VietBF
Page 4 of 20
123 4 56714 Last »

VietBF (https://www.vietbf.com/forum/index.php)
-   Member News | Tin thành viên (https://www.vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=189)
-   -   Trang của lính (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1202507)

hoanglan22 11-26-2018 03:02

Ông này nhớ và sưu tầm lại KBC cũng đáng phục

hoanglan22 11-26-2018 03:07

Bro cha 12 ba ...Bài Xập xám hồi sáng ḿnh xóa bỏ ...nên chạy qua mục góp ư:handshake::handsha ke:

hoanglan22 11-26-2018 04:44

Cầu Hiền Lương và hai bờ chiến tuyến
 
1 Attachment(s)


(Bài viết trong vùng trách nhiệm của Tiểu Đoàn 3, Lữ Đoàn 147 TQLC)

Tiếng nổ của lựu đạn tạo ra những đóm lửa bập bùng trong đêm tối. Trên bờ thành các toán TQLC tiến dần đến cổng chánh Tây c̣n gọi là cửa Hữu. Ṿng vây từ từ khép lại. Tổ biệt kích của đại đội giải giao toán tù binh cuối cùng về tiểu đoàn đă trở lại vị trí lúc màn đêm phủ kín. Kể từ giờ phút này mọi sự di chuyển giữa Đại đội và tiểu đoàn bị hạn chế, chỉ trừ trường hợp khẩn cấp đặc biệt.

Trong thời Pháp, thành cổ Đinh Công Tráng là nơi đặt các cơ sở Quân sự, và sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn tiếp tục duy tŕ. Tiểu Khu Quảng Trị chiếm đóng toàn bộ thành cổ Đinh Công Tráng, có những công tŕnh xây cất như dinh quan Tuần Vũ, dinh quan Án Sát, dinh quan Lănh Binh,… có lao xá kiên cố nằm gần khu vực cửa Hậu. Khi CSBV tràn qua sông Bến Hải, tiểu khu đă làm thêm những hầm trú ẩn, vị trí chiến đấu nhưng bất ngờ Quảng Trị bỏ ngỏ. Quân đội CSBV trú đóng trong thành cổ cho thiết lập những căn hầm chữ A sâu dưới đất thật vững chắc để trú ẩn tránh bom oanh tạc, tránh pháo kích, vừa làm chỗ ăn hoặc ngủ, vừa là công sự chiến đấu với ngỏ ra vào trổ hai hướng đối nghịch nhau.

Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tiến về Quảng Trị, pháo đài B.52 rải thảm thật xa phía trước, trong mục tiêu đó có thành cổ và Thị xă Quảng Trị. Từ lúc các đơn vị tiến sát Thành phố th́ chỉ c̣n sự yểm trợ của các phi cơ phản lực, F.4C Phantom của Hoa kỳ từ hạm đội, hoặc A.37 của Không Quân Việt Nam từ Đà Nẵng. Trong cuộc chiến mới thấy thương cho các phi vụ A37 của Không Quân Việt Nam. Họ không được trang bị để chống hỏa tiễn tầm nhiệt SA.7 (cùng một số vũ khí mới do Liên Xô trang bị cho Quân đội CS Bắc Việt). Các phi tuần phản lực cơ chiến đấu Hoa Kỳ khi nhào xuống mục tiêu do TQLC điều chỉnh, họ đều phóng ra một số trái sáng như để thu hút hỏa tiễn tầm nhiệt, v́ thế họ chỉ thả một lần hai quả bom, rồi tiếp tục theo hướng điều chỉnh mới nếu có, v́ thế sự yểm trợ của họ đạt kết quả sát hại cao.

Thông thường địch bắn hỏa tiễn SA7 vào đợt oanh kích thứ nh́, v́ họ đă biết rơ hướng phi cơ lao xuống giội bom rồi vút thẳng lên cao thật nhanh. Đợt đầu bất ngờ nên địch không chuẩn bị kịp thời. Biết rơ thế nên những phi vụ của Không Quân VN đến yểm trợ đă trút hết bom một lần vào thành cổ rồi rời vùng ngay. Thảo c̣n nhớ một lần A.37 đánh bom, hai trái lọt vào tuyến đại đội, một trái nổ tung, hai binh sĩ Trung Đội 21 thiệt mạng, may mắn trái thứ hai bị lép, tạo sự âu lo cho đại đội v́ biết đâu đạn pháo 130 rớt trúng vào nó. Nghĩ th́ như thế, đạn pháo như mưa rơi dai dẳng mỗi ngày, nhưng quá cận kề cái chết nên rồi quên đi, không c̣n ai màng tới nó nữa.

Thành Cổ hứng chịu bom đạn, những công tŕnh xây dựng đổ nát đă trở thành những vị trí chiến đấu, bom của không quân, đạn pháo từ hạm đội, và các pháo đội Thủy Quân Lục Chiến bắn tập trung, nổ tung đất bao phủ các công sự nên rất khó khăn cho việc lục soát dứt điểm. Bóng đêm và khoảng cách sát cận, nên những người lính TQLC đă kêu gọi cán binh CSBV ra hàng trước khi tung những quả lựu đạn M.67.

Cơn mưa ảnh hưởng của cơn băo làm mặt đất bên trong cổ thành thêm lầy lội, những hố bom lấp xấp nước. Người lính TQLC có khi phải nằm bất động, dán sát người xuống mặt đất, im lặng để lắng nghe tiếng th́ thào hoặc bàn tính đường tháo chạy của địch quân. V́ sự an toàn cho bản thân ḿnh nên kể từ chập tối, anh em không c̣n kêu gọi địch quân ra hàng nữa, v́ sự phát âm sẽ giúp địch nhận rơ vị trí và ném bê ta sát hại để tẩu thoát.

Thảo cùng hai hiệu thính viên Đẹp, Lượm và Y tá Thâu, chiếm cứ cửa Tiền. Vị trí này Trung Đội 22 bắn vài quả quả M.79 nổ phía trước và trên đầu cửa, hai cán binh CS hoảng sợ ra đầu hàng, đây là nơi trú ẩn tránh bom và pháo hơn là một vị trí chiến đấu. Cửa trổ ra đường Lê Văn Duyệt đă bị đóng, gạch phủ kín. Mặt trong thành cổ có hai hàng bao cao cát che phía trước rất an toàn. Hạ sĩ Đẹp và Lượm điều chỉnh âm thanh của máy PRC-25 thật thấp, Binh I Thâu th́ sẵn sàng túi y tá, nhất là thuốc ATS (Anti Tetanus Serum) ngừa phong đ̣n gánh, lúc nào cũng chiếm gần phân nửa. Cứ mỗi lần ai bị thương, trước tiên là chích ngay một ống ATS, sau đó tùy theo bệnh trạng, nếu quá nặng đâm vào thịt một morphine tube bằng hai lóng ngón tay út, rồi bóp mạnh cho morphine vào dưới da, nó giảm cơn đau cho thương binh và ngừa cơn sốc có thể gây tử thương. Tầm nh́n trong bóng đêm tuy hạn chế về độ xa nhưng vẫn thấy gần nhờ ánh sao lấp lánh trên bầu trời.

Ầm !

Ánh lửa lóe lên cùng tiếng nổ chát chúa trước mặt, cát sỏi theo khoảng trống bay vào hầm mù mịt, Bên ngoài có tiếng vật lộn, và tiếng nói của Binh I Huỳnh Văn Tư . Máu rươm rướm chảy bên g̣ má bên phải của y tá Thâu. Trong hoàn cảnh hiện tại, Thảo vôi vă thoa cồn sát trùng, bịt vào ngay miếng compress rồi dán băng keo vải lên, sau đó chích ATS vào mông của Thâu, Thảo học lóm từ Uyên, người yêu ngày trước làm cán sự điều dưỡng, dùng hai đầu ngón tay rờ t́m đầu khớp xương hông ngay thắt lưng rồi lần xuống một khoảng cách ngắn, nằm bên trái hoặc bên phải của vùng mông, vùng này nhiều thịt, it có gân máu. Sau khi chọn đúng vị trí, xoa cồn sát trùng, phóng mũi kim vào, kéo nhẹ ống chích (syringe) xem có máu theo ra không, nếu không th́ bơm hết thuốc vào. Thảo tự mỉm cười v́ sự ṭ ṃ để học đôi khi trở thành hữu ích.

