Văn pḥng Ngân sách Quốc hội tính toán rằng tổng nợ chính phủ sẽ lên tới 100% GDP vào năm 2023, và nhiều nhà kinh tế bắt đầu lo ngại khi các mức nợ ở những nước giàu đă vượt quá 90%. Nhưng như tạp chí The Economist đă chỉ ra hồi cuối tháng 6, “Mỹ có hai lợi thế khổng lồ so với những nước khác cho phép nước này đối mặt với những khoản nợ của ḿnh với thái độ tương đối b́nh thản: có cả đồng tiền dự trữ của thế giới lẫn thị trường tài sản có tính thanh khoản cao nhất của ḿnh, trong trái phiếu kho bạc”. Và trái ngược với những ngại về một sự sụp đổ ḷng tin vào đồng đôla, trong cuộc khủng hoảng tài chính, đồng đôla đă tăng lên và lợi tức trái phiếu giảm xuống. Một cuộc khủng hoảng ḷng tin đột ngột ít là vấn đề hơn một sự gia tăng dần dần trong chi phí trả lăi cho các khoản nợ có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ dài hạn của nền kinh tế.
Chính trong nghĩa này mà vấn đề nợ là quan trọng, và những nghiên cứu cho thấy rằng lăi suất tăng 0,03% cho mỗi một phần trăm tăng lên trong tỉ suất nợ trên GDP trong dài hạn. Lăi suất cao hơn có nghĩa là đầu tư vào khu vực tư nhân thấp hơn và tăng trưởng chậm hơn. Những tác động này có thể được giảm nhẹ bằng những chính sách tốt hoặc bị làm trầm trọng thêm bởi những chính sách tồi. Nợ tăng lên không nhất thiết dẫn tới sự suy thoái của Mỹ, nhưng nó chắc chắn làm tăng rủi ro dài hạn.
Một lực lượng lao động được đào tạo tốt là một ch́a khoá khác cho thành công về kinh tế trong thời đại thông tin. Thoạt nh́n, Mỹ làm tốt về mặt này. Nước này đă chi cho giáo dục đại học gấp đôi tính theo tỉ lệ phần trăm GDP so với Pháp, Đức, Nhật Bản và Anh. Danh sách top 10 trường đại học năm 2009 của Times Higher Education có trụ sở tại Luân Đôn bao gồm 6 trường ở Mỹ, và một nghiên cứu năm 2010 của Đại học Giao thông Thượng Hải xếp 17 trường của Mỹ – và không có trường nào của Trung Quốc – trong top 20 của ḿnh. Người Mỹ giành giải Nôben và công bố các tài liệu khoa học trên những tạp chí được các nhà chuyên môn kiểm duyệt – gâp ba lần người Trung Quốc – nhiều hơn công dân của bất cứ nước nào khác. Những thành tựu này tăng cường cả sức mạnh kinh tế lẫn sức mạnh mềm của đất nước này.
Nền giáo dục Mỹ trong điều kiện tốt nhất của ḿnh – nhiều trường đại học và bộ phận trên trong hệ thống giáo dục trung học – đáp ứng hoặc đưa ra các tiêu chuẩn toàn cầu. Nhưng nền giáo dục Mỹ trong điều kiện tồi tệ nhất của ḿnh – quá nhiều trường tiểu học và trung học, đặc biệt tại những khu vực ít giàu có – tụt hậu nặng nề. Điều này có nghĩa là chất lượng của lực lượng lao động sẽ không theo kịp các tiêu chuẩn đang tăng lên cần thiết trong một nền kinh tế do thông tin thúc đẩy. Không có bằng chứng thuyết phục rằng các sinh viên đang thể hiện tồi hơn trong quá khứ, nhưng lợi thế về giáo dục của Mỹ đang xói ṃn bởi v́ các nước khác đang làm tốt hơn bao giờ hết. Sự cải thiện trong hệ thống giáo dục K-12 của đất nước sẽ là cần thiết nếu nước này muốn đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết trong một nền kinh tế dựa trên thông tin.
