R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
(Đài RFA 21 và 28/6)
Chỉ c̣n chưa đến 10 năm tính đến thời điểm Việt Nam phải trở thành nước công nghiệp hoá, tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn c̣n là một vấn đề gai góc, nhất là khi lượng vốn đầu tư cho lĩnh vực này rất cao, khả năng thu hồi vốn chậm.
V́ lư do nêu trên nên việc Chính phủ huy động đầu tư từ khối ngành tư nhân trong nước và nước ngoài là điều hết sức cần thiết. Nhưng mô h́nh kết hợp công tư này có điểm ǵ đặc biệt?
Mô h́nh đối tác công tư (PPP)
Mô h́nh đối tác công tư là h́nh thức đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng cơ sở gồm 9 lĩnh vực trọng yếu như đường bội, giao thông đô thị, cảng hàng không, cảng biển, hệ thống nước sạch, nhà máy điện, môi trường, y tế… với việc tham gia đầu tư của nhà nước không quá 30% vào dự án, phần c̣n lại là của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, khu vực tư nhân ở đây phải được hiểu theo nghĩa là của cả nhà đầu tư trong nước lẫn ngoài nước.
Tại Việt Nam, cần có sự góp vốn đầu tư của tư nhân vào những dự án mà khả năng thu hút vốn đầu tư không hấp dẫn, thời gian và khả năng thu hồi vốn lâu, trong khi những công tŕnh này nhà nước cần phải đầu tư ngay, nhằm phát triển kinh tế xă hội cho cả vùng hay một khu vực.
Ông Nguyễn Văn Bảo, Phó Vụ trưởng Vụ Kết cấu Hạ tầng Cơ sở (Bộ Kế hoạch Đầu tư) cho biết: “PPP là một chương tŕnh mà khung pháp lư hiện nay đang thí điểm chứ chưa hoàn thiện, mục tiêu của Chính phủ nghiên cứu là để hợp tác công tư. Nhà nước bỏ ra tuỳ theo từng dự án, nhưng tối đa chỉ là 30% tổng vốn đầu tư, c̣n lại phải đề nghị các nhà đầu tư mà chủ yếu là ở nước ngoài trực tiếp bỏ vốn vào cũng nhau thực hiện dự án”.
Ông Bảo cũng giải thích thêm về bản chất th́ mô h́nh PPP dựa trên h́nh thức BOT: xây dựng, vận hành, chuyển giao hoặc BT: xây dựng, chuyển giao do nhà đầu tư đầu tư 100% vốn xây dựng rồi sau khi hết thời gian thu hồi vốn và lăi, sẽ chuyển lại cho nhà nước quản lư. C̣n với h́nh thức PPP này, th́ nhà nước và tư nhân cũng nhau chia sẻ mức vốn đầu tư cũng như những lợi ích, rủi ro và độ phức tạp từ dự án.
C̣n chập chững
Ở các nước trên thế giới th́ h́nh thức đối tác công tư PPP này không phải là mới mẻ, mà đă có khoảng 50 năm nay, nhưng ở Việt Nam th́ mới đang ở những bước đi chập chững đầu tiên và mới chỉ dừng lại ở các mô h́nh thí điểm, như dự án đầu tiên là đường cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết đang được giao cho Bộ Kế hoạch Đầu tư thực hiện. Câu hỏi đặt ra là tại sao khối ngành tư nhân trong và ngoài nước lại muốn tham gia những dự án hạ tầng đ̣i hỏi vốn lớn và thời gain thu hồi chậm như vậy. Trả lời câu hỏi này, một chuyên gia thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư chia sẻ: “Nhà đầu tư là nhà thầu tự thi công, bởi v́ trong thi công đă có phần lăi trong đó. Cái lợi mà nhà đầu tư có thể thu được ngoài những kỳ vọng vào việc thu phí cầu đường, cầu cảng… th́ họ lại c̣n chính là nhà thi công, mà điểm này mới là quan trọng. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, áp dụng h́nh thức PPP sẽ giải quyết được nhiều bài toán về ùn tắc giao thông, tạo việc làm cho người lao động tại địa phương…”
Lợi ích và rào cản
Tác động tích cực nhất của Quy chế thí điểm PPP sẽ là mở ra cơ hội, điều kiện huy động nguồn vốn của khu vực tư nhân và nước ngoài vào việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, đồng thời tận dụng được năng lực, kỹ thuật và kinh nghiệm của các nhà đầu tư. Tuy thế, cũng giống nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, h́nh thức PPP này hiện cũng đang vấn phải một vấn đề rào cản khi thực thi là làm sao quản lư nguồn vốn này. Vị chuyên gia này cho biết tiếp: “Rào cản thực thi PPP là việc quản lư nguồn vốn đầu tư vào dự án đó, ai đứng ra quản lư và quản lư như thế nào, đầu tư ra sao là vấn đề cơ bản nhất”.
