View Single Post
Default Ngành đường sắt và Việt Nam
Old 08-11-2011   #1
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Đặng Đ́nh Cung
Kỹ sư tư vấn

500 nghị sĩ do 90 triệu dân đề cử bao giờ cũng sáng suốt hơn một vạn tiến sĩ chuyên gia kỹ thuật và việc phủ quyết dự án đường sắt siêu tốc Bắc Nam năm ngoái có thể coi là quyết định sáng suốt nhất của Quốc hội khóa XII1. V́ thế mà, ngay khi nhậm chức Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải Đinh La Thăng đă tuyên bố "Chưa đủ điều kiện làm đường sắt cao tốc"2. Ở các nước dân chủ, công bộc của dân đều tuân theo đại biểu dân như vậy. Nhưng băi bỏ dự án tầu siêu tốc không có nghĩa là bỏ rơi tất cả ngành đường sắt.

Trong bài này chúng tôi xin tŕnh bầy những vấn đề kỹ thuật mà ngành đường sắt Việt Nam phải giải quyết để đạt khả năng vận tải đa phương tiện (intermodal freight transport) và khả năng liên thông với các nước láng giềng (interoperability).
Phần I – Vận tải đa phương tiện
I–1. Sự cần thiết của tất cả những phương tiện GT–VT

Ngành đường sắt có ba đặc điểm kỹ thuật : (a) bánh xe bằng thép quay trên một nền cũng bằng thép, (b) toa xe chạy trên một đường hướng dẫn và (c) nhiều toa xe chạy nối liền với nhau. Nhờ ba đặc điểm đó, so với các phương tiện giao thông–vận tải (GT–VT) khác th́ sức cản di chuyển thấp, tiết kiệm năng lượng vận chuyển, xe chạy an toàn ở bên hông và tiềm năng công suất vận chuyển cao. Quy ra một hành khách–kilômét hay một tấn–kilômét th́ đường biển và đường sông là những phương tiện GT–VT rẻ nhất, tiêu thụ năng lượng ít nhất và ô nhiễm môi trường ít nhất. Sau đó là đường sắt, tiếp theo sau rất xa là đường ô–tô và cuối cùng là đường hàng không. Ở một nước đông dân có nền kinh tế đáng kể (mặc dù vẫn c̣n nghèo) như nước ta th́ giá thành một hành khách–kilômét hay một tấn–kilômét cũng theo thứ tự gia tăng đó.

Ở những nước chậm tiến có chính thể chuyên chế người ta thường đặt ưu tiên vào việc xây những xa lộ hoàng tráng nhưng vô dụng để cho dân bị ấn tượng và suy tôn nhà độc tài tại chức và/hay để thỏa măn tiện nghi riêng của giai cấp thống trị3. Ở những nước Âu Châu, vận tải bằng ô–tô thống lĩnh thị trường GT–VT. Người ta đă khai triển phương tiện này v́ lúc đầu cần phải hỗ trợ ngành công nghiệp ô–tô. Sau đó phải xây xa lộ cho ô–tô chạy. Rồi lại phải hỗ trợ thêm ngành công nghiệp ô–tô để có xe chạy trên xa lộ. Sau khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, những nước đó khám phá ra sai lầm của họ và đang chuyển sang dùng thêm những phương tiện GT–VT khác. Nhưng một hệ thống GT–VT của một nước cần đến cả chục năm, thậm chí cả nửa thế kỷ, mới xây dựng xong. Nếu sai lầm hay kết cấu kinh tế thế giới thay đổi th́ cũng cần cùng thời gian đó để thay đổi4.