Hoạt động chính trị và các thể chế
Bất chấp những vấn đề và sự không chắc chắn này, dường như khả năng là với các chính sách đúng đắn, nền kinh tế Mỹ có thể tiếp tục tạo ra sức mạnh cứng cho đất nước. Nhưng c̣n về các thể chế của Mỹ th́ sao? Nhà báo James Fallows, người đă sống nhiều năm ở Trung Quốc, trở về nước lo lắng về thành tích kinh tế của Mỹ th́ ít hơn so với những tắc nghẽn trong hệ thống chính trị của nước này. Theo quan điểm của ông, “Mỹ vẫn có các phương tiện để đối phó với gần như bất kỳ sự yếu kém về cơ cấu nào của nó… Đó là bi kịch của Mỹ đầu thế kỷ 21: một nền văn hoá có ư nghĩa sống c̣n và tự đổi mới thu hút nhân tài của thế giới và một hệ thống quản lư ngày càng giống như một tṛ đùa”. Mặc dù bế tắc chính trị trong một giai đoạn suy thoái có vẻ tồi tệ, nhưng khó xác định liệu t́nh trạng hiện nay có tồi tệ hơn nhiều so với quá khứ hay không.
Sự chuyển đổi sức mạnh – chuyển các nguồn lực sức mạnh thành kết quả mong muốn – là một vấn đề lâu dài đối với Mỹ. Hiến pháp Mỹ dựa trên quan điểm tự do của thế kỷ 18 rằng sức mạnh được kiểm soát tốt nhất bởi sự phân mảng và hệ thống “checks and balances” (kiểm tra và cân bằng) bù lại (“checks and balances” là một hệ thống chính trị trong một nước dân chủ, gồm 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó mỗi ngành có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực của hai ngành kia để tạo ra sự cân bằng quyền lực). Trong chính sách đối ngoại, Hiến pháp luôn luôn khuyến khích Tổng thống và Quốc hội cạnh tranh để giành quyền kiểm soát. Các nhóm gây sức ép về kinh tế và sắc tộc mạnh mẽ đấu tranh đ̣i những sự định nghĩa có tính tư lợi của họ về lợi ích quốc gia, và Quốc hội được định ra để tập trung vào những vấn đề trục trặc.
Một nguyên nhân khác của mối lo ngại là sự suy giảm ḷng tin của công chúng vào cac thể chế chính phủ. Trong năm 2010, một cuộc thăm ḍ của Trung tâm nghiên cứu Pew thấy rằng 61% số người được hỏi nghĩ rằng Mỹ đă suy thoái, và chỉ 19% tin rằng chính phủ làm điều ǵ là đúng đắn trong phần lớn thời gian. Ngược lại, vào năm 1964, ba phần tư công chúng Mỹ nói rằng họ tin chính phủ liên bang làm những việc đúng đắn trong hầu hết thời gian. Các con số đă thay đổi phần nào qua thời gian, tăng sau sự kiện ngày 11/9 trước khi giảm dần trở lại.
Mỹ được h́nh thành một phần dựa vào một mối ngờ vực về chính phủ, và hiến pháp của nước này được thiết kế để chống lại quyền lực tập trung. Hơn nữa, khi được hỏi không phải về chính phủ thường ngày, mà về khuôn khổ hiến pháp cơ bản, người Mỹ rất tích cực. Nếu được hỏi nơi tốt nhất để sống là ở đâu, đại đa số trong số họ nói là Mỹ. Nếu được hỏi liệu họ có thích hệ thống chính phủ dân chủ của ḿnh hay không, gần như tất cả mọi người nói có. Ít người cảm thấy hệ thống này mục nát và phải bị lật đổ.
