DCVOnline - Quan hệ Việt Nam với Trung Quốc tự ngàn năm qua và trong những năm tháng gần đây hơn những sự kiện Hoàng Sa, Trường Sa, chiến tranh biên giới 1979, lấn đấn, lấn biển, khai thác quặng mỏ ở Cao Nguyên Trung phần, uy hiếp ngư dân vùng biển phía Bắc Việt Nam, v.v... đă khiến người Việt Nam, nói chung, có một cái nh́n rất ít thiện cảm với chính quyền nước CHND Trung Hoa nói riêng, hay với người Tàu nói chung.
DCVOnline xin được giới thiệu đến bạn đọc một bài viết của tác giả dchph với nhiều nhiều thông tin, lư luận về về sự liên hệ giữa “người Tàu” và “người Việt”. Bài viết chỉ là một phụ đính nhỏ viết bằng tiếng Việt trong một bản thảo của một khảo luận cùng tác giả viết bằng Anh ngữ, “What Makes Vietnamese So Chinese? An Introduction to Sinitic-Vietnamese Studies”
Mời bạn đọc theo dơi phần II, kết thúc “Một vài suy nghĩ về nguồn gốc dân Việt (On the Origin of the Vietnamese People)
Một vài suy nghĩ về nguồn gốc dân Việt (On the Origin of the Vietnamese People)
dchph
Trong mỗi giai đoạn của quá tŕnh phát triển của mỗi dân tộc, về mặt địa lư và lịch sử, có thể nhận thấy rằng thực thể dân tộc Việt Nam, phát triển song hành với sự thành h́nh của dân tộc Hán, càng xuống địa bàn phía Nam, tính hợp chủng với người dân bản xứ phía Nam càng đậm nét như khi đi sâu xuống tầng bản địa.
Nếu bạn sang viếng thăm các tỉnh thuộc miền nam của Trung Quốc ngày nay, nhất là Tỉnh Quảng Tây, bạn sẽ thấy người dân của tỉnh nầy, không khác biệt mấy với dân Việt Nam ta; thí dụ so về mặt thể chất, như là vóc người nhỏ nhắn so người Tàu phương Bắc cao lớn (do họ hoà chủng lần nữa với “rợ Hồ” thuộc gốc Tartar, người Altaic, người Kim, người Măn châu, người Mông Cổ...) và tập quán ăn uống, thí dụ, cơm gạo và bún là món ăn chính của người phương Nam thay v́ bánh bao làm bằng bột ḿ của “người Hán” phương Bắc. Cái điểm chung trong cái văn hoá ẩm thực của tất cả là ai cũng đều biết dùng “đũa” (một từ có cùng gốc với tiếng Hán), uống trà (“chè”), một đặc sản phát xuất từ phương Nam ở vùng Phúc Kiến, hay là nước Việt của Câu Tiễn ngày xưa. Cũng với cái nh́n tương tự, ở xứ ta, càng xuống sâu vào trong Nam của nước Việt thời hiện đại, yếu tố bản địa hoà chủng với dân bản xứ (người Lâm Ấp, người Chàm, người Môn, người Chân Lạp, v.v... thuộc các nền văn hoá khác nhau trong đó bao gồm nền các văn hoá Sa Huỳnh, Hồi giáo, Ấn Độ, Ốc Eo...) cũng dần dần hiện rơ nét hơn. Dường như nơi nào có địa danh bản địa nơi đó càng mang đậm nét bản xứ, thí dụ, Đà Nẵng, Quảng Đức, Buôn Mê Thuộc, Pleiku, Đắc Lắc, Phan Rí, Sóc Trăng, Hà Tiên...
