra, nên những từ ngữ sử dụng trong bài, chúng tôi xin được giữ nguyên văn.
 Vạn Lư Hải Cương
 Người dịch:  Quốc Thanh
 27-9-2009
   Ẩn số về thương vong của hai bên trong Chiến tranh Trung-Việt năm 1979
 Về con số thương vong của hai bên Trung-Việt trong “Trận chiến phản kích tự vệ với Việt Nam” năm 1979, báo Lao Động của Việt Nam hồi năm đó nói, đă tiêu diệt hơn 3 vạn Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc; báo Giải Phóng quân của ta cho biết, quân ta thương vong 4.000 người, tiêu diệt 70.000 quân địch.
 Theo ghi chép trong hồ sơ mật về trận  chiến phản kích tự vệ với Việt Nam năm 1979 đă được giải mật từ lâu: con  số thương vong của quân ta là hơn 27.000 người, trong đó, số sĩ quan  binh lính chết trận là hơn 6.000, binh lính bị thương là hơn 21.000  người.
 Trong thời  kỳ đầu của trận chiến, tỉ lệ thương vong bên quân ta quả thực khá cao,  cá biệt có những đại đội thậm chí c̣n bị thương tới 90%. Thường bộ đội  thuộc những đại đội mũi nhọn, khi rút về nước sau cùng, chỉ c̣n lại có  mười mấy người, một tiểu đội c̣n lại chưa đến một hai người. Về mặt này,  có nguyên nhân là do sự pḥng ngự kiên cố của Việt Nam, đồng thời cũng  có cả nhân tố tham chiến thời kỳ đầu, các chỉ huy bên quân ta c̣n thiếu  kinh nghiệm đánh trận thật. Sau khi đă thích ứng tạm thời, chỉ huy bên  quân ta đă nhanh chóng điều chỉnh lại được trạng thái b́nh thường.   
  Cao điểm 315 ở Đông Khê, Việt Nam, vào năm ấy (BTV:  Tác giả nhắc lại trận đánh năm 1969 giữa Bắc Việt với Hoa Kỳ), quân Mỹ  huy động binh lực hơn 30 máy bay ném bom và 2 trung đoàn, sau khi bao  vây suốt một tuần mới miễn cưỡng buông tay. Đă phải trả giá bằng thương  vong hơn 300 người, phần thu được chỉ là hơn 20 thi thể người Việt Nam  [Bộ phim Mỹ “Đồi Thịt Băm” - Hamburger Hill - đă được dựng dựa  theo trận đánh này]. Cũng ở Cao điểm 315 này, bộ đội phản kích tuyến  phía đông của quân ta chỉ với binh lực 2 đại đội, chiến đấu trong 3 giờ,  mà đă chiến thắng.   
 Khi pḥng ngự với quân Mỹ, Việt Nam thường áp dụng chiến tranh địa đạo để làm tiêu hao sức chiến đấu của bọn Mỹ. Nhưng chiến tranh địa đạo lại là do Trung Quốc phát minh, truyền lại cho Việt Nam,  bây giờ mà lại dùng nó để ứng phó với Trung Quốc th́ tất sẽ phản tác  dụng. Trong các trận chiến ở Lào Cai, quân ta đă dùng hơi độc để làm  chết ngạt người Việt Nam dưới địa đạo, về sau khi trao đổi tù binh với  Việt Nam, được biết đường địa đạo này đă chôn vùi hơn 200 quân nhân và  hơn 1.000 thường dân. Chiến tranh thật tàn khốc, anh không giết nó th́  nó cũng giết anh, huống chi Việt Nam khi ấy quân với dân là một.  
  