Một số khía cạnh của tâm trạng hiện tại có thể thể hiện sự bất măn với những cuộc căi vă và bế tắc trong tiến tŕnh chính trị. So với thời gian gần đây, hoạt động chính trị đảng phái đă trở nên phân cực hơn, nhưng hoạt động chính trị tồi tệ không có ǵ mới – như John Adams, Alexander Hamilton, và Thomas Jefferson có thể chứng thực. Một phần của vấn đề với việc đánh giá bầu không khí hiện nay là việc niềm tin vào chính phủ đă trở nên cao khác thường trong thế hệ đă sống sót qua cuộc Suy thoái và chiến thắng Chiến tranh thế giới thứ Hai. Trong tầm nh́n dài về lịch sử nước Mỹ, thế hệ đó có thể là bất thường. Nhiều bằng chứng về một sự mất ḷng tin vào chính phủ xuất phát từ dữ liệu thăm ḍ hiện đại, và những phản ứng rất nhạy cảm với cách các câu hỏi được nêu ra. Sự suy thoái mạnh nhất đă xảy ra hơn bốn thập kỷ trước, dưới thời Chính quyền Johnson và Nixon.
Điều này không có nghĩa là không có vấn đề với niềm tin đang suy giảm vào chính phủ. Nếu công chúng trở nên không sẵn ḷng nộp thuế hoặc tuân theo pháp luật, hoặc nếu người trẻ tuổi sáng dạ từ chối tham gia khu vực dịch vụ công, năng lực của chính phủ sẽ bị ảnh hưởng, và người ta sẽ trở nên bất măn hơn với chính phủ. Hơn nữa, một không khí nghi ngờ có thể gây ra những hành động cực đoan của các thành viên lầm đường lạc lối trong dân số, chẳng hạn như vụ đánh bom năm 1995 một toà nhà văn pḥng liên bang ở Oklahoma City. Những kết quả như vậy có thể làm giảm bớt sức mạnh cứng và mềm của Mỹ.
Tuy nhiên, cho đến nay, những nỗi lo sợ này dường như chưa thành hiện thực. Cơ quan thuế vụ đă không thấy sự gia tăng trong gian lận thuế. Theo nhiều thông tin thu thập đựơc, các quan chức chính phủ đă trở nên ít tham nhũng hơn trong những thập kỷ trước đó, và Ngân hàng Thế giới cho Mỹ một điểm số cao (đạt phân vị 90 trên một trăm) về “kiểm soát tham nhũng”. Việc tự nguyện nộp lại bản khai điều tra tăng lên 67% vào năm 200 và cao hơn một chút vào năm 2010, đảo ngược sự suy giảm 30 năm. Các tỷ lệ bỏ phiếu đă rơi từ 62% xuống 50% trong bốn thập niên sau năm 1960, nhưng sự suy giảm đă dừng lại vào năm 2000 và quay trở lại 58% vào năm 2008. Nói cách khác, hành vi của công chúng không thay đổi đột ngột như phản ứng của họ đối với những câu hỏi thăm ḍ ư kiến cho thấy.
Những thay đổi trong vốn xă hội nghiêm trọng như thế nào khi nói đến hiệu quả của các thể chế của Mỹ? Nhà khoa học chính trị Robert Putnam lưu ư rằng trái phiếu cộng đồng đă không suy yếu dần dần trong thế kỷ qua. Ngược lại, lịch sử Mỹ, được xem xét một cách cẩn thận, là một câu chuyện về những thăng trầm trong sự can sự dân sự. Theo Pew Partnership for Civic Change, ba phần tư người Mỹ cảm thấy có liên kết với cộng đồng của họ và nói rằng chất lượng cuộc sống ở đó tuyệt vời hoặc tốt. Một cuộc thăm ḍ khác trong các cuộc thăm ḍ của nhóm này thấy rằng 111 triệu người Mỹ đă t́nh nguyện dành thời gian của họ để giúp giải quyết những vấn đề trong các cộng đồng của họ trong 12 tháng qua và rằng 60 triệu người t́nh nguyện trên cơ sở thường xuyên. Bốn mươi phần trăm nói rằng làm việc cùng với những người khác trong cộng đồng của họ là điều quan trọng nhất mà họ có thể làm.