Binh I Tư bước vào báo cáo :

- Ông thầy, bắt được 3 thằng Việt Cộng, có một thằng bị thương.

Thảo bước theo Tư vừa hỏi :

- Họ đâu rồi ?

- Ông thầy tụi em đă trói tay chúng nó và thằng Ẩn đang canh giữ bên ngoài.

Ba anh bộ đội đều ở trần và cùng mang quân xà lỏn màu đen giống nhau, người bê bết bùn. Dưới ánh sao lờ mờ, vẫn lộ rơ cốt cách phương phi của người có da có thịt, h́nh vóc của họ khác hẳn với những cán binh CSBV mà Đại Đội Thảo đă bắt được kể từ khởi đầu cuộc chiến, tuy thân thể họ dính bùn nhưng nhiều nơi màu da trăng trắng tạo nên cái nét tương phản. Cái trực giác khi nh́n họ, Thảo liên tưởng họ không phải là bộ đội chính quy thuần túy, mà là cấp chỉ huy đầu sỏ của đơn vị quyết tử giữ thành cổ. Thảo chú ư đến người bị thương dưới xương sườn bên tay trái, vết thương là một lỗ sâu đen ri rỉ máu. Binh I Thâu khi nghe nói có người bị thương đă tṛng lên cổ túi cứu thương và bước theo phía sau. Anh lập tức làm ngay nhiệm vụ với thương binh CSBV như đang phục vụ cho các bạn đồng đội của ḿnh.

Anh sát trùng vết thương, đặt lên đó miếng vải mà một bên có thoa sẵn chất thuốc giống như vaseline, rồi dùng băng cá nhân quấn ṿng quanh phủ kín vết thương, sau đó anh tiêm thuốc chống phong đ̣n gánh, chích thuốc giảm đau. Xong xuôi anh cũng tṛng vào cổ người cán binh CS một phiếu tản thương ghi rơ những việc làm cấp thời như tên thuốc cùng liều lượng đă dùng. Thâu làm rất thành thạo dưới ánh sáng lập ḷe của tinh tú. Nh́n mắt của ba cán binh CSBV, phản chiếu ánh sao lấp lánh, Thảo nhận thấy sự thù hận vẫn c̣n hằn sâu trong họ. Dù biết rằng vài phút trước đây, với sự thành thạo mọi ngả ngách trong thành cổ, họ đă quan sát và biết được Ban Chỉ Huy Đại Đội (có hai máy truyền tin PRC 25) ở đây, họ ngụy trang bằng cách cởi bỏ Quân phục, ḅ dưới đất śnh, tiến sát và ném beta sát hại toán của Thảo để rồi leo ra ngoài bờ thành tẩu thoát, v́ giờ phút này Tiểu Đoàn 7 TQLC cũng chưa kiểm soát được làng Hạnh Hoa bên kia đường Lê văn Duyệt. Bắt được người cố giết hại ḿnh, nhưng Thảo và anh em Đại đội đối xử rất tốt với họ, anh em đă mời họ hút thuốc nhưng họ từ chối.

Dân gian có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện,” c̣n trong Quân đội chắc phải là “Điếu thuốc là bước t́nh thân.” Trong cuộc chiến, nếu bắt được một người tù binh th́ người này sẽ vui vẻ hút điếu thuốc khi được mời, nhưng nếu có từ hai tù binh trở lên, họ luôn luôn sẵn một giọng điệu rập khuôn như nhau :

- Tớ không dùng sản phẩm của đế quốc Mỹ và tay sai.

Thảo vẫn cố gắng hỏi vài lời thân thiện, nhưng họ không trả lời, Ta và địch, người chiến sĩ Miền Nam và bộ đội chính quy Miền Bắc, khác biệt về ư thức hệ và t́nh cảm con người giữa hai bờ chiến tuyến.

Sau Hiệp Định Genève, vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước, phía Bắc vĩ tuyến theo Chủ nghĩa Xă hội, được sự yểm trợ của Liên Xô và các nước trong khối Cộng sản, c̣n phía Nam vĩ tuyến là Việt Nam Cộng Ḥa được sự yểm trợ của Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh.

Trong những năm đầu của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, kinh tế Miền Nam phát triển, gạo được xuất cảng ra nước ngoài, đời sống an lành và sung túc bỗng nhiên cuộc binh biến do CS phát động dưới danh xưng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 tại một vài nơi ở Bến Tre. Những đoàn xe Molotova ngày đêm chuyên chở bộ đội Cộng Sản Bắc Việt, vũ khí từ Thanh Hóa theo đường trên đất Lào vào lănh thổ Cam Bốt, lập căn cứ hậu cần, từ đó xâm nhập dưới danh xưng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để khủng bố, pháo kích bừa băi vào thành thị, và trường học giết hại đồng bào cùng trẻ em vô tội. Trước nguy cơ đó, hàng hàng lớp lớp thanh niên lên đường nhập ngũ bảo vệ Miền Nam tự do. Năm 1968, sau khi giải tỏa xong thủ đô Sài G̣n, Tiểu Đoàn 3 cùng Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên về Cần Thơ hành quân, tảo thanh địch. Sau vài cuộc hành quân, Tiểu Đoàn 2 tăng phái cho Lực Lượng Sông Ng̣i của Hoa Kỳ, Tiểu Đoàn 4 TQLC đến thay thế. Hai đơn vị hành quân ở Cầu Kè, Kế Sách cũng như bảo vệ Cái Răng, bẻ găy các cuộc tấn công của Tiểu Đoàn Tây Đô phối hợp các đơn vị chủ lực miền mà địch dự tính tổng công kích đợt 2. Sau cuộc hành quân b́nh định vùng rạch Ông Vựa, Miễu Ông, mở rộng ṿng đai an ninh cho phi trường Trà Nóc và B́nh Thủy, Tiểu Đoàn 3 rời Cần Thơ về Vĩnh Long, hành quân vùng quận Càn Long rồi sau đó biệt phái cho Lực Lượng Sông Ng̣i Hoa Kỳ, từng toán một lên những chiếc ATC (Amored Troop Carrier) có trọng tải mỗi chiếc 40 Quân nhân, chở về đóng quân tại xă An Hóa thuộc tỉnh Bến Tre. Từ đây tuần tự hai đại đội dưới quyền điều động của Đại Úy Lê Bá B́nh, Tiểu đoàn phó, được lực lượng sông ng̣i yểm trợ tác xạ, ủi băi, đổ quân, từ đó t́m địch theo các mục tiêu đă dự tính.

Đại Đội 1 được đổ bộ vào phía Tây Nam quận Mỏ Cày, người dân bảo rằng sở dĩ có tên nầy v́ mấy nhánh sông uốn lượn giống như cái lưỡi cày của nhà nông, Trung Đội Thảo tiên phong tiến vào căn nhà lồng có tên Chợ Thơm. Cảnh vắng lặng, không một bóng người. Trước mặt chợ có tấm bảng đen, những nét chữ viết hấp tấp bằng phấn, nhưng vẫn có thể đọc được : “Anh em binh sĩ hăy quay súng bắn vào đầu các tên chỉ huy ác ôn rồi trở về với Mặt Trận.”