Ngoài rào cản về quản lư nguồn vốn, hiện nay c̣n có những rào cản khác là những dự án cần kêu gọi đầu tư hiện chưa được lập và phân tích một cách cụ thể. Tất cả mới chỉ dừng lại trên con số chung chung 30% và 70%. V́ thế, nhiều dự án chưa biết sẽ mang lại hiệu quả hài hoà ra sao cho nhà đầu từ và cho Chính phủ. Khi các dự án khó thực hiện, với mức thu hồi thấp, th́ nhà nước cần có chính sách cởi mở hơn nữa, không quy định cứng nhắc bao nhiêu phần trăm. V́ trước đây, kết cấu hạ tầng nhà nước phải bỏ ra 100%, nếu ta có thể huy động 50%, nhà nước bỏ ra 50% là điều chấp nhậnd dược. Học tập kinh nghiệm của Malaixia, có những dự án nhà nước bỏ ra 70%, tư nhân bỏ ra 30%, một công tŕnh tính ra 90 năm mới thu hồi vốn, nhà đầu tư thu hồi vốn trước trong ṿng 30 năm, rồi bàn giao lại cho chính phủ. Bên cạnh đó, cơ chế pháp lư liên quan đến công tác đấu thầu các dự án đầu tư vẫn là việc cần phải bàn đến. Vị chuyên gia nói thêm: “Vấn đề thứ hai là chuyện đấu thầu giữa các nhà đầu tư để tham gia h́nh thức PPP, phần đấu thầu hiện nay cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bởi v́ một nàh đầu tư khi tham gia đầu tư họ phải chuẩn bị khá lâu, thậm chí có những dự án 5 năm. Nhưng hiện nay khung pháp lư của Việt Nam, chính xác mà nói th́ vẫn căn cứ theo Nghị định 78 là cơ sở pháp lư duy nhất v́ đó là nghị định chứ c̣n Quyết định 71 th́ chỉ là quyết định của Thủ tướng mà thôi”.
Nhà nước cần làm ǵ?
Vậy để PPP trở thành một kênh thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân hiệu quả hơn nữa, phía Chính phủ cần phải làm ǵ? Theo nhiều chuyên gia kinh tế th́ hiện tại việc tính toán hiệu quả đầu tư, để từ đó phân chia hài hoà lợi ích giữa Chính phủ và nhà đầu tư vẫn là một trở ngại. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần có những h́nh thức hỗ trợ thêm về thuế, quy đổi ngoại tệ… V́ thế cần phải có một đội ngũ chuyên gia tính toán như thế nào cho chính xác và từ đó kêu gọi đầu tư, rồi có những cơ chế về thuế, nguồn thu, quy đổi ngoại tệ.
Có thể nói, để thu hút được thêm mọi nguồn vốn đầu tư từ cả trong nước lẫn nước ngoài, nhất là cho những dự án cơ sở hạ tầng lớn, th́ h́nh thức mới PPP được xem là một trong những giải pháp và bước đi được tập trung mạnh trong thời gian tới.