Trong những năm gần đây, hoạt động chính trị và các thể chế chính trị của Mỹ đă trở nên phân cực hơn so với sự phân loại thực tế của công luận cho thấy. T́nh h́nh trầm trọng thêm bởi sự suy thoái kinh tế gần đây. Như The Economist lưu ư, “hệ thống chính trị của Mỹ được thiết kế để làm cho việc lập pháp ở cấp liên bang khó khăn, chứ không phải dễ dàng… Như vậy hệ thống cơ bản phát huy tác dụng; nhưng điều đó khong có lư do ǵ để bào chữa cho việc bỏ qua các khu vực mà có thể được cải cách”. Một số cải cách quan trọng, chẳng hạn như thay đổi những ghế an toàn được sắp xếp gian lận trong Hạ viện hoặc sửa đổi các quy định của Thượng viện đối với những người cản trở việc thông qua một dự luật – sẽ không yêu cầu bất kỳ sự sửa đổi về hiến pháp nào. Vẫn c̣n phải xem liệu hệ thống chính trị Mỹ có thể cải cách chính nó và đối phó với các vấn đề được miêu tả ở trên hay không, nhưng nó không tan vỡ như ngụ ư của các nhà phê b́nh vẽ ra những tương đồng đối với t́nh trạng suy tàn trong nước của La Mă hoặc các đế chế khác.
Sự suy thoái gây tranh luận
Bất kỳ đánh giá thực nào về quyền lực Mỹ trong những thập kỷ tới sẽ vẫn không chắc chắn, nhưng sự phân tích không được giúp đỡ bởi những phép ẩn dụ sai lệch về sự suy thoái. Những nhà phát triển lư thuyết suy thoái nên được cảnh tỉnh bằng việc ghi nhớ cách đánh giá cực kỳ phóng đại của Mỹ về sức mạnh của Liên Xô những năm 1970 và về sức mạnh của Nhật Bản những năm 1980 như thế nào. Sai lầm không kém là những người tiên đoán về sự đơn cực đó vốn lập luận một thập kỷ trước rằng Mỹ đă mạnh mẽ đến mức nước này có thể làm như ḿnh muốn và những nước khác không có lựa chọn nào khác ngoài làm theo. Ngày nay, một số người tự tin dự đoán rằng thế kỷ 21 sẽ chứng kiến Trung Quốc thay thế Mỹ với tư cách nhà nước lănh đạo thế giới, trong khi những người khác lập luận với sự tự tin không kém rằng thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Mỹ. Nhưng những sự kiện không lường trước được thường làm hỏng những dự đoán như vậy. Luôn có một loạt những tương lai có thể xảy ra, không phải một.
Về sức mạnh của Mỹ có liên quan đến sức mạnh của Trung Quốc, nhiều điều sẽ phụ thuộc vào những bấp bênh của sự thay đổi chính trị trong tương lai tại Trung Quốc. Trừ phi có bất kỳ cuộc chính biến nào, quy mô và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao của Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ làm tăng sức mạnh tương đối của nước này so với Mỹ. Điều này sẽ đưa Trung Quốc lại gần Mỹ hơn về các nguồn lực sức mạnh, nhưng không nhất thiết có nghĩa rằng Trung Quốc không phải chịu những bước thụt lùi về chính trị lớn ở trong nước. Những dự đoán dựa trên chỉ riêng tăng trưởng GDP là một chiều. Chúng bỏ qua những lợi thế của Mỹ trong sức mạnh quân sự và sức mạnh mềm, cũng như những bất lợi địa chính trị của Trung Quốc trong cán cân quyền lực của châu Á.
Trong loạt những tương lai có thể xảy ra, nhiều khả năng hơn là những tương lai trong đó Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt với Mỹ nhưng không vượt qua nước này về sức mạnh tổng thể trong nửa đầu thế kỷ này. Nh́n lại lịch sử, chiến lược gia người Anh Lawrence Freedman đă lưu ư rằng Mỹ có “hai đặc điểm phân biệt nước này với các cường quốc thống trị trong quá khứ: sức mạnh của Mỹ dựa trên các liên minh chứ không phải các thuộc địa và được kết hợp với một ư thức hệ linh hoạt… Cùng nhau chúng tạo ra một ṇng cốt của những mối quan hệ và những giá trị mà Mỹ có thể quay trở lại ngay cả sau khi nước này đă tự ḿnh mở rộng quá mức”. Và nh́n về tương lai, học giả Anne – Marie Slaughter đă lập luận rằng văn hoá cởi mở và đổi mới của Mỹ sẽ giữ cho nó ở trung tâm trong một thế giới nơi các mạng lưới bổ sung, nếu không nói là hoàn toàn thay thế, sức mạnh theo thứ bậc.