Đă được huấn luyện ở Quân trường, nên mọi người cẩn thận ḍ dẫm từng bước, tiểu đội của Hạ Sĩ I Vơ Văn Phước bám theo mỗi gốc dừa có vẽ cờ Giải phóng tiến về cḥm nhà bên phải, Tiểu đội đại liên của Hạ Sĩ I Kư từng bước quan sát những điểm khả nghi, Hạ Sĩ Minh xạ thủ M.60 ngón tay trên c̣ súng, Binh I Lập phụ xạ thủ đeo lủng lẳng thùng đạn bám theo. Tiểu đội của Trung Sĩ Nguyễn Văn Xảo tiến vào cḥm nhà bên trái, Trung Sĩ Hạ Chí Trang, Trung đội phó, giữ đoạn hậu. Sau khi lục soát các căn nhà bỏ trống, và bố trí xong xuôi, Thảo ghé mắt vào một một lớp học có tấm bảng đen và những hàng chữ của một bài toán cộng. Một cuốn tập c̣n nằm trên bàn học, Binh I Lê ngọc Tuyết, Hiệu thính viên tính hay ṭ ṃ, nhưng Thảo khuyên nên dùng một cành tre dài đẩy cuốn tập đề pḥng ḿn bẫy.

Khi cuốn tập rơi xuống chạm vào mặt đất.

Ầm !

Tiếng nổ lớn trong không gian tĩnh mịch, phản ứng tự nhiên mọi người bám vào các vị trí tương đối có thể chiến đấu. Sự yên lặng trở lại. Trung Sĩ Trang đă dùng báng súng đẩy ngă tấm bảng trước chợ, nó kích động quả ḿn bẫy phát nổ, may mắn mọi người an toàn.

Trong cuốn tập của Giáo viên dạy Toán đố với những ḍng chữ nắn nót :

- Du kích Tân Quới giết chết 5 tên lính bảo an, dân quân Thới Ḥa bắn chết 2 tên lính Sư đoàn, vậy Quân dân ta đă giết được bao nhiêu tên lính Ngụy ?!

Rồi một bài toán khác :

- Một toán 15 tên lính Bảo An định vào xóm hà hiếp Nhân dân, quân dân Thanh Nam giật ḿn giết chết 6 tên, vậy bao nhiêu tên c̣n sống bỏ chạy ?!

Vùng đất mà người Cộng sản gọi là đă được giải phóng, trẻ thơ bị gieo vào đầu tư tưởng giết những người không cùng chí hướng, bằng đủ mọi cách tuyên truyền trong việc giáo dục, ngay cả bài toán cộng, toán trừ căn bản.

Trái lại trong vùng Quốc Gia, bài học thường dùng h́nh ảnh thật hiền lành :

- Mẹ em đi chợ mua cam hết 5 đồng, mua bánh tai heo 2 đồng, vậy mẹ em đă mua tổng cộng hết bao nhiêu đồng ?!

Hoặc :

- Mẹ em đem theo 20 đồng đi chợ mua thức ăn, Sau khi đă trả cho các gian hàng 15 đồng, vậy mẹ em c̣n lại bao nhiêu đồng ?!

Người mẹ luôn luôn là biểu tượng của sự ngọt ngào, tŕu mến, V́ thế đây cũng chính là một trong những sự khác biệt đó t́nh thương và sắt máu.

***

Những tràng AK từ hướng Tây cày trên mặt đất. nơi đó là cổng thành ra đường Phan Đ́nh Phùng song song với ḍng sông Thạch Hăn. Một số địch đă tháo chạy, tiếng huyên náo vọng lại từ bờ sông ḥa lẫn tiếng nổ do các Tiểu Đoàn Pháo Binh TQLC bắn T.O.T (có lẽ Thiếu Tá Đệ Đức đă yêu cầu). Các Trung đội trưởng cùng anh em tập trung triệt hạ những ổ chống cự, mọi người thèm được chợp mắt đôi phút, nhưng tiếng nổ bập bùng như reo vui lấn áp mệt nhọc của thân xác.

- Ông thầy !

Hạ Sĩ Đẹp cất tiếng gọi, Thảo cùng y tá Thâu hướng theo ánh mắt của anh, người thương binh CSBV đă dùng hai bàn tay bị trói đẩy băng vải trụt xuống dưới bụng. Ba anh tù binh này được Thảo ưu ái cho đem vào nơi trú ẩn, hai người bị trói ngoặt tay ra phía sau lưng, hai chân cũng bị cột nhưng có một khoảng cách để cử động, riêng anh thương binh được trói hai tay về phía trước tránh ảnh hưởng đến vết thương gây thêm đau nhức. Tuy biết rằng nếu đưa anh thương binh CSBV này về Tiểu đoàn ngay bây giờ sẽ có bác sĩ săn sóc và thuốc men đầy đủ hơn, nhưng biết bao phiền toái và hiểm nguy cho binh sĩ. Chướng ngại vật giăng mắc trên lối đi đêm cùng đạn pháo không dứt đang bao trùm khu vực làng Trí Bưu.

Thâu chụp ngay túi cứu thương và ngồi xuống quân lại băng mới cho người tù binh. Thâu không cần biết tại sao người thương binh này hành động như thế, bổn phận và trách nhiệm của một người Y tá chiến trường, anh phải cố gắng làm sao duy tŕ được mạng sống cho dù đó là địch quân đă sát hại đồng đội ḿnh, nhưng nay họ không c̣n vũ khí để bắn giết.

Đạn pháo 130 ly bay xẹt ngang đầu các toán TQLC trong thành cổ rồi nổ dồn dập bên ngoài, đây là những hỏa tập tiên liệu, của quân trú pḥng bắn quấy rối liên tục trong đêm, và tất nhiên pháo binh CSBV nghĩ rằng đơn vị của họ vẫn c̣n đang kiểm soát khu vực này. Từ khi đơn vị TQLC vào được bờ thành, các Tiểu Đoàn Pháo Binh TQLC đă chuyển xạ về hướng Tây, dọc theo bờ sông Thạch Hăn. Đây cũng là điều thuận lợi cho đại đội Thảo, t́m và tiêu diệt địch không c̣n âu lo tâm trí vào việc tránh pháo kích nữa. Màn đêm nhạt dần, Chuẩn Úy Lê Đ́nh Lời, Chuẩn Úy Trần Trung Ngôn báo cáo Trung đội đă hoàn toàn kiểm soát các góc thành trong khu vực trách nhiệm, riêng Thiếu Úy Nguyễn Văn Phán, Trung Đội 22, Trung Sĩ Trương Văn Hai, Trung đội phó, điều động Tiểu đội của Trung Sĩ Trần Văn Trí tiến thẳng vào cửa chánh Tây mà địch quân vẫn c̣n bám giữ. Đồng loạt, Tiểu Đội đứng dậy vừa bắn vừa lao thẳng vào mục tiêu, Binh Nh́ Huỳnh Ngọc Lanh bắn M 79 chính xác vào vị trí, xác địch ngă gục, bỗng nhiên Trung Sĩ Hai té chúi xuống sau tiếng súng AK từ một vị trí trong vùng của Tiểu Đoàn 6 TQLC, Lanh xoay người bắn một trái M79 ngay tên địch.

Viên đạn xuyên qua ngực Trung Sĩ Hai, Trung Sĩ Trí đỡ anh dậy, nhưng anh đă ra đi, không nh́n thấy h́nh ảnh vinh quang mà anh là một nhân tố tạo nên.

Anh em của 3 Trung đội cùng dựng lá cờ vàng giữa tiếng reo ḥ vang dậy vào lúc mờ sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972. Từ bên kia đồi cao của căn cứ Ái Tử, khi lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa phất phới trên cổng thành Quảng Trị, đạn đại bác 100 ly và đạn pháo 130 ly bắn ào ạt vào thành cổ. Tiếng nổ không làm nao núng nỗi mừng mừng tủi tủi, nghiêm chào lá Quốc kỳ tung bay ngạo nghễ. Tiếng la vang dậy át mất tiếng pháo của địch quân, người phóng viên chiến trường bấm liên tục cái nét sống động tự nhiên trong niềm vui tột cùng đó.