Tưởng cũng nên nhắc lại là hầu hết những địa danh ở Việt Nam ngày nay, ngay cả tại những vùng mới được sát nhập vào lănh thổ Việt Nam từ sau thế kỷ thứ 12 như từ Thuận Hoá trở vào miền Nam, từ Bắc chí Nam nơi nào cũng đầy rẫy những địa danh tiếng Hán Việt hoặc đối xứng hoặc đă có sẵn bên Trung Hoa từ ngàn xưa, thí dụ, Sơn tây, Thái Nguyên, Hà Nội, Hà Bắc, Hà Nam, Hà Đông (ta “chôm” luôn cả thành ngữ “sư tử Hà Đông”), Quảng Tín, Quảng Nam (đối xứng với Quảng Đông và Quảng Tây), Tây Ninh, v.v… quá nhiều kể không xuể; và điều ǵ đă buộc người ta không dùng địa danh bản địa đă có sẵn mà lại đặt những tên mới như vậy nếu chúng không mang một ư nghĩa đặc biệt nào đó với cư dân ở đó? Thành phần dân số từ đó cũng phản ảnh một cách chừng mực, thí dụ, bản sắc người thuộc Tỉnh Hà Đông khác với người vùng Tỉnh Sóc Trăng, dân Thuận Hoá dĩ nhiên là có những nét cá biệt khác với dân Phan Rang.
Ngày xưa người Tàu phương Bắc gọi những người phương Nam là “Nam Man”, nói chung là “man” là “mọi”. Tổ tiên của những người Kinh sống ở vùng đồng bằng Sông Hồng ngay từ xưa lại cũng dùng từ “mọi” để chỉ người dân thiểu số người Thượng sống trên miền thượng du, mà họ có thể đă từng là chủ nhân ông của vùng đồng bằng ruộng lúa màu mỡ và chỉ v́ họ bị đàn áp, tàn sát, truy đuổi, bất hợp tác với người Hán thống trị cho nên đă bỏ chạy lên miền núi rừng thiêng nước độc (so sánh những biến cố xung đột sắc tộc ở miền Tây nguyên đă đẩy hàng ngàn người thuộc dân tộc thiểu số gốc Mon-Khmer sang Cam bốt 10 năm trước đây.)
Nếu quả thật là họ cùng gốc với tổ tiên của người Kinh sinh sống ở vùng b́nh nguyên th́ người Kinh đă không gọi những người Thượng bằng cái danh từ “mọi” một cách trịch thượng có tính cách miệt thị như vậy (ngược lại cũng thế, Việt kiều sống ở Cam bốt trong lịch sử đă bị cáp duồn bao lần?) trong khi đó lịch sử cho thấy người Việt bao giờ cũng tử tế với “Hoa kiều” sống chung với họ mặcdù mẫu quốc của họ đă liên tục hiếp đáp dân Việt trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước!
Trước những biến cố dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1979, nhà nước CHXNCN Việt Nam lo ngại về một viễn tượng “đội quân Tàu thứ năm” ở trong nước nên đă có chính sách mở cửa biên giới và công khai khuyến khích, nhưng không ép buộc, Hoa Kiều rời bỏ Việt Nam. Bấy giờ chỉ có một số ít khoảng 100 ngàn kiều dân chấp nhận trở về cố quốc của cha ông mấy đời trước qua ngă Nam Quan và Móng cái, c̣n số hàng trăm ngàn người c̣n lại đều theo chân người Việt chọn quê hương thứ ba khác trên thế giới.
Tính cả thảy trong thập niên 1975-85, khi người ta nói hơn một triệu người dân Việt bỏ nước ra đi, có nghĩa là hơn nửa triệu người Hoa đă được bao gồm trong đó. Khi sang định cư ở nước ngoài, Hoa kiều Việt Nam tỵ nạn vẫn giữ sự giao du làm ăn với người Việt hơn là người Tàu đến từ các xứ khác.