V́ những lư do kinh tế và tôn trọng môi trường nêu ở trên, khi một chính phủ quy hoạch mạng GT–VT hay khi một xí nghiệp quy hoạch hệ thống hậu cần th́ phải theo thứ tự ưu tiên đường biển, đường sông, đường sắt, đường ô–tô rồi đường hàng không. Chúng tôi nói về thứ tự ưu tiên chứ không nói rằng phải bỏ không khai triển các ngành ô–tô và hàng không. Hai phương tiện GT–VT này cũng có công dụng của chúng ở một phạm vi nào đó mà những phương tiện khác không thể thay thế được. Xe vận tải có khả năng đến tận điểm trao hàng và đến tận điểm nhận hàng dù là ở những nơi hẻo lánh. Tầu bay cần thiết khi phải chở gấp một kiện hàng đi xa. Về chuyên chở hành khách th́ ô–tô có thể là một xe bốn chỗ cũng như một xe ca bốn chục chỗ và một tầu bay thích ứng nếu cần phải đi xa hơn 500 km.

Vận tải đa phương tiện và liên thông là hai điều kiện cốt yếu trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. V́ lư do đó mà UNESCAP (United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Kinh tế Xă hội Châu Á – Thái B́nh Dương) khởi xướng dự án TAR (Trans Asian Railway, Đường sắt Xuyên Á) và dự án TAH (Trans Asian Highway, Đường Cái Xuyên Á). Hai dự án này đă được 24 quốc gia thông qua, trong đó có Việt Nam.

Một kiện hàng gửi từ một nhà máy may mặc ở Phnom Penh đến một cửa tiệm ở Houston (Texas, Hoa Kỳ) sẽ được chở bằng ô–tô đến ga xe hỏa Phnom Penh, chở bằng đường sắt tới hải cảng Kompong Som, bằng đường biển đến San Francisco, bằng đường sắt đến Houston rồi bằng xe vận tải đến cửa tiệm quần áo ở trung tâm thành phố Houston. Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia th́ kiện hàng sẽ được chở từ ga Phnom Penh đến cảng Vũng Tầu thay v́ cảng Kompong Som, tiết kiệm ít nhất một ngày tầu ṿng qua mũi Cà Mau.

Một hăng Pháp cần gửi một công–tê–ne thiết bị công nghiệp từ Villeurbanne, ngoại ô TP Lyon (Pháp), đến một nhà máy ở khu công nghiệp Sóng Thần II, tỉnh B́nh Dương. Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia và Thái Lan th́ hành tŕnh của công–tê–ne sẽ diễn biến như sau :

(a) xe vận tải từ Villeurbanne đến một bến trên sông Rhône,

(b) xà–lan tới Marseille,

(c) tầu biển từ Marseille đến TP Hồ Chí Minh,

(d) xe vận tải từ TP Hồ Chí Minh đến Sóng Thần II.

Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia th́ công–tê–ne sẽ được nhấc lên bờ ở ở Singapore, được chở bằng xe hỏa từ Singapore đến TP Hồ Chí Minh hay ga B́nh Dương và bằng xe vận tải từ nhà ga đến nhà máy ở Sóng Thần II, tiết kiệm được hai ngày đường.

Chở bằng đường sắt th́ mau hơn là chở bằng đường biển. Để tiết kiệm thời gian vận tải ở Đông Á, UNESCAP đề nghị chở hàng hóa bằng đường sắt từ Singapore đến Vladivostok xuyên qua Malaysia, Thái Lan, Lào và Trung Quốc. Tuyến đường này sẽ giải tỏa những địa phương ở phía Tây các tỉnh ven biển của Trung Quốc. Nhưng tuyến đường này phải vựơt nhiều núi cao hiểm trở và công suất quá nhỏ so với tiềm năng phát triển kinh tế Trung Quốc.

Chúng tôi xin đề nghị khẩn cấp xây đoạn đường Phnom Penh – TP Hồ Chí Minh để mạng đường sắt do UNESCAP đề nghị có thêm một tuyến đường sắt Xuyên Á thứ hai (xem chi tiết ở phần II)5.
I–2. Những vấn đề kỹ thuật

Như tŕnh bầy ở trên, từ Villeurbanne đến khu công nghiệp Sóng Thần II một công–tê–ne sẽ thay đổi phương tiện vận tải ít nhất ba lần và cần đến ít nhất ba phương tiệnGT–VT : xe vận tải, xuồng và tầu biển. Việc chọn lựa một phương tiện tùy ở tổng chi phí của chuyến đi, khả năng chịu tải của phương tiện và khả năng thuyên chuyển từ phương tiện này sang phương tiện khác.