Thảo sung sướng nh́n lá Quốc kỳ nổi bật trên bầu trời ửng ánh b́nh minh cùng ánh lửa của đạn pháo binh CSBV, thành cổ Quảng Trị hiện rơ trước mặt mọi người, những đoạn tường đổ nát, xác địch quân nằm rải rác trên mặt đất, bên hố bom hay nát tung trong hầm chiến đấu. Với sự hy sinh ṛng ră bao nhiêu ngày đêm, của các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tham chiến, th́ thu lượm chiến lợi phẩm, đếm xác địch cũng trở thành vô nghĩa, chính giờ phút này, người lính chiến tại mặt trận, được thoải mái chuyền tay rít dài hơi điếu thuốc đen Quân Tiếp Vụ, nghĩ tới bạn đồng đội của ḿnh đang ở một nơi nào đó, đớn đau trong Bệnh viện hay an giấc trong nghĩa trang.

Vũ khí và hai người tù binh được chuyển về Tiểu đoàn, anh em đại đội chào tiễn đưa Trung Sĩ Trương Văn Hai được gói chắc trong chiếc Poncho có đính phiếu tản thương bên ngoài, tấm Poncho đă theo người lính trong suốt cuộc chiến, nó che nắng che mưa, nó là bè nổi để qua sông sâu và cuối cùng gói trọn h́nh hài người lính như h́nh ảnh da ngựa bọc thây trong thi ca cổ xưa.

Người thương binh CSBV đă tắt thở trong giờ phút giẫy chết của đơn vị pḥng thủ thành cổ. Thượng Sĩ I Vơ Lách đă cho nhặt hết xác cán binh CSBV trong khu vực Đại đội và chôn trong các hố bom. Bên dưới thành cổ, Tiểu Đoàn 8 thay Tiểu Đoàn 7 tiến qua làng Hạnh Hoa ra bờ sông Thạch Hăn. Bên kia bờ thành của Tiểu Đoàn 6, các chiếc M113 bên trên có những b́nh tṛn to chứa hóa chất, tiến lên phun ṿi lửa vào vị trí địch, dần dần hướng về đường Phan Đ́nh Phùng. Thành cổ bị triệt hạ, các đơn vị bên dưới vừa lục soát, từ từ tiến ra sát bờ sông Thạch Hăn.

Chiều hôm đó, anh em phát hiện xác hai anh lính cảm tử Nhảy Dù nằm chết bên hào nước, xác đă ră chỉ c̣n hai bộ xương trắng trong Quân phục Dù, dưới hai nón sắt là hai tấm thẻ bài. Họ nằm đè lên lá Quốc kỳ nhỏ cùng cỡ với lá Quốc kỳ mà Đại Đội 2 đă dựng sáng hôm nay. Tư thế của họ như vừa ḅ lên khỏi hào nước và bị quân trú pḥng phát hiện bắn chết. Chào hai anh, những người lính như chúng tôi, hy sinh cho Tổ quốc và cũng cho Binh chủng mà ḿnh phục vụ. Ngày hôm sau đơn vị Dù đến đưa xác hai anh về an nghĩ cùng đồng đội tại nghĩa trang.

Ngày lễ mừng chiến thắng và tưởng thưởng được tổ chức trọng đại ở phía sau trận tuyến, Người lính chiến đấu dọn dẹp chiến trường và lấp hố chôn xác chết trong thành cổ, vài ngày sau họ di chuyển ra trấn giữ bờ đông sông Thạch Hăn. Trung Sĩ I Thành và Hạ Sĩ Phúc được tưởng thưởng chiến sĩ xuất sắc đi Đài Loan. Buồn vui đời lính lại tiếp nối với cuộc sống luôn cận kề sinh tử, Binh I Thâu lau sạch túi cứu thương và sắp xếp gọn gàng, anh đứng dậy móc dây đeo vào cái bao cát, đại pháo 130 nổ phía sau chùa Tỉnh Hội Quảng Trị. Thâu nh́n vào máy PRC 25 chờ đợi, môi anh khe khẽ hát :

Hăy tiến lên v́ Tổ Quốc hy sinh,
Hăy vui lên v́ binh chủng hy sinh.
Hăy nhanh lên v́ đồng đội hy sinh.


Giang Văn Nhân
(Trích hồi kư Người Lính Tổng Trừ Bị)

hoanglan22 11-27-2018 15:16

Cổ Thành Quảng Trị : Bức Tường Thành Oan Trái
 
Tưởng niệm Tiểu đội Tiền thám Nhảy dù :

Đây là bài viết thứ 7 trong loạt bài t́m hiểu về trận thư hùng Nam Bắc tại Quảng Trị vào mùa Hè 1972. Chúng tôi đă viết về Sư đoàn 3, về TQLC, Pháo binh, về miền Trung, về xứ Quảng, về t́nh yêu, đêm đen.

Nay viết về Nhẩy dù và sẽ c̣n tiếp theo với Biệt động quân, Không Quân, Thiết giáp Sư đoàn 1…

Riêng đoản văn này thực hiện được là nhờ thêm tài liệu của Thiếu tá Trương đăng Sỹ hiện định cư tại Úc Châu. Cách đây 37 năm ông là Đại úy Đại đội trưởng Đại đội 51 của Tiểu đoàn 5 Nhẩy dù. Đơn vị đă trải qua nhiều cay đắng bên bức tường thành oan trái của Tiểu khu Quảng Trị.

Từ Úc Châu, Thiếu tá Sỹ đă viết những lời hết sức đau thương. Ông viết rằng : “Nhẩy dù đă đánh vào Cổ Thành như thế đó. Bằng tất cả hỏa lực và xương máu. Bằng tất cả quyết tâm của tuổi trẻ hiến dâng cho Tổ quốc. Quyết tâm dựng bằng được lá Quốc kỳ “.

Và lời than văn 37 năm sau đă nhắc lại : “Trong lúc Thủy Quân Lục Chiến chuẩn bị làm lễ thượng kỳ, ghi dấu chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị th́ cũng có 1 người âm thầm tưởng nhớ các chiến sĩ của Đại đội 51 ”.

Như vậy th́ ư nghĩa của trận dứt điểm Quảng Trị tại Cổ Thành quả thực là 1 vấn đề hết sức quan trọng. Dù muốn dù không, tinh thần thi đua sống chết với bom đạn, thi đua lập chiến công các Sư đoàn bộ binh, giữa các đơn vị Tổng trừ bị là chuyện mà lịch sử không thể bỏ qua được. Trước khi vào bắt đầu, xin hăy cùng người Đại đội trưởng năm xưa, chúng ta tưởng nhớ đến Tiểu đội Thám sát t́nh nguyện mang màu hoa dù mũ đỏ đă hy sinh đợt đầu tiên tại Cổ thành Đinh công Tráng. Những cái chết oanh liệt và rất cô đơn đó sẽ được kể lại trong những đoạn sau.

Diễn tiến tin chiến sự :

Chúng tôi sẽ không viết về chi tiết của cuộc chiến. Bài viết này không phải đơn thuần dành cho các nhà Quân sự, không phải chỉ dành cho giới chiến binh. Đây là bài viết cho mọi người, cho gia binh, cho thế hệ tương lai. Xin được thông cảm. Câu chuyện sẽ tŕnh bầy đơn giản và bây giờ xin kể lại từ đầu.

Trong chiến tranh Việt Nam có 2 kỳ chiến sự bộc phát mănh liệt.

Năm 1968 Tết Mậu Thân, cộng sản đánh theo kiểu nổi dậy từ bên trong. Hoa Kỳ có tham gia chiến trận với Việt Nam Cộng Ḥa. Sau 50 ngày quân ta dẹp tan phe địch ở khắp nơi.

Qua đến mùa hè 1972 địch mở 3 mặt trận. Riêng quân khu I, địch tấn công trực tiếp qua giới tuyến. Trong nội tháng 4-1972 Bắc quân chiếm toàn thể lănh thổ Quảng Trị. Bên ta rút lui từ sông Bến Hải về sông Thạch Hăn, rồi từ sông Thạch Hăn về sông Mỹ Chánh. Qua tháng 5-1972 miền Nam chỉ c̣n giữ được Thừa Thiên và Huế. Cuộc lui binh Quảng Trị được coi như thất bại đau thương. Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, Bộ binh, Biệt động quân, Pháo binh, Thiết giáp, Địa phương quân và dân chúng đều phải chạy về miền Nam.