Người Hoa sinh sống trong những nước Đông Nam Á rất nhiều, Phi Luật Tân, Nam Dương, Thái Lan, và đặc biệt là ở Mă Lai với dân số Hoa kiều chiếm trên 33 phần trăm (thống kê chính thức) so với người gốc Mă Lai bản xứ, mà sự hoà chủng ở những xứ đó có lẽ sẽ không lặp lại những ǵ đă xảy ra ở xứ ta -- người Hán thống trị và xô đuổi dân bản địa lên miền rừng núi -- v́ lịch sử cho thấy khi kinh tế của những xứ đó mỗi khi có điều trục trặc gặp khó khăn là Hoa kiều ở đó bị “làm thịt” theo đúng nghĩa đen của từ này. Lịch sử ghi nhận trong quá khứ đă có hàng trăm ngàn Hoa kiều bị tàn sát ở Phi Luật Tân, Mă Lai, và Nam Dương. Chuyện này đă xảy ra ngay cả trong thời đại ngày nay tại Nam Dương thời thập niên 60 và chỉ mới 10 năm trước đây cho dù đa số người Hoa ở xứ đó đều mang tên họ người Nam Dương!
Tài tử người Việt, người Tàu, người Tàu, người Việt
Nguồn: DCVOnline tổng hợp
Trong khi đó, theo thống kê chính thức th́ có bao nhiêu “Hoa kiều” ở Việt Nam? Chỉ mới hơn 1 phần trăm dân số! Nếu thế, ta có thể đặt câu hỏi là dân Tàu từ phương Bắc xuống Việt Nam từ xưa nay đă biến đi đâu hết rồi? Rơ ràng là số dân Tàu di cư đến Việt Nam trong suốt hơn hai ngàn năm nay đă biến thành một thành tố không phân biệt được trong cái tổng thể cấu thành dân tộc Việt Nam. Về mặt thể chất, bạn đă đến Mỹ và tự quan sát và đă thấy, trẻ con Việt Nam ngay cả của của thế hệ thứ nhất sanh ở Việt Nam nhưng lớn lên ở Mỹ đều có vóc người cao lớn, trắng trẻo, và chúng thường bị nh́n lầm là người Tàu giữa đám đông dân Á châu như người Việt thuộc thế hệ cha chú mới đến, người Phi, hay người Campuchia nào đó. Do đó, những lư luận bàn cải về nguồn gốc dân Việt thuộc giống dân Nam Á (aka “Bách Việt”) có phải là từ lục địa xuống hay từ các hải đảo miền Nam lên 10 ngàn năm trước (?) th́ không ăn nhập ǵ tới sự kiện quan trọng là sự hoà chủng là giữa “Hán tộc” từ phương Bắc xuống với “Việt tộc” cho ra dân tộc Việt Nam ngày nay về mặt dân tộc học.
V́ vậy cách luận giải “người Việt là sự hoà chủng của người bản xứ (tức là dân Lạc Việt thuộc Bách Việt) với ‘người Hán-tạp pín lù’” có liên hệ mật thiết với sự kiện người Việt mang họ Tàu; nếu không, làm sao lư giải được sự kiện mỗi người trong chúng ta đều mang họ Tàu? Có người cho rằng nhiều họ đă được vua thưởng cho v́ có công. Nhưng triều đại Việt Nam chỉ có ngần ấy họ, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn... C̣n họ của mấy ông vua th́ các ngài lấy đâu ra, xin của ai, ai thưởng cho? Họ của người Việt chỉ có năm ba chục họ đổ lại, c̣n họ Tàu bên Tàu th́ nhiều không kể xiết, không phải trăm họ mà cả hàng ngàn họ. Ta nhận thấy rơ họ Việt là một “sub-set” của hàng ngàn họ Tàu kia.
Thực ra ta có thể làm nghiên cứu và truy nguyên ra những họ Việt tương đồng cùng gốc của những họ của những nhóm người Hoa gốc Quảng Đông và Triều Châu, của những nhóm khác có tổ tiên làm quan bên Tàu bị đày ải đi đến chốn của bọn “man di mọi rợ”, và của những người thuộc vào số người c̣n lại khác để giúp ta có thể quy ra là có nguồn gốc từ dân di cư đă đến từ miền Nam nước Tàu, cũng như từ những đám lính viễn chinh hỗn hợp đủ các sắc tộc bên Tàu có tổ tiên đă bị “Hán hoá” (mà tôi gọi là “người Hán-tạp pín lù”) trước khi thừa lệnh đến xâm chiếm vùng đất Giao Chỉ. Đa số những kẻ tha hương đó -- phần lớn là những trai tráng xuất thân cùng đinh cực khổ -- đă định cư vĩnh viễn ở vùng đất mới nơi đây.