Tuy vậy, để mô h́nh thí điểm đó trở thành thực tế lại là cả một bước dài thực hiện. Bà Phạm Chi Lan, một chuyên gia kinh tế độc lập nhận xét: “Trước đây, gần như truyền thống của Việt Nam là chỉ có nhà nước thực hiện phát triển cơ cấu hạ tầng nên PPP cũng là ư tưởng mới của nhà nước. Tuy nhiên điều này cần phải làm một cách nhanh chóng hơn nữa, chứ c̣n chỉ thí điểm trong một vài trường hợp, rồi phải chờ rất lâu sau mới mở rộng th́ có lẽ khó đạt được yêu cầu phát triển của Việt Nam hiện nay”.
Có lẽ kết luận của bà Phạm Chi Lan cũng là mong muốn của nhiều người dân ở những nơi mà học sinh c̣n phải trèo qua những câu cầu khỉ đi học, trẻ nhỏ c̣n phải băng qua hàng chục km đường đèo đến trường hay những nơi vùng sâu vùng xa chưa bao giờ nh́n thấy bóng đèn điện. Việc xây dựng nhanh chóng hạ tầng thiết yếu, phục vụ đời sống người dân là điều đang rất được mong chờ.
***
Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam phụ thuộc xuất khẩu dẫn đến phát triển xuất khẩu ồ ạt không bền vững. Chính phủ đă nhận biết được điều đó nhưng việc chuyển đổi cơ cấu vẫn măi dậm chân tại chỗ. Việt Nam trù liệu việc giảm tốc độ sau một thập niên phát triển xuất khẩu bằng mọi giá để đạt tăng trưởng kinh tế. Theo các số liệu chính thức, trong 10 năm đầu thế kỷ 21 mức tăng GDP b́nh quân của Việt Nam là gần 8% và tăng xuất khẩu gần 19%.
Xuất khẩu nguyên liệu thôi chiếm 70%
Tiến sĩ (Ts) Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập từ Hà Nội nhận định: “Hiện nay xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ và xuất khẩu trong 10 năm gần đây không thay đổi được nhiều. Xuất khẩu tới 70% là các sản phẩm thô là dầu thô, than đá, cao su, các khoáng sản, nông sản như gạo, cà phê nâhn, hồ tiêu… c̣n sản phẩm công nghiệp như dệt may th́ trong đó phần lớn nguyên liệu dệt may phải nhập từ Trung Quốc. Tức là xuất khẩu chậm chuyển biến, chậm tiến lên một nền xuất khẩu dựa vào công nghệ cao và dựa vào giá trị gia tăng cao hơn”.
Cao su là nông sản đạt kim ngạch xuất khẩu 2,3 tỷ USD vào năm 2010. Một trong các thí dụ điển h́nh được đề cập là Việt Nam xuất khẩu mủ cao su tự nhiên rất nhiều nhưng lại phải nhập lốp xe cũng như hầu hết sản phẩm cao su. Ts. Trần thị Thuư Hoa, Tổng thư kư Hiệp hội cao su Việt Nam nhận định: “Ngành cao su xuất khẩu nguyên liệu thô chiếm 80%. Sản phẩm cao su trong đó có lốp xe vẫn c̣n ít, chúng tôi cũng nhận thấy phát triển như vậy chưa bền vững cho nên sắp tới phải đẩy mạnh các sản phẩm cao su xuất khẩu và giảm bớt xuất khẩu nguyên liệu thô. Đấy là xu hướng của ngành cao su trong tương lai. Chúng tôi cố gắng giảm xuất khẩu thô từ 80%-85% xuống c̣n 70%, để dành nguyên liệu cho sản xuất trong nước”.
Ts. Đinh Văn Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại Bộ Công thương xác nhận với báo chí là trong giai đoạn 2011-2020, nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 7,5% đến 8% nhưng tăng trưởng xuất khẩu sẽ chỉ gâp 1,5 lần thay v́ hơn 2 lần như giai đoạn trước. Việc giảm tốc độ xuất khẩu khá lớn đ̣i hỏi phải tái cấu trúc cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu.