Tháng 4-1972 cũng đă là 1 tháng tư đau thương.

Nhờ 1 Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến c̣n giữ vững pḥng tuyến sông Mỹ Chánh. Nhờ Sư đoàn 1 Bộ binh giữ được mặt trận phía tây Thừa Thiên. Kinh thành Huế c̣n sống, đứng bất động đợi chờ. Cộng sản với đà chiến thắng mạnh mẽ cũng đă hết sức nên phải dừng lại chỉnh đốn binh mă.

Tháng 5-1972 là tháng miền Nam phục hồi. Tháng 6-1972 đại quân Tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến cùng vượt sông Mỹ Chánh để bắt đầu trận phản công. Có thiết giáp, pháo binh, Biệt động quân cùng tham dự. Rơ ràng là cuộc hành quân Bắc tiến thực sự. Không quân Việt Mỹ bao vùng, thêm hải pháo từ đệ thất hạm đội Hoa Kỳ ở biển Đông.

Cuộc tiến quân tháng 6 của miền Nam coi như thành công. Quân sử của miền Bắc đă phê b́nh nội bộ cho rằng phe cộng sản đă không bám đất, giữ trận tuyến ngay từ bờ bắc sông Mỹ Chánh. Để đến khi miền Nam dồn địch lên phía bắc th́ quá muộn. Tuy nhiên, v́ nhu cầu ḥa đàm, địch vẫn phải sống chết bám lấy Cổ thành Quảng Trị.

Từ Paris phe ta phe địch, cả hai bên đều theo chiến thuật đánh đánh, đàm đàm. Việt Nam Cộng Ḥa, Giải phóng miền Nam, cộng sản Hà nội và Hoa kỳ đều chờ tin tức trận Quảng Trị. Đại tá Đỗ đức Tâm, hàng ngày chạy qua bộ tổng tham mưu nghiên cứu thật kỹ bản đồ trận liệt miền hỏa tuyến để nhật tu pḥng hành quân riêng của tổng thống Nguyễn văn Thiệu tại dinh Đôc Lập. Trên bản đồ của tổng thống có các dấu hiệu theo dỏi xuống đến cả cấp tiểu đoàn.

Trung tướng Thiệu gọi điện cho Tướng Trưởng mỗi ngày và đồng thời nhận điện từ tin tức ḥa đàm Paris. Từ Hà Nội, Lê Duẩn nhấp nhỏm theo dỏi t́nh h́nh từ các cấp chỉ huy mặt trận tại Quảng B́nh rồi lại chờ báo cáo của Lê đức Thọ từ Pháp. Cố vấn Mỹ từ Saigon bay ra Huế rồi đi trực thăng đến bờ sông Mỹ Chánh nói chuyện với ṭa đại sứ. Ông đại sứ gọi thẳng qua Pháp cho Kissinger. Báo cáo sau cùng, nhẩy dù Việt Nam đă tiến vào thị xă Quảng Trị. Tin tức trên trang nhất của báo chí Hoa Kỳ loan báo trận chiến quyết định sắp sửa mở màn. Mục tiêu sau cùng là Cổ thành Đinh Công Tráng. một nhu cầu chính trị. Lúc đó vào đầu tháng 7-1972, sư đoàn Thủy quân lục chiến Việt Nam với 3 lữ đoàn có chiến xa và pháo binh đă nhẹ nhàng làm chủ t́nh thế mặt trận phía duyên hải. Vị tân Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến là Chuẩn tướng Bùi thế Lân.

So với Nhẩy Dù, TQLC quân số đông hơn, và từ đầu năm 72, mũ xanh tổn thất nhẹ hơn Sư đoàn mũ đỏ. Phần vụ của Sư đoàn xem chừng cay đắng hơn v́ từ trục tiến quân trên Quốc Lộ bây giờ phải xoay ngang cánh mặt để giải quyết khúc xương chính của chiến trường. Thị Xă và Cổ Thành. Lúc đó Trung tướng Dư quốc Đống, gốc Rạch giá vẫn c̣n giữ chức vụ Tư lệnh Nhẩy dù với 3 lữ đoàn tác chiến chuẩn bị dứt điểm mục tiêu sau cùng bên bờ sông Thạch Hăn. Một lữ đoàn giữ pḥng tuyến quốc lộ và chặn địch phía Tây, vùng cận sơn. Một lữ đoàn trừ bị. Trách nhiệm tấn công giao xuống đại tá Trần quốc Lịch, lữ đoàn 2 nhận nỗ lực chính. Đại tá Lịch quê Nam Định, một đời chinh chiến đi lên từ Trung đội trưởng. Tiểu đoàn trưởng Pháo binh nhẩy dù là Bùi Đức Lạc, yểm trợ trực tiếp cho Lữ đoàn 2. Đến trung tuần tháng 7 th́ Nhẩy dù đă giải tỏa xong thị xă Quảng Trị, nhưng chưa tính đến ṭa thành cổ. Địch tăng cường mạnh mẽ và rút vào cố thủ bên trong. Pháo địch bắn liên tục chung quanh phía ngoài. Bom đạn bên ta ngày đêm cầy nát bên trong. Mặc dù sư đoàn mũ đỏ tinh thần rất cao, nhưng thương vong tổn thất suốt năm qua đă quá mệt mỏi. Tạm thời dừng chân bên ngoài Cổ Thành và bàn thảo phương cách tấn công.

Buổi họp hành quân lịch sử.

Hôm đó là ngày chủ nhật 16 tháng 7 năm 1972. Tất cả các Sĩ quan chỉ huy cao cấp tham dự hành quân đều có mặt với sự chủ tọa của Trung tướng Ngô quang Trưỡng tư lệnh Quân đoàn. Chỉ thị sau cùng là thay quân. Sư đoàn Nhẩy dù bàn giao ngay mặt trận Quảng Trị cho Thủy Quân Lục Chiến để lănh nhiệm vụ khác.

Tướng Bùi thế Lân, tân Tư lệnh của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến có thể đă được biết nhiệm vụ mới nên không có ǵ thắc mắc. Phía bên Nhẩy dù, tư lệnh Dư quốc Đống lắng nghe ư kiến của Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch ghé bên tai và gật đầu đồng ư. Được phép vị Tư lệnh Sư đoàn, ông Lịch bầy tỏ ư kiến khi phải bàn giao nhiệm vụ. Đại tá lữ đoàn trưởng Nhẩy dù tŕnh bầy các giải pháp đánh vào Cổ thành và đề nghị cho phép mũ đỏ tiếp tục hoàn tất nhiệm vụ.

Tướng Ngô quang Trưởng nói rằng đây là lệnh của thượng cấp. Ai cũng hiểu rằng ông nói đến Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Nói xong, ông tạm lui vào pḥng bên cạnh. Một lát sau, tướng Trưởng quay trở ra và cho biết : thượng cấp quyết định lui lại hơn 1 tuần sau. Ngày 27/7/1972 mặt trận Quảng Trị sẽ được bàn giao giữa sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Và ông nói tiếp : Thượng cấp nói rằng bên Thủy Quân Lục Chiến đă rút lui tại Quảng Trị, bây giờ phải giao trách nhiệm cho anh em lấy lại Cổ Thành. Nếu không th́ về sau làm sao người ta đánh giặc. Với câu nói đó, bên Nhẩy dù không b́nh luận ǵ thêm. Sự hy sinh lớn lao sau này của trận dứt điểm Cổ Thành trong 50 ngày sau cùng đă tổn thất trên 3.000 thủy quân lục chiến. Tuy nhiên, ngay sau hội nghị quan trọng kể trên. Chỉ thị bàn giao chưa ban hành. Các đơn vị Nhẩy dù tại tiền tuyến vẫn tiếp tục đánh thêm hơn tuần lễ đẫm máu cuối cùng.