Mỹ cũng được ở vào vị trí thuận lợi để hưởng lợi từ những mạng lưới và liên minh như vậy, nếu nước này theo các chiến lược khôn ngoan. Do những lo ngại của Nhật Bản về sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc, Nhật Bản có khả năng hơn t́m kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để bảo vệ sự độc lập của ḿnh thay v́ liên minh với Trung Quốc. Điều này làm tăng vị thế của Mỹ. Trừ phi người Mỹ hành động một cách thiếu khôn ngoan đối với Nhật Bản, một Đông Á đồng minh không phải là một ứng cử viên đáng tin cậy để thay thế theo đầu người và các nền kinh tế tân tiến tương tự như của Mỹ – đó là Liên minh châu Âu và Nhật Bản – th́ đều là đồng minh của Mỹ. Trong biểu hiện mang tính hiện thực truyền thống dưới dạng những cán cân nguồn lực sức mạnh, điều đó tạo ra một sự khác biệt lớn đối với vị trí thực của sức mạnh Mỹ. Và trong một quan điểm về sức mạnh kiểu mọi thành phần tham gia đều có cơ hội thắng hơn – rằng nắm quyền lực cùng với, thay v́ đối với, các nước khác – châu Âu và Nhật Bản cung cấp các nhóm nguồn lực lớn nhất để đối phó với các vấn đề xuyên quốc gia chung. Mặc dù lợi ích của họ không đồng nhất với những lợi ích của Mỹ, họ chia sẻ các mạng lưới xă hội và chính phủ gối lên nhau với Mỹ, điều đem lại các cơ hội hợp tác.
Về vấn đề sự suy thoái tuyệt đối, thay v́ tương đối, của Mỹ, nước Mỹ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng trong các lĩnh vực như nợ, giáo dục trung học, và bế tắc chính trị. Nhưng chúng chỉ là một phần của bức tranh. Nằm trong nhiều tương lai có thể xảy ra, những trường hợp rơ ràng hơn có thể được tao ra cho những tương lai tích cực hơn là những tương lai tiêu cực. Nhưng trong những tương lai tiêu cực, tương lai hợp lư nhất là một tương lai trong đó Mỹ phản ứng quá mức với các cuộc tấn công khủng bố bằng cách chuyển sang hướng nội và do đó tự cắt đứt ḿnh khỏi sức mạnh mà nước này có được từ sự mở cửa. Tuy nhiên, trừ phi có những chiến lược sai lầm như vậy, có những giải pháp cho các vấn đề chính của Mỹ ngày nay. (Chẳng hạn, nợ dài hạn có thể được giải quyết bằng cách sau khi nền kinh tế hồi phục đưa ra những sự cắt giảm chi tiêu và thuế tiêu thụ có thể trả tiền phúc lợi.) Tất nhiên, những giải pháp như vậy có thể măi măi vẫn c̣n nằm ngoài tầm với. Nhưng điều quan trọng là phân biệt những t́nh huống tuyệt vọng mà trong đó không có giải pháp nào với những t́nh huống mà trên nguyên tắc có thể được giải quyết. Rốt cuộc, những cải cách lưỡng đảng của thời đại Tiến bộ cách đây một thế kỷ đă phục hồi một đất nước bị rối loạn nặng nề.
Một câu chuyện mới
Đă đến lúc có một câu chuyện mới về tương lai của sức mạnh Mỹ. Mô tả sự chuyển giao quyền lực trong thế kỷ 21 như một trường hợp suy giảm bá quyền truyền thống là không chính xác, và nó có thể dẫn đến những tác động về chính sách nguy hiểm nếu nó khuyến khích Trung Quốc can dự vào các chính sách mạo hiểm hay Mỹ phản ứng thái quá v́ sợ hăi. Mỹ không phải trong t́nh trạng suy thoái tuyệt đối, và về mặt tương đối, có một khả năng hợp lư rằng nước này sẽ vẫn hùng mạnh hơn bất kỳ nhà nước đơn lẻ nào trong những thập kỷ tới.
