![]() |
Người Vợ Lực Lượng Đặc Biệt – Hồi ức về Thiếu Tá Hồ Đăng Nhựt trong mùa Quốc Nạn
1 Attachment(s)
Tuổi 18 theo chồng ra Nha Trang
Tôi lấy chồng rất sớm. Mới mười tám, c̣n chưa kịp hết mơ mộng áo trắng sân trường, tôi đă theo anh ra Nha Trang – thành phố của nắng, của biển, của rặng thùy dương ŕ rào đêm gió. Tôi bước vào đời sống vợ lính giữa thời chiến, chấp nhận tất cả những ǵ đi kèm với hai chữ “chiến binh”: bấp bênh, lo âu, đợi chờ và có thể là cái chết bất kỳ lúc nào. Chồng tôi là sĩ quan tốt nghiệp năm 1962, t́nh nguyện vào Lực Lượng Đặc Biệt – những người mà phía bên kia gọi là “tử thần không bóng”, đến âm thầm, đi lặng lẽ, để lại sau lưng là nỗi kinh hoàng cho cộng quân. Anh là trưởng toán Delta, mang vóc dáng phong sương, ánh mắt hiên ngang của người trai thời loạn. Dấu chân anh đi khắp chốn: từ những triền núi Lào đầy gió tanh mưa máu, Pleiku, Đồng Xoài, B́nh Giă… cho tới những vùng xâm nhập tận miền Bắc, nơi gió rét cắt da, nơi mỗi bước chân là một canh bạc với tử thần. Trại Đằng Vân và những người anh em cùng chiến tuyến Năm 1964, đơn vị anh đồn trú tại Nha Trang. Căn cứ trưởng là Đại úy Nguyễn Văn Khách – người đă thành lập 5 toán nhảy đầu tiên: Phan Văn Ninh, Lê Kỳ Lân, Nguyễn Bính Quan, Nguyễn Văn Tùng và chồng tôi – Hồ Đăng Nhựt. Sau này, trại Đằng Vân đổi qua tay Thiếu tá Thơm rồi Đại úy Xuân “Thẹo” (thật ra mặt chẳng có vết sẹo nào, chỉ là biệt danh anh em thương mà gọi). Những năm đó, Nha Trang có lúc ngập lụt, nước dâng trắng phố, cả trại Hoàng Diệu của Mỹ lẫn trại Đằng Vân đều ch́m trong biển nước. Nhưng mưa lụt nào bằng mưa đạn phía trước. Từ hậu cứ biển xanh, các toán trưởng lần lượt lên trực thăng, lao vào rừng sâu núi thẳm. B́nh Giă – hoàng hôn trực thăng và nỗi ḷng chinh phụ Năm 1965, trận B́nh Giă bùng nổ. Các toán LLĐB được tung vào để chặn đường di chuyển của địch. Tôi từ Sài G̣n ra Nha Trang, chỉ mong nh́n anh trước khi anh đi “miền gió cát”. Đến cổng trại lúc sáu giờ chiều, tôi gặp Thiếu tá Thơm, Đại úy Mai Việt Triết và Đại úy Xuân đang đứng đó. Hỏi xin gặp chồng, các ông chỉ lắc đầu: “Thiếm đến trễ rồi, Nhựt vừa ra băi đáp, lên trực thăng xong.” Trước mắt tôi, từng chiếc trực thăng lần lượt cất cánh, cánh quạt xoáy tung bụi cát, gió quất rát mặt. Tôi đứng chết lặng, nước mắt tràn mà không kịp lau. Trong đầu vang lên câu thơ xưa: “Bóng chàng đỏ tợ ráng pha…” – nhưng ngày xưa chinh phụ c̣n được tiễn chinh phu đến tận bờ quan tái. Tôi th́ chỉ biết nh́n đàn chim sắt mất hút vào màu tím thẫm bên hướng đông bắc B́nh Giă, nơi thần chết đang chờ. Những ngày ấy, mỗi bản tin chiến sự là một nhát dao. Tôi vừa nắm chặt tay lên bụng – nơi đứa con đầu ḷng mới ba tháng – vừa thầm cầu: “Anh phải trở về. Phải trở về nguyên vẹn h́nh hài, nghe anh Nhựt của em.” Cuộc hành quân B́nh Giă kết thúc, cộng quân tổn thất nặng, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng nằm lại. Toán anh bị lộ, phải băng rừng vượt suối