  
 Thương vong chủ yếu phía quân ta là,  trong các trận đánh thọc sườn của tập đoàn quân tuyến phía đông, khi  Đặng Tiểu B́nh có ư định giải quyết trận chiến trong ṿng mươi ngày nửa  tháng, Tư lệnh Hứa Thế Hữu nóng ḷng muốn cho xong, nên đă có chút khinh  thường địch. Khi c̣n chưa thám sát tường tận địa h́nh, đă hạ lệnh đánh  thọc vào, dẫn đến nhiều con đường đánh thọc sườn của quân ta gặp phải sự  phục kích, với binh lực vượt trội của Việt Nam, thương vong rất nặng  nề, thậm chí c̣n xuất hiện cả t́nh huống bị quân địch bắt sống nguyên cả  đại đội. Tiến độ chiến đấu chậm chạp, về sau bộ đội thiết giáp của ta  đă t́m cách thoát hiểm, liều chết vượt qua núi Phục Sơn cao tới 1.500 m  so với mực nước biển, thọc một mũi dao vào sau lưng quân Việt, th́ mới  xoay chuyển được thế cục bất lợi. Nhưng bộ đội thiết giáp cũng đă bị  thương tổn nặng nề, một lượng lớn xe tăng bị rơi xuống từ trên núi cao.  Ngoài ra, c̣n có rất nhiều lính bộ binh ngồi trên xe tăng để chống rung  lắc, đă tự trói ḿnh ở trên đó, làm thành những tấm bia sống cho quân  Việt Nam.
 Sau khi đánh tới Lạng Sơn, do điện lệnh  của Trung ương, thời gian tấn công đă phải lui lại 2 ngày, khiến cho  quân Việt Nam nhân đó hoàn thành được việc bố trí pḥng ngự đối với Lạng  Sơn, lại c̣n tạo nên sự thương vong không đáng có của quân ta trong  trận tấn công Lạng Sơn sau đó. Mặc dù vậy, bộ đội tuyến phía đông vẫn  đem lại cho quân Việt những tổn thất nặng nề hơn. Chiến dịch Lạng Sơn đă  vây diệt 13 sư đoàn át chủ bài của Việt Nam, đă tiêu diệt 24.000 quân  chính quy Việt Nam, là chiến quả lớn nhất trong trận chiến phản kích tự  vệ này.   
 Nếu so sánh về mặt chiến quả, th́ chiến  tích của tập đoàn quân tuyến phía đông mạnh hơn tuyến phía tây; nếu so  sánh về mặt con số thương vong th́ tập đoàn quân tuyến phía đông lại lớn  hơn tuyến phía tây rất nhiều. Nếu làm một phép so sánh, th́ Dương Đắc  Chí ở tuyến phía tây tỏ ra thận trọng hơn nhiều, mấy lần tŕ hoăn thời  gian tổng công kích, cố gắng chuẩn bị mọi phương diện sao cho không để  có ǵ sơ xuất, khi tấn công đă áp dụng phương pháp ẩn tiến, tích thắng  nhỏ thành thắng lớn, nên đă giảm thiểu được thương vong cho bộ đội một  cách có hiệu quả. Nhưng đồng thời cũng bởi quá thận trọng nên đă đánh  mất cơ hội tiêu diệt sư đoàn 316 của quân địch, khiến nó chuồn khỏi giữa  2 sư đoàn của quân ta. Sau trận chiến, Thượng tướng Dương Đắc Chí được  bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng, c̣n Thượng tướng Hứa Thế Hữu kể từ đó  đă “thề nguyền” không về Bắc Kinh. Đó là lời cuối của ông.     
 Nếu so sánh về mặt trang bị súng ống,  th́ giữa quân ta với quân địch chênh lệch nhau chẳng bao nhiêu, bởi v́  súng ống của Việt Nam chủ yếu là do Trung Quốc viện trợ, công nghiệp  quân sự cũng do Trung Quốc viện trợ thành lập. Thời Đại Cách mạng Văn  hóa, theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế, nước ta luôn viện trợ cho Việt  Nam các trang thiết bị tiên tiến nhất.
 Sự chênh lệch lớn nhất giữa Việt Nam với  quân ta là hỏa pháo, lục quân Trung Quốc học ở Liên Xô, hết sức coi  trọng việc xây dựng đội ngũ pháo binh, hỏa lực pháo binh của chúng ta  ngang ngửa với Liên Xô, mạnh hơn nhiều so với NATO và các nước trong  Khối Warsaw. Trước khi tấn công vào trận địa Việt Nam, quân ta đều áp  dụng biện pháp pháo kích kiểu rải thảm, hỏa lực mạnh gần như xới tung  trận địa quân địch. Điểm mà quân ta mạnh hơn quân Mỹ ở chỗ, hỏa pháo cỡ  vừa và nhỏ của quân ta có rất nhiều chủng loại, hết sức linh hoạt khi  đánh trận thật, quả là phù hợp khi phải đối phó với trận địa pḥng ngự  cắm chốt ở khắp nơi của Việt Nam. Trong suốt thời gian diễn ra trận  chiến phản kích tự vệ với Việt Nam, hỏa pháo Việt Nam luôn bị quân ta  chế ngự, không thể nào chống trả nổi quân ta. Đây cũng là nguyên nhân  quan trọng làm cho pḥng tuyến phía bắc của quân Việt Nam bị tan vỡ  nhanh chóng. Phía bắc Việt Nam có rất nhiều rừng núi, sau khi bị quân ta  pháo kích, đă biến thành đồi trọc, hơn 20 năm sau vẫn không mọc được cây, đủ để thấy hỏa pháo của quân ta năm ấy mạnh đến nhường nào.
  