Nên nhớ là thời xưa giao thông rất khó khăn, có người cả đời có lẽ chưa bao giờ rời xa quá 50 cây số khỏi làng mạc của họ, khi họ đă đến đây rồi họ sẽ khó mà có phương tiện để trở về cố quốc. Sau khi định cư lập ng hiệp họ đă lấy vợ người bản xứ và hoà nhập vào ḍng “Việt tộc”, sanh cháu sanh chít, tất cả do đó đều mang họ Tàu. Khái niệm “Hán hoá” là một từ lội ngược ḍng thời gian bao gồm luôn cả đa số người trong đám 500 ngàn lính viễn chinh của Tần Thỉ-Hoàng xuống chinh phục miền Nam Việt và đa số những người đó đă bị “Tần hoá” (Tàu hoá?) trước khi bị nhà Hán “Hán hoá”.
Nói đi nói lại kết luận chủ yếu vẫn là phần lớn dân Việt Nam chúng ta ngày nay là hậu duệ của dân bản xứ đă hoà chủng với những người Tàu (“người Hán-tạp pín lù”) đến vùng đất nầy ṛng ră từ hơn hai ngàn năm đổ lại đây, tính luôn thời điểm kể từ khi nước Việt giành được độc lập từ năm 936, và như vậy dân tộc Việt Nam đă thực sự thành h́nh như ta thấy ngày nay là cái tổng thể hoà hợp chủng tộc của “thổ dân” và người đến sau từ phương Bắc trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc và của những triều đại tiếp theo sau đó. Hăy so sánh cái “melting pot” của nước Mỹ, hay đúng hơn là của các nước Nam Mỹ, v́ ta có thể nhận thấy mô h́nh chủng tộc của phần đông dân số các nước châu Mỹ La Tinh sau chỉ 300 năm bị người Tây Ban Nha (Spanish) thống trị và đồng hoá, thành phần “Hispanic” (dân bản xứ hợp chủng với người Tây Ban Nha da trắng) đa số mang họ Tây Ban Nha và nói tiếng Tây Ban Nha, c̣n dân bản địa vẫn là dân bản địa, có sự phân biệt rơ ràng, và ở xứ ta, dân bản địa chính là “dân Thượng”.
Nếu thế tại sao người Việt lại không “ưa” người Tàu? Bạn có “ưa” người Tàu ở Việt Nam không? Câu hỏi nầy thật khó trả lởi. Nói đúng ra là ta không ưa cái nước Tàu khổng lồ phương Bắc thường xuyên ăn hiếp nước ta chứ không phải cá nhân Hoa kiều nào cả. Bằng chứng là người dân xứ ta đă sống rất hoà đồng với nhiều cộng đồng người Hoa chung quanh, đa số là hậu duệ của những người mới di cư đến sau, cỡ từ 500 năm đổ lại đây, đó là người Quảng đông, người Hẹ, người Hải Nam, người Phúc Kiến, và người Minh hương bao gồm người Triều Châu, mà trên thống kê chính thức thiểu số người Hoa ở Việt Nam mới hơn khoảng 1 phần trăm dân số.