ngày đêm để thoát vây về núi Thị Vải. Khi anh trở về, tôi chỉ biết ôm anh mà khóc – khóc cho người vừa thoát lưỡi hái tử thần, khóc cho những người bạn của anh không về nữa. Những người bạn ngă xuống và nỗi tang thương nối tiếp Chiến tranh không dừng lại ở B́nh Giă. Các toán trưởng cũ đi mỗi người một hướng, trại Đằng Vân có Chỉ Huy Trưởng mới là Phan Duy Tất, thêm những toán trưởng trẻ: Ngô Văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn Ngọc Thiệp, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Văn Biên… Danh sách địa danh trên bản đồ dần dần biến thành danh sách nghĩa trang: Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ (mới), Pleiku… Trận Pleime, nhiều trưởng toán hy sinh, trong đó có hai người bạn thân của chồng tôi: Đại úy Nghi và Nguyễn Văn Bảy – “Bảy Lùn”. Không chỉ bộ binh, cả phi công trực thăng cũng ngă xuống. Tôi c̣n nhớ câu chuyện về Trung úy Nguyễn Văn Vui, phi công trực thăng VNCH, dám “cúp” máy cho trực thăng rơi tự do rồi nổ máy lại sát mặt đất để thả lương thực cho đồng đội – một kiểu liều lĩnh chỉ có thể có ở những người biết mạng ḿnh treo bằng sợi tóc nhưng vẫn “liều một phen xông pha”. Năm 1967, tôi sinh đứa con thứ hai. Em dâu tôi – vợ Trung úy Nguyễn Ngọc Thiệp – sinh cùng lúc. Chồng tôi đang hành quân Vùng II, vừa về hậu cứ th́ tin dữ ập tới: Thiệp tử nạn v́ thùng tiếp tế rớt từ trực thăng Mỹ xuống. Đứa con trai anh c̣n đỏ hỏn đă mồ côi. Chồng tôi đưa quan tài người em rể về Sài G̣n, làm xong tang lễ lại lặng lẽ ra Nha Trang. Chiến tranh chưa cho phép ai nghỉ ngơi. Mậu Thân 1968 và những lần thuyên chuyển cuối cùng Năm Mậu Thân, tôi sinh đứa con thứ ba tại Sài G̣n. Việt Cộng đồng loạt tấn công các thành phố. Nha Trang cũng là một trong những mục tiêu. Trong trận đánh bảo vệ Ṭa Tỉnh Trưởng, Trung úy Nguyễn Văn Tùng – một trong những toán trưởng đầu tiên của đơn vị – tử trận. Nửa năm sau, ông Phan Duy Tất thuyên chuyển về Vùng III. Chồng tôi, sau sáu năm gắn bó LLĐB, cũng được chuyển về Trung Tâm Hành Quân C.3 Biên Ḥa, rồi ra giữ trại Chí Linh (Sông Bé), Tống Lê Chơn (B́nh Long, Lộc Ninh), sau đó lại trở về B.3/B.15 hành quân cho đến năm 1972. Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 – đỉnh cao tang tóc. LLĐB sau đó bị giải tán, quân nhân bổ sung sang Biệt Động Quân Biên Pḥng, Nha Kỹ Thuật… Anh chọn về Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật, làm việc tại đó đến cuối 1974. Tưởng như đời lính đă bớt phần gian hiểm. Không ai ngờ đó chỉ là khoảng lặng trước cơn băo cuối cùng. Tháng Ba găy súng – anh ngă xuống trên đường triệt thoái Đầu 1975, anh nhận lệnh lên Ban Mê Thuột – Kontum, nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ Chiến Đoàn 2. Hai ngày liền nằm chờ ở Tân Sơn Nhứt không có máy bay, anh phải chạy lên Biên Ḥa mới được “quá giang” ra chiến trường. Tới đơn vị, mỗi sĩ quan thay phiên hành quân 10 ngày. Ngày 20.3.1975, Thiếu tá Cao Triều Phát bay lên mang lương