  
  
 Một sự chênh lệch quan trọng khác giữa  hai bên chính là bộ đội thiết giáp. Khi đó,Việt Nam tuy có một lượng lớn  xe tăng Mỹ, nhưng thực lực tổng thể bộ đội thiết giáp của họ lại yếu  hơn Trung Quốc. Trong trận chiến phản kích tự vệ với Việt Nam năm 1979,  quân ta tổng cộng huy động hơn 700 xe, c̣n Việt Nam chỉ có một số ít bộ  đội át chủ bài thuộc sư đoàn 316A và sư đoàn 13 là có thể chống trả lại  được với xe tăng của quân ta, kết quả đều bị quân ta đánh trọng thương,  thậm chí tiêu diệt hoàn toàn. Ở thời kỳ đầu của trận chiến, Việt Nam nhờ  vào địa h́nh rừng núi phức tạp, đă khiến cho bộ đội thiết giáp của ta  bị tổn thất đôi chút, nhưng lại chưa bị sứt mẻ ǵ đến gân cốt. Kỳ tích  bộ đội thiết giáp vượt qua núi Phục Sơn đă làm xoay chuyển chiến cục  toàn bộ tuyến phía đông. Trận tấn công Lạng Sơn, quân ta dùng bộ đội  thiết giáp mở đường, chỉ 24 giờ đă khống chế được toàn bộ Lạng Sơn. Sau  khi tấn công Lạng Sơn, ở phía nam đều là đồng bằng, Hà Nội đă pḥng thủ  rất yếu, bộ đội thiết giáp của quân ta hoàn toàn có thể tiến thẳng vào.
  
  
 Mới đầu, có nhiều người trong nước cho  rằng, Việt Nam chỉ đưa vào một đội quân tạp nham và du kích. Thực ra,  Việt Nam đă cho xuất vốn, trong số 4 sư đoàn át chủ bài được Liên Xô  trang bị của họ (sư đoàn 316A, sư đoàn 8, sư đoàn 13, sư đoàn 27) có 3  sư đoàn được đưa ra tác chiến với quân ta, kết quả 1 sư đoàn bị tiêu  diệt hoàn toàn, 2 sư đoàn bỏ trận v́ bị tổn thất nặng. Theo tin t́nh báo  quân ta có được, từ trước trận chiến, bộ đội pḥng ngự ở vùng Bắc Việt  có 15 vạn. Trận chiến vừa mở màn, chỉ riêng bộ đội chính quy Việt Nam  thuộc biên chế giao tranh với quân ta đă có tới hơn 10 vạn, trong quá  tŕnh chiến đấu c̣n liên tục tăng quân ra tiền tuyến. Khi bộ đội tuyến  phía tây của quân ta sắp tiến đến sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn, Tổng Bí thư  Lê Duẩn của Việt Nam c̣n cho tăng viện thêm 2 sư đoàn pḥng thủ Hà Nội  đang giấu kỹ trong két, kết quả cũng là thả dê vào miệng hổ, một đi  không trở về. Với Việt Nam, mỗi người dân là một chiến binh, trong trận  chiến này, số lượng quân chính quy lần lượt tung vào vượt xa con số 20  vạn quân của quân ta.
  
 Trái lại, số quân bên ta được tung vào  trận chiến này thua xa Việt Nam, đối sánh lực lượng nghiêng về Việt Nam,  chúng ta vừa không tổng động viên toàn quốc, lại cũng không điều động  bộ đội át chủ bài tinh nhuệ nhất, mà chủ yếu là bộ đội biên pḥng của  vùng Quảng Tây và Vân Nam, có bổ sung thêm bộ phận tác chiến cốt cán của  các quân khu khác, tổng số không quá 20 vạn, mà số quân thường trực của  ta khi ấy là 450 vạn.
 Khi rút quân, quả thực quân ta có tổn  thất ít nhiều, theo hồi ức của một lăo chiến binh tham chiến, cả tiểu  đội 10 người của họ, 5 người đă hy sinh trước lúc khai chiến 3 ngày, 2  người hy sinh trên đường về nước, về đến nơi chỉ c̣n lại có 3 người.  Trong 2 chiến sĩ hy sinh trên đường về nước, 1 người bị phụ nữ Việt Nam  bắn tỉa chết. C̣n quân ta bị thương vong khi rút quân chủ yếu do sự quấy  rối của quân du kích Việt Nam, nông dân Việt Nam đă chôn ḿn và bẫy  trên rất nhiều con đường chính, dẫn đến sự thương vong nhất định cho  quân ta.
  