Bởi những lư do lịch sử, nước Việt dường như lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị để đối đầu với những đe doạ uy hiếp từ anh Tàu (để chỉ Trung Quốc) v́ anh ta quá mạnh xưa nay, nhất là vào thời điểm của thế kỷ 21 ngày nay. Từ xưa đến nay nước Việt lúc nào cũng phải hoà hoăn t́m cách pḥng vệ để khỏi bị Bắc thuộc một lần nữa. Ngày nay nhà nước CHXHCN Việt Nam chơi với anh Tàu, nhưng dân ta cũng như người Đài loan, người Tân Gia Ba, người Mă Lai -- về mặt thời gian th́ họ thuộc thời cận đại – không ai muốn trực thuộc Trung Quốc hết mặc dù thành tố người Tàu ở những xứ này rất là đông đảo. Mô h́nh chủng tộc của Việt Nam chính là h́nh ảnh của Đài Loan sau hai ngàn năm nữa, nếu xứ nầy c̣n tồn tại như một thực thể riêng biệt như ta thấy ngày hôm nay, dân của xứ này sẽ không nhận họ là “người Tàu” mà họ sẽ tự xem ḿnh là dân Đài Loan (ngày nay đă thế) mặc dù thành phần dân bản xứ (“thổ dân”) Đài loan rất là ít (nếu bạn sang Đài loan và thấy rất nhiều người nhai trầu bỏm bẻm khắp nơi, đó là hậu duệ của dân Phúc Kiến, là hậu duệ của sắc tộc Âu Việt trong tộc Bách Việt đă hoà chủng với “người Hán-tạp pín lù” chứ không nhất thiết phài là “thổ dân” gốc Austronesian).
Có phải nói như vậy mọi người trong chúng ta mang họ Tàu đều có tổ tiên là người Tàu hết à? Trả lời thoả đáng câu hỏi nầy chưa có nghiên cứu đứng đắn nào trực diện với vấn đề một cách khách quan (không có đầ uóc thiên Tàu hoặc bài Tàu) và khoa học (như là lập bảng mô h́nh gene-DNA -- không hiểu sao các ông khoa học gia nhà ta vẫn c̣n chưa thực hiện nổi dự án nầy -- cũng như đồng thời tiến hành những nghiên cứu mới mẻ về lịch sử cổ đại của các dân tộc thuộc tộc Bách việt như đă được ghi chép rải rác và tản mạn trong cổ thư của Tàu nhưng chưa có nghiên cứu nào nhắc đến chúng, không cứ phải nhai đi nhai lại những điều đă có sẵn từ Hoàng Lê Thông nhất Chí, Đại Nam Sử Lược, Việt Nam Sử Lược, v.v...)
Tóm lại, dưới mắt nh́n của tôi, người Việt của nước Việt ngày nay chính là hậu duệ của một tổng thể thành tựu và kết tủa từ đám cháu chít của dân bản địa -- tính luôn cả những nhóm đă bị hoà chủng hoàn toàn trước đó -- họ là những người gốc Tàu đă hoàn toàn “An Nam hoá” từ nhiều đời liên tục trong suốt hơn hai ngàn năm trước và đă trở thành “người Kinh” hay “dân tộc Kinh”. Trong thời đại ngày nay cứ đơn giản nh́n quanh bạn những người quen biết là bạn thấy ngay tỷ lệ Tàu/Việt khá cao, đó là chưa kể những người gốc Tàu đă hoàn toàn Việt hoá. Thí dụ, bên ngoại của tôi, nguyên cũng là người gốc Hải Nam và ông ngoại tôi vẫn c̣n nói trọ trẹ tiếng Việt, nhưng nay tất cả gia đ́nh phía cậu d́ cùng anh em cậu mợ đều đă trở thành người Việt Nam 100 phần trăm, và dĩ nhiên là cái họ Diệp chưa hề bị thay đổi.
C̣n “người Thượng”, họ là ai? Họ chính là những người dân bản địa bị đẩy lên vùng miền thượng du (tổ tiên của Mạc Đặng-Dung là người có thể thuộc dân tộc Tày -- Dai, Tai, Thai -- mà có sách gọi là dân tộc Đản thời cổ đại), trong số đó có cả “người Mường” (gần gũi với người Việt nhất, và Vua Lê Lợi có thể là người gốc Mường) là những người bất hợp tác với những người chủ mới trên đất đai của họ, là giai cấp thống trị của nhà Hán bắt đầu trước hơn thuở vùng đất Giao Chỉ được đổi tên thành Giao Châu vào khoảng năm 197.