cho anh em. Ông hỏi: “Mầy xong công tác rồi, có muốn về chuyến này không?” Anh lắc đầu, không nỡ bỏ đồng đội giữa lúc lệnh triệt thoái sắp ban ra. Anh chỉ nhờ Thiếu tá Phát mang lương về Sài G̣n cho vợ, giữ lại đúng 500 đồng, dặn: “Vài bữa nữa anh về.” Trên đường rút quân “triệt thoái cao nguyên”, đoàn xe lẫn lộn quân dân, tiếng khóc xen tiếng súng. Anh được lệnh đi đầu mở đường, vừa để đánh trả địch phục kích, vừa bảo vệ đoàn di tản. Sáng 25.3, anh gọi điện về báo: “Ngày mai gặp mẹ con ở Sài G̣n nghe em.” Chỉ c̣n 24 giờ, tôi sống trong tâm trạng vừa mừng vừa run. Ai ngờ đó là lời chào cuối. Chiều hôm ấy, trên đoạn đường tử thần, chiếc xe chở anh, Thiếu tá Hải và mấy sĩ quan trúng B40. Tài xế cháy không c̣n nhận dạng, Thiếu tá Hải văng ra ngoài, thân thể cháy đen. Chồng tôi bị mảnh đạn dập nát khuôn mặt. Ba người chết tại chỗ, ba người bị thương sống sót. Sáng hôm sau, như lệ thường, tôi chở con trên chiếc Honda từ cư xá Nguyễn Cao Vĩ ra cổng. Trung úy Thọ và Thượng sĩ Sanh chặn lại, ánh mắt ngập ngừng: “Xin chị b́nh tĩnh… tin chắc chắn rồi… Đại úy Hồ Đăng Nhựt tử thương chiều hôm qua.” Trước mắt tôi, trời đất quay cuồng. Tôi chỉ kịp nghe tiếng con khóc, rồi cả hai mẹ con ngă xuống bên chiếc xe đổ. Khi tỉnh lại ở bệnh xá, tôi phải kư giấy đi nhận xác chồng. “Ngày mai đi nhận xác chồng…” Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa – con đường hành lang dẫn tới dăy hộc tủ lạnh ngắt. Người lính dẫn đường dừng lại, mở cánh cửa kim loại. Bên trong, hai thi hài đặt chung một hộc: Thiếu tá Hải và chồng tôi. Khuôn mặt anh không c̣n nguyên vẹn. Tôi chỉ nhận ra chồng qua tấm thẻ bài quen thuộc – miếng inox nhỏ đă theo anh qua bao chiến trường, đă nhiều đêm anh vuốt ve nó thay cho gương mặt vợ con trong rừng sâu. Bây giờ, chính nó xác nhận với tôi: người nằm đây là anh, không phải ai khác. “Áo bào thay chiếu anh về đất…” – câu thơ xưa bỗng trở thành tiếng nấc chặn ngang cổ. Từ hôm ấy, tôi chính thức bước vào kiếp góa phụ ở tuổi ba mươi, với năm đứa con nhỏ – đứa lớn nhất tám tuổi, đứa bé mới mười tám tháng. 30/4 – thêm một cái tang cho đất nước Chưa kịp nguôi tang chồng th́ thành phố lại ch́m trong hỗn loạn. Đạn pháo dội xuống cư xá, tôi gửi vội các con về nhà người thân rồi quay lại thu xếp. Đêm thiết quân luật kéo dài như vô tận. Trưa 30.4, ở cổng cư xá Nguyễn Cao Vĩ, tôi thấy những người lính cuối cùng vượt rào chạy ra đường. Trên trời, phi cơ của Không Lực VNCH lao vùn vụt, có chiếc bốc cháy thành khối lửa, nổ tung trên cao, mảnh vỡ rơi như mưa xuống ngoại ô Sài G̣n. Tôi chạy về phía Ngă Tư Bảy Hiền t́m nhà người chị – căn nhà đă tan thành đống gạch vụn sau một quả pháo. Không biết chị và các cháu tôi đă thoát hay đă vùi trong đó. Tôi lại quay về Lư Thái Tổ, nơi năm đứa con đang chờ. Mẹ con ôm nhau khóc khi nghe radio đọc lời “đầu hàng vô điều kiện”. Tang chồng chưa kịp xanh cỏ, tôi lại đội thêm tang nước. Đời vợ lính, tưởng đă quen với