Trong mắt người bản xứ, "cờ vàng gắn liền với ẩm thực, trí tuệ và sự bất khuất của tinh thần Việt Nam." "Dù cuộc di dân này đau thương, nhưng nó lại đặt Việt Nam lên bản đồ văn hóa thế giới."
Người ta nhắc đến thuyền nhân như những kẻ bị "dồn đến kiệt cùng của bi thương, đến quê hương mới với chỉ một manh áo và những thương tổn tinh thần thảm khốc." Họ khâm phục "những ông bố bà mẹ ở Việt Nam th́ sống quư tộc, nhưng sang đây sẵn sàng đi cọ rửa bồn cầu để con cái được đổi đời." "Chỉ trong hai thế hệ, người Việt đă quật cường vươn lên, gần đuổi kịp những cộng đồng Á châu khác."
Người ta biết đến những "món ăn đường phố số 1 thế giới." Người ta khâm phục "cách người Việt kiếm ăn, khởi đầu từ những bộ đồ nghề ít vốn, không cần nói tiếng bản địa, và biến nghề làm móng trở thành đế chế kinh tế doanh nhiều tỷ đô la."
V́ những ấn tượng với cộng đồng tị nạn, người ta bắt đầu "ṭ ṃ về Việt Nam," "trở thành khách du lịch," "nhà đầu tư," "đối tác" trong kinh tế, khoa học, nghệ thuật. Các chính trị gia "thúc đẩy ngoại giao" với Việt Nam.
Họ yêu quư Việt Nam không phải v́ "ta đánh Mỹ giỏi," mà khởi nguồn từ "sự dẻo dai, nhẫn nại, khiêm cung" của một cộng đồng tuy phải "trốn chạy khỏi quê hương," nhưng vẫn "chở nặng trên vai một chữ Việt."
__________________
|