Bây giờ là lúc Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch kêu Trung tá Nguyễn chí Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 nhận trọng trách lịch sử. Cho quân tiến vào và cắm cờ trên Cổ thành Quảng Trị. Vào 1 buổi tối dừng quân, Trung tá Hiếu trịnh trọng trao tay lá cờ cho Đại úy Trương đăng Sỹ, Đại đội trưởng Đại đội 51. Với lời lẽ rất khác thường so với ngôn ngữ Nhẩy dù thường lệ. Trung tá Hiếu đă nhắn nhủ người Đại đội trưởng tin cậy của ông làm tṛn sứ mạng. Nếu công tác hoàn tất, lá cờ lịch sử của Nhẩy dù không phải chỉ bay trên nền trời Cổ Thành mà bay cả trên không phận Saigon. Bay cả trên bàn hội nghị Paris.

Và bây giờ xin quư vị nghe ông Đại đội trưởng 51 kể lại chuyện 37 năm về trước đă sống chết với lá cờ ra sao.

Bức tường oan trái.

Vào những ngày tháng đó, Cổ thành Quảng Trị, với tường thành vững trăi. Tường cao, hào sâu là mục tiêu sau cùng nhưng đồng thời cũng là mồ chôn xác của hàng vạn binh sĩ hai miền Nam Bắc.

Chiến binh của Đại úy Trương văn Sỹ lúc đó là những người lính ở tuyến đầu. Xuất thân khóa 21 Vơ bị Đà Lạt, người thanh niên Cần Thơ của miền sông nước Cửu Long đă sống với mũ đỏ từ Campuchia, Hạ Lào, An lộc và giờ đây dừng bước chân chinh chiến trước Cổ thành Đinh công Tráng. Ngay phía sau lưng ông là Tiểu đoàn phó Bùi Quyền, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn chí Hiếu rồi lên đến Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch. Sau ông Lịch là Tư lệnh sư đoàn Dư quốc Đống. Cuối cùng là ông Tư lệnh vùng Ngô quang Trưởng ngày ngày nhận lệnh trực tiếp từ Tổng thống Nguyễn văn Thiệu.

Thanh kiếm miền Nam với mủi nhọn giờ đây đă ở chân Cổ Thành nhưng đuôi kiếm nằm ở dinh Độc Lập Saigon. Cây trường kiếm của cuộc phản công với cả 1 hệ thống quân giai rất dài bắt đầu đâm xuống, nhưng tường thành vẫn trơ như đá tảng.

Trong một khoảng khắc, gánh nặng của quốc gia ngàn cân đè lên vai người chiến binh Đại đội trưởng ở tầng lớp dưới cùng.

Trên con đường đi đến chân Cổ Thành, đại đội 51 của Trương đăng Sỹ cùng các chiến binh Tiểu đoàn 5, các Tiểu đoàn tác chiến, Biệt kích dù, đơn vị Trinh sát đă đổ ra biết bao nhiêu mồ hôi và xương máu. Ngày nào cũng có tử sĩ và thương binh từ mặt trận chuyển về phía sau. Mỗi thước đất tiến lên đều phải trả bằng nước mắt thương vong..

Trận đánh khốc liệt xảy ra từng ngày. Trên trục tiến quân của Đại đội 51 Tiểu đoàn 5 Nhẩy dù, lính của Đại úy Trương văn Sỹ đă giải thoát cho hơn 100 đồng bào dưới hầm trú ẩn tại 1 nhà thờ.

Thành Đinh công Tráng h́nh vuông mỗi chiều 1/2 cây số, tường cao 5 thước, mặt thành rộng 5 thước, và hào sâu tới cổ, rộng gần 10 thước.

Từ trong thành địch vẩn cố thủ giử vững trận địa. Phía cổ thành tiếp giáp sông Thạch Hăn, cộng sản đưa quân tiếp viện liên tục ngày đêm.

Trung tuần tháng 7 năm 1972, người Đại đội trưởng 51 Nhẩy dù trong vai tṛ mủi nhọn của cây trường kiếm miền Nam, đứng trước bức tường thành oan nghiệt. Nhiệm vụ sau cùng là dựng được ngọn cờ.

Trận sau cùng của Đại đội 51.

Khi đă nh́n thấy Cổ thành, Đại úy Trương đăng Sỹ cố gắng thi hành nhiệm vụ. Mười mũ đỏ t́nh nguyện, ông chọn ra 8 chiến binh. Nhắc đi nhắc lại là các em không phải bắt buộc. Hăy suy nghĩ thật kỹ trước khi lên đường. Nhờ bom Không quân đánh ngay vào tường thành để mở đường. Tường đổ xuống lấp hào sâu cho tiền sát vượt qua. Hạ sĩ nhất Trần Tâm làm trưởng toán. Hồ Khang là học sinh Quảng trị ngày xưa dẫn đường, chú Hậu mang máy đi với Hồ Con và Lê văn Lịch… tất cả 8 chiến binh với sứ mạng ra đi vào lúc tối trời. Đại đội trưởng khích lệ đàn em. Những điếu thuốc lá Quân tiếp vụ chia nhau trước giờ lên đường. Anh luôn luôn ở đằng sau các em. Chuyến này về sẽ cho đi phép Sài G̣n. Phần thưởng cho nhiệm vụ sống chết mà người chỉ huy cấp dưới chỉ có thể dành cho anh em là mấy ngày phép. Hồ Khang cầm lá quốc kỳ. Máy PRC 25 trên vai chú Hậu. Đại đội thức suốt đêm theo dơi tin tức của Tiểu đội trinh sát mở đường. Hai Đại đội của Tiểu đoàn 5 nhẩy dù sẵn sàng chờ đợi để tiến lên.

Báo cáo của Đại úy Trương đăng Sỹ. (1972) (Trích từng đoạn ngắn)

Toán quyết tử âm thầm lao ḿnh vào đêm đen. Tôi thức theo dơi từng bước đi, thỉnh thoảng cho pháo binh bắn yểm trợ, soi sáng và chỉ hướng. Tiểu đội này phải tránh các ổ kháng cự của địch. Nửa đêm, toán quyết tử báo cáo đă tới sát bờ thành và đang t́m cách lội qua hào : “Nước sâu quá” Hậu thều thào trong máy. Tôi gọi pháo binh bắn yểm trợ tối đa vào Cổ thành và xung quanh. Ra lệnh tiền quân sẵn sàng xuất phát. Tờ mờ sáng hôm sau, bỗng nhiên tôi nghe tiếng la lớn : “Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm, Nhảy Dù muôn năm !” Nghe hiệu thính viên đứt khoảng trong máy : “Quốc Kỳ đă được dựng lên !” Liền sau đó tiếng nổ ầm vang tứ phía. Đại liên 12 ly 8, AK47, B40. bắn xối xả vào một mục tiêu duy nhất lá Quốc Kỳ ! Sau đó lại mất liên lạc, tôi nhanh chóng ra lệnh đơn vị xuất phát và gọi pháo binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu bạn và xin thêm đạn khói bao phủ Cổ thành. Pháo binh địch cũng bắt đầu lên tiếng trả đũa.“ Mưa rơi nặng hột (Pháo địch mạnh lắm)” Nhưng cho dù mưa rơi dữ dội cách mấy, tôi cũng phải đi. Tôi phải cứu các đệ tử của tôi. Tôi hối thúc Hồ Tường, 52 : “Sắp tới rồi, c̣n không đầy 100m nữa thôi, nhanh lên”. Tôi và Hồ Tường song song tiến thẳng lên Cổ Thành, xin thêm lá Quốc Kỳ thứ hai. Nhưng thành dày khoảng 5m, cao 5m và được bao bọc bằng hào sâu tới cổ, rộng gần 10m. Không thể tiến quân hàng ngang, tiền quân bị khựng lại, đào hầm hố bố trí và t́m phương thức tấn công. Trên mặt thành, địch pḥng thủ vững chắc trong các lô cốt, bắn xối xả vào quân ta. Đêm hôm đó đành bám trụ cố thủ, cho thám sát mặt nước cũng như kéo xác toán cảm tử c̣n kẹt trong thành. Quả thật là một đêm kinh hoàng, tôi không thể nào chợp mắt, Xác đệ tử cách ḿnh chỉ vài chục thước chưa kéo về được, bức tường thành kiên cố và hào sâu đầy chướng ngại, làm cách nào thanh toán? Một binh sĩ toán cảm tử chạy về báo cáo: Hồ Khang, Trần Tâm, Hồ Con, Hậu đă tử thương trên thành, số c̣n lại đều thất lạc ! Sáng hôm sau, tôi cho xử dụng hỏa tiển M72, 4 khẩu châu vào và bắn cùng một lúc với hy vọng phá nổi tường thành, nhưng bờ thành vẫn sừng sững giữa trời…

Ngày N+26, một ngày định mệnh đă xảy đến !