khói súng, vẫn không đỡ nổi cú đánh cuối cùng của lịch sử. Đời góa phụ trong “thiên đường xă hội chủ nghĩa” Sau 30.4, tôi chính thức trở thành “vợ ngụy”. Không trại cải tạo, không bản án viết trên giấy, nhưng bản án vô h́nh bám theo từng bước. Công việc khó kiếm, miếng ăn chật vật. Tôi gánh hàng, bán bưng, chắt chiu từng chén cháo, miếng rau nuôi con. Tôi nhớ chuyện Tô Thị bồng con lên núi chờ chồng, mà chạnh ḷng. Nàng c̣n được chờ; tôi chờ ai nữa khi anh đă yên dưới ḷng huyệt? Tôi chỉ c̣n năm đứa con để bám vào, như bám vào thành thuyền mong qua cơn băo dữ. Năm tháng trôi đi, con nước cuộc đời xoáy trăm ḍng. Em tôi ở Mỹ làm giấy bảo lănh. Không dễ dàng: tiền bạc, thủ tục, phỏng vấn… nhưng cuối cùng, mẹ con tôi cũng cầm trên tay vé máy bay rời khỏi quê hương. Phi cơ cất cánh, nh́n Sài G̣n lùi dưới mây, tôi tưởng nước mắt ḿnh đă cạn từ lâu, ai dè vẫn c̣n rơi ướt g̣ má đen sạm. Trong những giọt lệ ấy có cả niềm vui thoát khỏi “thiên đàng cộng sản” lẫn nỗi đau phải bỏ lại mộ chồng, bỏ lại những đồng đội không bao giờ ra đi được. Tháng Ba trên xứ người và lời gửi tới những người lính cũ Chặng dừng chân Thái Lan mười ngày, rồi Tokyo, San Francisco, Kansas… Cuối cùng, tôi đoàn tụ với em gái ở Kansas City, rồi xuôi về quận Cam nắng ấm. Tại đây, tôi gặp lại nhiều anh em đồng đội cũ của chồng. Trong một đám cưới con nhà binh, qua lời giới thiệu của các anh, tôi quen Đại tá Ngô Thế Linh – chỉ huy năm nào. Không lâu sau, nghe tin ông qua đời. Tháng Ba năm sau nữa, Sở Liên Lạc tổ chức ngày giỗ cho chồng tôi rất trang trọng. Đối với người đàn bà đă mang tang chồng âm thầm suốt bao năm, đó là niềm an ủi lớn: chồng tôi không bị lăng quên; đồng đội vẫn coi anh như một phần máu thịt của họ. Mỗi độ tháng Tư về, trên đất Mỹ, trời trong xanh mà ḷng tôi nổi gió. Tôi nhớ Nha Trang thùy dương, nhớ những đêm sóng biển vỗ ngoài khơi, nhớ Duy Tân đèn vàng in trên mặt nước. Nhớ những người lính mũ nâu, mũ đỏ, nón sắt… đă nằm lại, trong đó có Thiếu Tá Hồ Đăng Nhựt – người chồng thân yêu của tôi. Anh đă “đền xong nợ nước”, c̣n chúng tôi – những người sống – vẫn măi mang trong ḷng nỗi đau bại trận. Nhưng tôi tin, cuộc chiến của các anh chưa thực sự kết thúc. Nó tiếp tục trên mặt trận khác: bằng trí tuệ, bằng lập trường, bằng lư tưởng Quốc Gia và Dân Tộc. Máu các anh đă nhuộm thắm màu cờ vàng, dù hôm nay lá cờ ấy chưa bay trên quê nhà. “Tuư ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.” Từ nơi xa xứ, mỗi khi tháng Ba trở lại, tôi thắp nén nhang tưởng niệm, gửi về quê nhà lời th́ thầm với anh: “Nhựt ơi, anh yên nghỉ nhé. Em và các con vẫn c̣n đây, vẫn kể cho thế hệ sau biết rằng đă có một người trai tên Hồ Đăng Nhựt, của Lực Lượng Đặc Biệt, đă sống trọn đời cho hai chữ Tổ Quốc – và đă ngă xuống trên đường triệt thoái, trong mùa Quốc Nạn của một dân tộc.” Lưu Trùng Duơng |
| All times are GMT. The time now is 05:58. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.