Đồng thời, đất nước này chắc chắn sẽ phải đối mặt với sự trỗi dậy trong các nguồn lực sức mạnh của nhiều nước khác – cả các bên tham gia nhà nước lẫn không phải nhà nước. Bởi sự toàn cầu hoá sẽ làm lan truyền những khả năng công nghệ và công nghệ thông tin sẽ cho phép thêm nhiều người giao thiệp hơn, văn hoá Mỹ và nền kinh tế Mỹ sẽ trở nên ít mang tính chi phối trên toàn cầu hơn so với lúc bắt đầu của thế kỷ này. Tuy nhiên, không có khả năng là Mỹ sẽ suy tàn giống như La Mă cổ đại, hoặc thậm chí là nước này sẽ bị một nhà nước khác vượt qua, trong đó có Trung Quốc.
Như vậy, vấn đề về sức mạnh của Mỹ trong thế kỷ 21 không phải là vấn đề suy giảm mà là phải làm ǵ dưới ánh sáng của nhận thức rằng ngay cả đất nước lớn nhất cũng không thể đạt được những kết quả ḿnh mong muốn nếu không có sự giúp đỡ của những nước khác. Một số lượng ngày càng tăng những thách thức sẽ đ̣i hỏi Mỹ thể hiện sức mạnh cùng với những nước khác cũng nhiều như sức mạnh đối với những nước khác. Điều này đến lượt nó sẽ đ̣i hỏi một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sức mạnh, nó đang thay đổi như thế nào, và làm thế nào để xây dựng những chiến lược “sức mạnh thông minh” kết hợp những nguồn lực sức mạnh cứng và mềm trong một thời đại thông tin. Khả năng của đất nước này duy tŕ các liên minh và tạo ra những mạng lưới sẽ là một khía cạnh quan trọng trong sức mạnh cứng và mềm của nó.
Sức mạnh bản chất là không tốt hay xấu. Nó giống như calo trong chế độ ăn uống: nhiều hơn không phải luôn tốt hơn. Nếu một đất nước có quá ít nguồn lực sức mạnh, nước này ít có khả năng đạt được những kết quả ưa thích của ḿnh. Nhưng quá nhiều sức mạnh (về nguồn lực) thường tỏ ra là một tai ương khi nó dẫn đến sự tự tin quá mức và những chiến lược không thích hợp. David giết được Goliath v́ nguồn lực sức mạnh ưu việt của Goliath khiến hắn theo đuổi một chiến lược yếu kém hơn, chiến lược mà đến lượt nó dẫn đến thất bại và cái chết của hắn. Một câu chuyện về sức mạnh thông minh cho thế kỷ 21 không phải về việc tối đa hoá sức mạnh hoặc duy tŕ bá quyền. Đó là về việc t́m ra cách để kết hợp các nguồn lực trong những chiến lược thành công trong bối cảnh mới của sự khuếch tán quyền lực và “sự trỗi dậy của phần c̣n lại”.
Là quốc gia lớn nhất, Mỹ sẽ vẫn quan trọng trong các vấn đề toàn cầu, nhưng câu chuyện của thế kỷ 20 về một thế kỷ Mỹ và sự ưu việt Mỹ – cũng như những câu chuyện về sự suy thoái của Mỹ – gây hiểu lầm khi nó được sử dụng như một sự chỉ dẫn cho kiểu chiến lược sẽ cần thiết trong thể kỷ 21. Những thập kỷ tới không có khả năng chứng kiến một thế giới hậu Mỹ, nhưng Mỹ sẽ cần một chiến lược thông minh kết hợp các nguồn lực sức mạnh cứng và mềm – và chú trọng đến những liên minh và những mạng lưới đáp ứng được với bối cảnh mới của một thời đại thông tin toàn cầu./.
THÔNG TẤN XĂ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Chủ Nhật, ngày 30/01/2011
TƯƠNG LAI CỦA SỨC MẠNH MỸ
(Tạp chí “Foreign Affairs” số 11-12/2010)
Theo dailyvnews