R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2005
Posts: 35,332
Thanks: 30,031
Thanked 20,598 Times in 9,419 Posts
Mentioned: 163 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 817 Post(s)
Rep Power: 85
|
Phan Thanh Giản sinh năm 1796 tại làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, trấn Vĩnh Thanh, nay thuộc tỉnh Bến Tre. Thuở nhỏ nhà nghèo, thân phụ mất sớm, cụ được mẹ tảo tần nuôi lớn trong cảnh thiếu thốn. Từ nhỏ đă nổi tiếng thông minh, cần mẫn, nên dù nghèo khó vẫn quyết chí đèn sách.
Năm 1825, dưới triều vua Minh Mạng (ở ngôi 1820–1841), Phan Thanh Giản đỗ Tiến sĩ, trở thành người Nam Kỳ đầu tiên đạt học vị cao quư này. Từ đó, cụ bước vào quan trường, làm quan trải qua ba triều vua lớn: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Đến thời vua Tự Đức (ở ngôi từ 1847 đến 1883), vận nước suy yếu rơ rệt. Khi thực dân Pháp nổ súng chiếm Đà Nẵng năm 1858, rồi đánh Gia Định năm 1859, nhà Nguyễn rơi vào thế tuyệt vọng. Trước t́nh h́nh đó, vua Tự Đức, biết cụ Phan Thanh Giản là người đức độ, hiểu biết, nên giao cho cụ trọng trách đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha năm 1863, với hy vọng điều đ́nh, giành lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đă rơi vào tay Pháp.
Đi cùng cụ trên chuyến sứ mệnh năm 1863 là hai phó sứ: Phạm Phú Thứ và Nguyễn Khắc Niêm.
Đoàn sứ bộ lên đường, băng qua biển lớn đến tận Paris và Madrid.
Tại Pháp, Phan Thanh Giản được tiếp xúc với Hoàng đế Napoléon III. Nhưng hy vọng chuộc đất là điều viển vông. Pháp, lúc ấy đang mở rộng thuộc địa khắp thế giới, không có ư định trả đất cho Việt Nam. Họ đối xử lịch sự với sứ bộ Việt Nam, nhưng trong thực tế đă định đoạt xong số phận Nam Kỳ.
Kẻ trực tiếp đối đầu với cụ là các viên toàn quyền thực dân Pháp tại Nam Kỳ như De La Grandière và các tướng chỉ huy lực lượng Pháp đang tiến hành kế hoạch chiếm toàn bộ miền Tây Nam Bộ.
Khi sứ mệnh thất bại, Phan Thanh Giản buồn bă trở về nước. Đầu năm 1867, t́nh h́nh càng bi đát. Quân Pháp liên tiếp đưa quân chiếm thêm các vị trí chiến lược. Triều đ́nh Huế, không c̣n người đủ uy tín ở miền Nam, đă cử cụ Phan Thanh Giản làm Kinh lược đại thần Nam Kỳ, giao toàn quyền trông coi ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Nhiệm vụ giao phó lúc ấy là gần như bất khả thi. Cụ ra Vĩnh Long, nhưng không có quân cứu viện, không có tiền bạc, vũ khí chỉ c̣n lèo tèo. Triều đ́nh Huế đă bỏ rơi miền Nam từ trong ư chí.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, viên Đô đốc Pháp De La Grandière gửi tối hậu thư buộc cụ phải trao thành Vĩnh Long. Trước thế lực quân sự vượt trội và không có phương tiện kháng cự, cụ đành giao thành trong ḥa b́nh để tránh đổ máu cho dân lành.
Ôm nỗi nhục mất nước, cụ Phan Thanh Giản tuyệt vọng. Ngày 4 tháng 8 năm 1867, cụ uống thuốc độc tự vẫn tại tư dinh Tổng đốc Vĩnh Long. Trước khi chết, cụ để lại nhiều thư từ tuyệt mệnh gửi vua Tự Đức, đồng liêu và thuộc hạ, trong đó bày tỏ nỗi ḷng đau đớn v́ không làm tṛn trách nhiệm giữ thành, giữ nước.
Gia đ́nh cụ Phan Thanh Giản
Cụ có một người vợ chính là bà Nguyễn Thị Vân.
Cụ có nhiều con trai tài giỏi, nổi bật nhất là Phan Tôn (chữ Tôn: 尊), một nhà nho yêu nước, sau này tham gia kháng Pháp, bị Pháp bắt và đày ra Côn Đảo.
Một người con khác là Phan Liêm, cũng tham gia nghĩa quân chống Pháp, sau bị bắt và lưu đày.
Tức là, ḍng dơi của Phan Thanh Giản, dù cụ từng v́ hoàn cảnh phải đầu hàng, nhưng con cháu cụ sau này đều nối chí lớn, cầm gươm súng chống thực dân.
__________________
|