Vấn đề chịu tải chỉ là một vấn đề kỹ thuật xây dựng c̣n vấn đề thuyên chuyển từ phương tiện GT–VT này sang phương tiện khác chưa cớ giải đáp kỹ thuật thỏa đáng :

(a) vỏ kiện hàng phải như thế nào để thuyên chuyển mà ít phải thay đổi vỏ chứa,

(b) chọn tiêu chuẩn quốc tế (nếu có) nào để liên thông từ mạng vận tải này sang mạng khác,

(c) dùng phương tiện vận chuyển nào để chuyển hàng từ vỏ này sang vỏ khác, từ phương tiện vận tải này sang phương tiện khác.

Chúng tôi sẽ đề cập đến khả năng liên thông mạng đường sắt ở phần sau.

Về vỏ kiện hàng và vận chuyển th́ tùy ở loại sản phẩm và khả năng vận chuyển địa phương. Với những hàng rời như là ngũ cốc, quặng,... th́ phương tiện vận tải có thể là vỏ chứa và phương tiện vận chuyển là băng công–voay–ơ, vít Archimede, ống và máy bơm,... Với những hàng lỏng như là dầu, nước,... th́ vỏ chức cũng có thể là phương tiện vận tải nhưng cũng có thể là những bể chứa, thùng chứa, chai lọ, hộp kín,... Suy ra, những vỏ chứa và những phương tiện vận chuyển rất là đa dạng.

Từ thập niên 1960, người ta bắt đầu chở hàng bằng công–tê–ne. Hầu như tất cả mọi loại hàng đều có thể chở được bằng công–tê–ne kể cả những hàng rời, hàng lỏng nếu đă được đóng gói trong những vỏ thích ứng. Nếu công–tê–ne được niêm phong kỹ th́ phương pháp này giảm khả năng hàng bị hư hỏng, đánh cắp hay tráo đổi. Nhờ đó hàng chỉ cần được kiểm tra ở điểm đi và điểm đến dù đă được chở ở những cự ly dài, nhờ nhiều phương tiện vận tải khác nhau và qua nhiều nơi khác nhau. Điều này giảm chi phí và thời gian làm thủ tục chuyên chở, đặc biệt là các thủ tục hải quan.

Để thuyên chuyển từ một phương tiện vận tải A sang một phương tiện B th́ chỉ cần khuân công–tê–ne từ phương tiện A sang phương tiện B nếu phương tiện đó có sức chịu tải bằng hay mạnh hơn là phương tiện A. Ngoài ra, một công–tê–ne đặt trên một phương tiện vận tải phải có tổng tiết diện tương ứng với tiết diện các công tŕnh cầu và hầm của mạng GT–VT.

ISO (International Organization for Standardization, Tổ chức Quốc tế Tiêu chuẩn hóa) đă tiêu chuẩn hóa những công–tê–ne6 để ngành đường sắt có cơ sở thiết kế các hạ tầng và tính toán những tuyến đường. Những công–tê–ne thông dụng là những công–tê–ne 20 feet, 40 feet và high cube. Chúng có cùng một chiều rộng ở ngoài, 2,44 m (8 ft), cũng như ở trong 2,33 m. Chiều cao những công–tê–ne 20 feet và 40 feet là 2,59 m (8,5 ft) ở ngoài và 2,30 m ở trong. Chiều cao những công–tê–ne high cube là 2,74 m (9 ft) hay 2,90 m (9,5 ft). Chúng đều có thể được chở trên xe vận tải, toa tầu hỏa, tầu sông và tầu biển. V́ thế chúng rất thích ứng với phương pháp vận tải đa phương tiện.