  
  
 Về con số thương vong của quân Việt Nam,  phía Việt Nam vẫn luôn mập mờ. Theo ghi chép từ hồ sơ mật về Trận Phản  kích Tự vệ với Việt Nam đă được giải mật: Ta tiêu diệt gần 6 vạn quân  địch, trong đó hơn 42.000 đă chết và hơn 10.000 người bị thương, hơn  2.000 người bắt làm tù binh. Con số này chủ yếu là kết quả sau những  cuộc giao tranh giữa quân ta với quân chính quy Việt Nam, bao gồm tiêu  diệt gọn sư đoàn 6, sư đoàn 13, sư đoàn 25, tiêu diệt gọn cả 13 trung  đoàn thuộc “Trung đoàn anh hùng”, gây tổn thất nặng cho nhiều nhánh quân  thuộc sư đoàn 316A của Việt Nam, con số thương vong của dân binh và bộ  đội công an địa phương chưa được tính vào đây. C̣n theo số liệu do báo Lao Động  của Việt Nam công bố, dân thường bị tổn thất 5 vạn người, từ đó có thể  suy ra được con số thương vong của Việt Nam trong trận chiến năm 1979 có  lẽ là trên 10 vạn người.
  
 Trận phản kích tự vệ với Việt Nam năm  1979 là niềm vinh quang của quân ta, là niềm tự hào của dân tộc. Nó cho  thấy Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc không hổ thẹn với danh hiệu  “Trường thành gang thép”.
 Nguồn: China.com
 Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
 Bản tiếng Việt © Quốc Thanh
HISTORY.STNN 
NGUYÊN NHÂN THỰC SỰ CỦA VIỆC TRUNG QUỐC KHÔNG TẤN CÔNG HÀ NỘI TRONG CUỘC CHIẾN TRUNG-VIỆT
 
31-8-2010
 
Quốc Thanh trích dịch
 
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc huy động binh lực hơn 20 vạn quân, phát động cuộc tiến công Việt Nam trên một trận tuyến dài 772 dặm. Trong trận chiến diễn ra 2 tuần, tuy quân đội Trung Quốc bị thương vong nặng nề, nhưng đă tiến sâu được vào đất Việt Nam khoảng 40km. Ngày 20 tháng 2, đại quân tuyến phía tây tấn công Lào Cai, Phong Thổ…, ngày 4 tháng 3 tấn công Sapa, đại quân tuyến phía đông tấn công Lạng Sơn vào cùng ngày, các thị trấn trọng điểm ở miền Bắc, Việt Nam đều bị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc kiểm soát. Phía nam Lạng Sơn là vùng đồng bằng, thích hợp cho bộ đội thiết giáp Trung Quốc tác chiến, quân Việt Nam không thể pḥng thủ nổi. Nhưng quân đội Trung Quốc không c̣n duy tŕ được chiến quả như ở thời ky đầu, nếu nói là do xuất phát từ việc phải hạn chế, không để cho thử thách chính trị có xung đột quá lớn, nhưng đúng hơn là do trang bị thiếu thốn.   
 
Dương Đạt so sánh t́nh trạng trang bị giữa hai quân đội:  “Khi ấy Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vừa mới bước ra từ cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, năng lực tác chiến không mạnh, khi tiến đánh các thành phố biên giới khác như Lạng Sơn, Lào Cai… đă phải trả giá rất lớn. Ví dụ như xe tăng của Quân Giải phóng rất dễ bị đánh đổ, chất lượng xe tăng rất kém, có những chiếc đạn pháo không nổ, có những chiếc số lượng đạn pháo bộ đội pháo binh bắn ra vào ngày đầu trận chiến c̣n nhiều hơn cả số lượng đạn pháo bắn ra của 20 năm trước. C̣n bên quân Việt Nam th́ vừa kết thúc cuộc chiến Việt Nam năm 1975, giàu kinh nghiệm tác chiến, trong tay c̣n nắm những trang bị vũ khí thu được của quân Mỹ, Liên Xô viện trợ một số lượng lớn hỏa lực, rồi cả viện trợ trước đó của Trung Quốc. Cho nên, nếu đánh xong Lạng Sơn mà hành động tiếp nữa th́ sẽ rất bất lợi cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc”.
 
Nguồn: HISTORY.STNN
 
———
 
BTV: Về con số thương vong hai bên, BTV đă tham khảo nhiều nguồn tài liệu nước ngoài khác nhau, xin giới thiệu 2 nguồn này để độc giả tham khảo thêm:
 
- THE CHINESE PEOPLE’S LIBERATION ARMY: “SHORT ARMS AND SLOW LEGS“ (Global Security). Theo tài liệu này, ông Russell D. Howard cho biết, quân Trung Quốc bị tổn thất 60.000 người, trong số đó, có 26.000 người bị giết: “The PLA suffered more than 60,000 casualties, including 26,000 killed.”
 
- Theo tạp chí Time, cuộc chiến biên giới Việt – Trung 30 năm sau: China-Vietnam Border War, 30 Years Later, cho biết, có ít nhất 20.000 lính Trung Quốc thiệt mạng, trong khi có khoảng chưa tới 10.000 lính Việt Nam bị giết. “Though casualty figures remain unclear, estimates suggest at least 20,000 Chinese soldiers died, while Vietnamese dead number under ten thousand.”
 
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
		  
		
	
		
		
		
		
		
	 |