Tôi quyết định đánh bom theo trục Tây Bắc xuống Đông Nam, nghĩa là đối diện với tiền quân. Một chiến thuật rất nguy hiểm cho quân bạn. Mục đích là muốn lấy gạch đất của thành để lấp hào sâu, làm bàn đạp xung phong. Chiếc khu trục đầu tiên nhào xuống, 2 quả bom rời cánh phi cơ, tất cả đều cúi sát mặt đất, nón sắt che đầu. Rồi chiếc thứ hai lao xuống, thêm 2 quả nữa nổ long trời lở đất, cát bụi tung phủ cả bầu trời. Khi ngẩng đầu lên nh́n trong đám bụi mờ, tôi vỗ vai Hồ Tường : “Thành đă bị vỡ, chuẩn bị xung phong !” Sau khi gọi pháo binh, đầu nổ chụp lẫn chạm nổ, sau đó là 20 tràng đạn khói phủ ngập mục tiêu. Tôi ra lệnh 2 Trung đội đầu bỏ balô tại chỗ, một người cầm lựu đạn, một người cấm súng vượt nhanh qua hào sâu, bám chặt vào góc Cổ Thành đă bị vỡ. Nhờ đất đổ xuống lấp mặt nước hơi cạn, lợi dụng màn khói bao phủ, nên tiền quân vượt qua tương đối dễ dàng. Khi màn khói vừa tan, địch quân bắt đầu trả đũa dữ dội. Nặng nhất là hai lô cốt ở mặt tiền và giữa sân cột cờ Tiểu khu, địch c̣n ngoan cố trong hầm hố bắn trả rất mạnh. Tôi tung thêm vào thành một trung đội, bung rộng đội h́nh vừa đào hầm hố, vừa chống cự. Phi cơ quan sát L 19 bao vùng báo cho biết địch từ phía Bắc sông Thạch Hăn tràn qua như kiến ! Tôi xin pháo binh yểm trợ, một mặt xin phi tuần tiếp tục oanh kích. Trong giờ phút dầu sôi lửa bỏng như thế, th́nh ĺnh một tai họa xảy đến. Một quả đạn cối 82 ly nổ ngay hầm chỉ huy. Nói là “hầm” chứ thật ra là một ụ ẩn nấp sơ sài, ngay trước mặt đường là hào sâu v́ tôi muốn dễ quan sát tiền quân. Hồ Tường máu me đầy người, 3 hiệu thính viên : một chết, hai bị thương nặng. Riêng tôi cảm thấy cánh tay trái trĩu nặng, máu đào đă thấm ướt áo trận. Tôi gọi tải thương và y tá băng bó tạm. C̣n một tay vẫn xử dụng được Combiné. Lúc đó tôi đă là người say máu. Cho củng cố, phối trí lại lực lượng. Hai đại đội 51 và 52 nhập lại thành một. Đă kéo về được 3 xác của toán quyết tử: Hồ Khang bị chặt làm 3 khúc nhận ra được v́ anh đeo thẻ bài dưới chân, Hồ Con gục ngă, Lê Văn Lịch bị bắn ngay giữa đầu… số c̣n lại bị thất lạc.

Ra lệnh cho các trung đội trong thành củng cố hầm hố, tôi quyết định cho dựng Quốc Kỳ lần thứ hai. Cờ vàng ba sọc đỏ là mối thù không đội trời chung của Cộng sản, cho nên vừa thấy lá Cờ tung bay là chúng khai hỏa dữ dội, nặng nhất ở giữa cột cờ Tiểu khu Quảng Trị. Hai khẩu 12 ly 8 ở lô cốt mặt tiền hạ ṇng bắn xối xả, B40, B41, AK47 châu thẳng vào cột cờ. Quân ta cũng chống trả quyết liệt với quyết tâm giữ vững ngọn cờ ! - Tôi gọi L19 lên bao vùng và quyết định dùng bom đánh thẳng vào cột cờ Tiểu khu. Khoảng 10 phút sau, 2 chiếc A37 bán phản lực vào vùng, bay lượn xung quanh và chờ L19 chỉ điểm. L19 bay quá cao để tránh pḥng không nên khi lao xuống bắn khói chỉ điểm không được chính xác, Tôi vừa bấm máy gọi Phi Long th́ chiếc A 37 đă đầu tiên lao xuống, 2 quả bom rơi xuống ngay trung đội tuyến đầu. Tôi thất thanh la lớn : “Check fire ngay lập tức!” Nhưng sát theo sau là chiếc thứ hai lao xuống, 2 quả nữa chấn động cả vùng. Tôi ra lệnh tung khói màu và gọi “check fire”. Đă trễ rồi! “Phi cơ đă đánh lầm chúng tôi rồi !” Tôi cảm thấy lồng ngực ê ẩm, tay chân nặng trĩu. Cả một bầu trời sụp đổ.. Phân nửa của các trung đội tuyến đầu gần như tê liệt. Nh́n binh sĩ lần lượt tải thương, d́u nhau trở lại mà ḷng tôi tê cứng. Sau khi báo cáo về Bộ Chỉ Huy, tôi kiểm soát lại binh sĩ, tạm bố trí chờ lệnh. Chiều hôm đó, Trung Tá Hiếu cho Thiếu Tá Bùi Quyền lên thay để tôi về dưỡng thương. Nhưng tôi biết rơ, nếu tôi về đêm nay và lỡ bị địch tấn công coi như tan ră. Tôi cần ở lại và quyết định từ chối tải thương. Thiếu tá Bùi Quyền cho biết lệnh ngày mai bàn giao Cổ Thành lại cho Thủy Quân Lục Chiến để Nhẩy dù nhận nhiệm vụ khác. Tôi không thắc mắc, v́ thật ra tôi chỉ c̣n là một cái xác không hồn, đau thương, uất nghẹn... ( Trích đoạn báo cáo của đại đội trưởng 51, TĐ 5ND.)

Lời cuối cho một bài toán lịch sử :

Bài viết về bức tường thành oan trái lần này đă trả lời hai câu hỏi 37 năm qua chưa được giải đáp. Tại sao Nhẩy Dù lại phải bàn giao trận Cổ Thành cho Thủy Quân Lục Chiến và, trong tuần lễ cuối cùng, thực sự Nhẩy Dù đă lọt vào được Cổ Thành chưa ? Câu hỏi thứ nhất, Trung tướng Nguyễn văn Thiệu đă để lại câu trả lời. Thủy Quân Lục Chiến có trách nhiệm, nếu không để cho họ hoàn tất th́ về sau làm sao đánh giặc.