Người ta thường quy ra lượng công–tê–ne 20 feet để tính công suất hay năng suất của một cơ sở lưu kho, một phương tiện vận tải hay một phương tiện thuyên chuyểnvà để tính lượng hàng đă được vận chuyển hay thuyên chuyển. Đơn vị đó gọi tắt là TEU (Twenty Feet Equivalent Unit, Đơn vị Tương đương Hai mươi Feet). Một công–tê–ne 40 feet tương đương với hai công–tê–ne 20 feet. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 70 triệu công–tê–ne đủ loại, tương đương với 12 triệu EVP. Những công–tê–ne này chở qua đường biển 90 phần trăm những hàng không phải là hàng rời.

Nước ta, đất hẹp, những xe vận tải chỉ có thể chở được những công–tê–ne 20 feet. Để bảo đảm khả năng vận tải đa phương tiện trên tầu biển, tầu sông, tầu hỏa cũng như trên xe vận tải, chúng tôi xin đề nghị dùng loại công–tê–ne này làm tiêu chuẩn cơ bản cho tất cả hệ thống hậu cần Việt Nam.

Chúng tôi cũng xin đề nghị :

(a) thiết kế lại hệ thống GT–VT trên bộ dựa trên đường sắt thay v́ đường ô–tô như trong kế hoạch hiện nay của chính phủ,

(b) và dành xe vận tải để chở hàng tối đa ở 50 km xung quanh một cảng biển, cảng sông, ga xe hỏa và khu công nghiệp và để chở hàng đến những vùng thưa dân hay kinh tế chưa phồn thịnh.
Phần II – Khả năng liên thông

V́ là một thành phần của hệ thống hậu cần thế giới, xe chạy trên một mạng đường sắt phải có khả năng dễ dàng chạy trên những mạng đường sắt khác. Khả năng đó gọi là sự liên thông.

Như thấy trên bản đồ của UNESCAP (h́nh 1), mạng đường sắt của nước ta không liên thông với các nước láng giềng Lào và Kampuchia. Với Trung Quốc chúng ta có hai tuyến đường sắt qua cửa khẩu Lào Cai và Lạng Sơn. Nhưng hai nước dùng hai khoảng cách đường rầy khác nhau. Nói tóm lại mạng đường sắt chúng ta bị tách rời khỏi mạng đường sắt Thế giới. Trong một bài đă đăng, chúng tôi có đề nghị một số tuyến đường sắt nhằm giải đáp t́nh trạng này7.

Để có thể liên thông th́ các mạng đường sắt phải theo những tiêu chuẩn kỹ thuật chung về : (a) khoảng cách đường rầy, (b) cỡ tiết diện xe, (c) sức chịu tải ở trục xe, (d) chiều dài của đoàn tầu, (e) hệ thống tín hiệu và (f) điện hóa.

II–1. Khoảng cách đường rầy

Khoảng cách đường rầy ở Trung Quốc theo tiêu chuẩn quốc tế, nghĩa là 1.435 mm (standard gauge). Nhưng ở tất cả các quốc gia thuộc khối MRS (Mekong River Subregion, Tiểu vùng Sông Mekong) cũng như trên tuyến đường sắt Hà Nội – Côn Minh th́ khoảng cách là 1.000 mm (metre gauge). Nhiều người tưởng rằng một tuyến đường sắt phải có khoảng cách đường rầy theo tiêu chuẩn quốc tế 1.435 mm th́ đoàn tầu mới có thể chạy nhanh, chở nặng và an toàn. Sự thật không hoàn toàn đúng như vậy : sai biệt về khả năng kỹ thuật của hai loại khoảng cách 1.435 mm và khoảng cách 1.000 mm không đáng kể. Người ta chọn khoảng cách 1.000 mm để giảm vốn đầu tư xây dựng nền đường8 và người ta chọn khoảng cách 1.435 mm để có thể liên thông dễ dàng với mạng đường sắt quốc tế9 và tại v́ những đầu tầu và toa xe theo tiêu chuẩn quốc tế rẻ hơn đầu tầu và toa xe theo tiêu chuẩn khác10.
Hanna_is_offline  
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1.jpg
Views:	16
Size:	8.8 KB
ID:	308343  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.11897 seconds with 11 queries