Trả lời chúng tôi, Ts. Lê Đăng Doanh bày tỏ e ngại nếu không có hành động kịp thời, một số ngành hàng xuất khẩu qua gia công sẽ gặp nhiều khó khăn. Ông nói: “Cần thấy là trong những năm gần đây lạm phát tăng lên, Việt Nam đă phải điều chỉnh tỷ giá đồng tiền, tăng giá xăng dầu, tăng tiền lương. Nếu như xu hướng này tiếp tục, th́ ngành dệt may Việt Nam trong ṿng 5 năm nữa, theo sự tính toán của cá nhân tôi, sẽ mất khả năng cạnh tranh với những sản phẩm của Bănglađét hay của Inđônêxia v́ giá dệt may trên thị trường thế giới mang tính cạnh tranh. Trong khi đó, ở trong nước những yếu tố đầu voà của ngành dệt may liên tục tăng lên, điện tăng, xăng dầu tăng, tiền lương tăng lên, cước phí vận tải tăng lên và do phá giá đồng tiền cho nên các sản phẩm nhập khẩu chiếm đến 70-75%. Giá thành hàng dệt may xuất khẩu từ Việt Nam cũng tăng lên và lúc bấy giờ hàng dệt may Việt Nam không thể c̣n năng lực cạnh tranh với các sản phẩm của Inđônêxia và Bănglađét. Đó là một trong những điều hết sức đáng lo ngại”.
Chính sách nội địa hoá chưa thực sự phát huy
Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hội Da giày Việt Nam đồng thời là Phó chủ tịch Hội Dệt may thêu đan thành phố Hồ Chí Minh, nhận định là chính phủ có những chủ trương tốt nhưng khi thực hiện th́ không mang lại hiệu quả: “Chúng tôi cho rằng chính sách nội địa từ công nghiệp lắp ráp rồi sản xuất da giày, dệt may… và nhiều ngành khác nữa chính là để giúp giảm nhập siêu. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua cả doanh nghiệp lẫn chính phủ đều đánh giá là những chính sách đó chưa thực sự phát huy tác dụng. Do đó, vẫn tiếp tục nhập khẩu và t́nh trạng nhập siêu tiếp tục xảy ra. Trong khoảng thời gian 1 năm trở lại đây chính phủ đă quyết liệt hơn trong việc nâng cao tỷ lệ nội địa hoá”.
Về nông sản, mục tiêu giảm xuất khẩu thô để gia tăng các sản phẩm chế biến là một vấn đề nan giải v́ cần xây dựng thương hiệu, vốn đầu tư lớn và thời gian chuẩn bị cho công nghệ. Có một vài sự tiến triển ở ngành cà phê nhưng chậm và sản lượng cà phê qua chế biến là không đáng kể, có chuyên gia nói rằng 15 năm nữa cà phê Việt Nam sẽ vẫn cứ xuất nguyên liệu thô là chủ yếu.
Đối với ngành cao su, Ts. Trần thị Thuư Hoa nhận định: “Chỉ tiêu đặt ra tới năm 2015-2020 tiến đội vẫn chậm. Để cho khả thi, một mặt các doanh nghiệp trong nước nên t́m các sản phẩm thích hợp và thị trường thích hợp đối với các sản phẩm cao su. Ngoài ra chính phủ nên tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài. Để rút nhanh thời gian, nếu nước ngoài đầu tư vào sản phẩm cao su th́ cần ưu tiên, ưu đăi để nâng lượng sản phẩm cao su lên, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô”.
Việt Nam đang đứng trước các câu hỏi hóc búa, bắt nguồn từ t́nh trạng xuất khẩu nhiều mà không hiệu quả, tạo ra t́nh trạng mất cân bằng cán cân thương mại kéo dài. Hàng công nghiệp th́ phụ thuộc vào nguyên liệu đầu vào, trong khi khoáng sản, nông sản xuất khẩu thô th́ ít giá trị gia tăng. Nếu giảm tốc độ xuất khẩu nhanh th́ hàng triệu người lao động mất việc làm dẫn tới bất ổn xă hội. Điều cần làm, theo các chuyên gia, là phải tái cơ cấu xuất nhập khẩu hay rộng hơn nữa là tái cơ cấu nền kinh tế. Nếu bây giờ chưa bắt đầu th́ biết đến khi nào mới tới đích./.
|