Do đó từ câu chuyện nguồn gốc họ P. của tôi và họ Diệp bên ngoại tôi, nói thêm dăm ba câu nhàn đàm về họ Huỳnh của bạn, rồi nếu có tán thêm về họ Khổng, họ Đỗ, họ Vơ, họ Cao, họ Đoàn, họ Trịnh, họ Lâm, họ Lê, họ Lưu, họ Phạm, v.v.. cuối cùng kết luận tất cả vẫn đều là những họ Tàu. Và nói chung, không có họ nào là họ Việt Nam thuần tuư cả, kể cả họ Nông. Người ta cũng cho rằng họ Nông là họ của người Nùng nhưng thựcra đó cũng là họTàu!
Lư Thừa Văn, Yi Seungman hay Syngman Rhee, Tổng thống của Republic of Korea (xưng là người gốc Việt)
Nguồn: Wikipedia
Nói về người Nùng, như đă kể trên, đây là nhóm dân tộc thiểu số có mặt khắp nơi từ trên miền thượng du Bắc bộ ở Việt Nam trải dài đến suốt cả vùng miền nam Trung Quốc. Dân tộc nầy ở Trung Quốc ngày nay người ta gọi là tộc Tráng, dù họ vẫn giữ bản sắc riêng thuy đa số bây giờ cũng đă bị Hán hoá khá nhiều, tất cả hầu như ai cũng đều mang họ Tàu như ta. Cũng như sắc tộc Lạc Việt, tổ tiên của dân Nùng là một thành phần của các dân tộc Bách Việt của trên 4000 năm trước nằm trên địa bàn miền Nam Trung hoa vượt qua bên tả ngạn Sông Dương Tử lên tận đến vùng thuộc Tỉnh Sơn Đông miền Đông Bắc nước Tàu trước khi người Hán bành trướng đến chiếm lĩnh và đồng hoá. Trong thời đại ngày nay, dân tộc Tráng (Nùng) là một dân tộc có số dân thiểu số đông nhất thế giới, hơn 20 triệu người, sống trong một lănh thổ mà họ không có quốc gia riêng (quốc gia riêng của họ ngày xưa đă bị thay thế bằng nước Sở cách đây trên 2500 năm). Địa bàn tập tru ng của dân tộc nầy ngày nay nằm trong khu vực tự trị của Tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày xưa, người Nùng là người bất hợp tác với người Hán, số người chấp nhận sự Hán hoá, ngày nay đă trở thành người Quảng Đông, người Phúc Kiến!
Tôi đă từng hoài nghi là người Việt cổ đại của tổ tiên dân tộc Việt Nam ngày nay có máu mủ quan hệ với dân Nùng nhưng luận cứ nầy chỉ căn cứ trên những sự kiện văn hoá như di vật trống đồng mà cho tới ngày nay họ vẫn c̣n sử dụng vào các dịp lễ lạc (họ c̣n có cả chuyện cổ tích về nguồn gốc trống đồng), sự tích nỏ thần, và về mặt ngôn ngữ, ngữ pháp của tiếng Nùng có cấu trúc danh từ đi trước h́nh dung từ đi sau, và vết tích nầy vẫn c̣n hằn dấu trong tiếng Quảng Đông, thí dụ, “gà cồ” họ gọi là “cáy công” (tiếng Phước Kiến, Triềuchâu, và Hải Nam cũng đều có cách nói tương tự.) Có điều là khi tôi nghiên cứu từ nguyên đă không t́m thấy sự tương đồng nào đáng kể với các cụm từ cơ bản giữa tiếng Nùng và tiếng Việt, có lẽ v́ từ nguyên tiếng Việt đă bị Hán lấn át gần hết.