Câu hỏi thứ hai được trả lời bằng bản báo cáo viết bằng máu và nước mắt của người Đại đội trưởng 51 Nhẩy dù cùng với những chiến binh mũ đỏ hy sinh trong bức tường hành oan trái, một ngày trước khi thay quân. Cựu Sinh viên Sĩ quan khóa 21 vơ bị Đà Lạt Trương đăng Sỹ mới từ B́nh Long anh dũng đi ra đă mang trọng trách dựng lá cờ cho Trị Thiên vùng dậy. Sứ mạng bất thành sau khi bị thương nhẹ lại về đánh trận Barbara tại Trường Sơn. Lần này bị thương nặng về nằm bệnh viện Đỗ Vinh, nhận lon Thiếu tá. Trong khi đó, định mệnh đưa đẩy, Đại úy Giang văn Nhân, Cựu sinh viên Đà Lạt khóa 22, Đại đội trưởng Đại đội 2, Tiểu đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến thay thế khóa đàn anh, đem quân vào dứt điểm Cổ Thành. Lá cờ chiến thắng tung bay trong tay TQLC vào tháng 9-72 đă rũ bỏ kỷ niệm đau thương của cuộc lui binh tháng tư - 72.

Nhưng sau cùng, ba năm sau, ngày tang chung của dân tộc là tháng Tư - 75. Cả hai cựu Sinh viên Sĩ quan khóa 21 và 22 . Cả hai Đại đội trưởng Dù và Thủy Quân Lục Chiến đều có chung những ngày thương khó. Cùng đi tù tập trung cải tạo. Cùng vượt biển t́m tự do. Ngày nay, ông Trương đăng Sỹ, 67 tuổi đă về hưu, định cư tại Úc châu. Ông Giang văn Nhân trẻ trung hơn đôi chút, vẫn c̣n đi làm, sống với gia đ́nh tại Texas, Hoa kỳ.

H́nh ảnh của cả hai Đại đội trưởng, một Dù và một Thủy Quân Lục Chiến đều sẽ có mặt trong cuốn phim Quảng Trị như một bức thông điệp anh hùng gửi cho thế hệ tương lai.

Tháng 5-1972 là tháng miền Nam phục hồi. Tháng 6-1972 đại quân Tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến cùng vượt sông Mỹ Chánh để bắt đầu trận phản công. Có thiết giáp, pháo binh, Biệt động quân cùng tham dự. Rơ ràng là cuộc hành quân Bắc tiến thực sự. Không quân Việt Mỹ bao vùng, thêm hải pháo từ đệ thất hạm đội Hoa Kỳ ở biển Đông.
Cuộc tiến quân tháng 6 của miền Nam coi như thành công. Quân sử của miền Bắc đă phê b́nh nội bộ cho rằng phe cộng sản đă không bám đất, giữ trận tuyến ngay từ bờ bắc sông Mỹ Chánh. Để đến khi miền Nam dồn địch lên phía bắc th́ quá muộn. Tuy nhiên, v́ nhu cầu ḥa đàm, địch vẫn phải sống chết bám lấy Cổ thành Quảng Trị.
So với Nhẩy Dù, TQLC quân số đông hơn, và từ đầu năm 72, mũ xanh tổn thất nhẹ hơn Sư đoàn mũ đỏ. Phần vụ của Sư đoàn xem chừng cay đắng hơn v́ từ trục tiến quân trên Quốc Lộ bây giờ phải xoay ngang cánh mặt để giải quyết khúc xương chính của chiến trường. Thị Xă và Cổ Thành. Lúc đó Trung tướng Dư quốc Đống, gốc Rạch giá vẫn c̣n giữ chức vụ Tư lệnh Nhẩy dù với 3 lữ đoàn tác chiến chuẩn bị dứt điểm mục tiêu sau cùng bên bờ sông Thạch Hăn. Một lữ đoàn giữ pḥng tuyến quốc lộ và chặn địch phía Tây, vùng cận sơn. Một lữ đoàn trừ bị. Trách nhiệm tấn công giao xuống đại tá Trần quốc Lịch, lữ đoàn 2 nhận nỗ lực chính. Đại tá Lịch quê Nam Định, một đời chinh chiến đi lên từ Trung đội trưởng. Tiểu đoàn trưởng Pháo binh nhẩy dù là Bùi Đức Lạc, yểm trợ trực tiếp cho Lữ đoàn 2. Đến trung tuần tháng 7 th́ Nhẩy dù đă giải tỏa xong thị xă Quảng Trị, nhưng chưa tính đến ṭa thành cổ. Địch tăng cường mạnh mẽ và rút vào cố thủ bên trong. Pháo địch bắn liên tục chung quanh phía ngoài. Bom đạn bên ta ngày đêm cầy nát bên trong. Mặc dù sư đoàn mũ đỏ tinh thần rất cao, nhưng thương vong tổn thất suốt năm qua đă quá mệt mỏi. Tạm thời dừng chân bên ngoài Cổ Thành và bàn thảo phương cách tấn công.
Hôm đó là ngày chủ nhật 16 tháng 7 năm 1972. Tất cả các Sĩ quan chỉ huy cao cấp tham dự hành quân đều có mặt với sự chủ tọa của Trung tướng Ngô quang Trưỡng tư lệnh Quân đoàn. Chỉ thị sau cùng là thay quân. Sư đoàn Nhẩy dù bàn giao ngay mặt trận Quảng Trị cho Thủy Quân Lục Chiến để lănh nhiệm vụ khác.
. . .
Tướng Bùi thế Lân, tân Tư lệnh của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến có thể đă được biết nhiệm vụ mới nên không có ǵ thắc mắc. Phía bên Nhẩy dù, tư lệnh Dư quốc Đống lắng nghe ư kiến của Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch ghé bên tai và gật đầu đồng ư. Được phép vị Tư lệnh Sư đoàn, ông Lịch bầy tỏ ư kiến khi phải bàn giao nhiệm vụ. Đại tá lữ đoàn trưởng Nhẩy dù tŕnh bầy các giải pháp đánh vào Cổ thành và đề nghị cho phép mũ đỏ tiếp tục hoàn tất nhiệm vụ.
Bây giờ là lúc Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch kêu Trung tá Nguyễn chí Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 nhận trọng trách lịch sử. Cho quân tiến vào và cắm cờ trên Cổ thành Quảng Trị. Vào 1 buổi tối dừng quân, Trung tá Hiếu trịnh trọng trao tay lá cờ cho Đại úy Trương đăng Sỹ, Đại đội trưởng Đại đội 51. Với lời lẽ rất khác thường so với ngôn ngữ Nhẩy dù thường lệ. Trung tá Hiếu đă nhắn nhủ người Đại đội trưởng tin cậy của ông làm tṛn sứ mạng. Nếu công tác hoàn tất, lá cờ lịch sử của Nhẩy dù không phải chỉ bay trên nền trời Cổ Thành mà bay cả trên không phận Saigon. Bay cả trên bàn hội nghị Paris.
Vào những ngày tháng đó, Cổ thành Quảng Trị, với tường thành vững trăi. Tường cao, hào sâu là mục tiêu sau cùng nhưng đồng thời cũng là mồ chôn xác của hàng vạn binh sĩ hai miền Nam Bắc.
. . .
Chiến binh của Đại úy Trương văn Sỹ lúc đó là những người lính ở tuyến đầu. Xuất thân khóa 21 Vơ bị Đà Lạt, người thanh niên Cần Thơ của miền sông nước Cửu Long đă sống với mũ đỏ từ Campuchia, Hạ Lào, An lộc và giờ đây dừng bước chân chinh chiến trước Cổ thành Đinh công Tráng. Ngay phía sau lưng ông là Tiểu đoàn phó Bùi Quyền, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn chí Hiếu rồi lên đến Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch. Sau ông Lịch là Tư lệnh sư đoàn Dư quốc Đống. Cuối cùng là ông Tư lệnh vùng Ngô quang Trưởng ngày ngày nhận lệnh trực tiếp từ Tổng thống Nguyễn văn Thiệu. Thanh kiếm miền Nam với mủi nhọn giờ đây đă ở chân Cổ Thành nhưng đuôi kiếm nằm ở dinh Độc Lập Saigon. Cây trường kiếm của cuộc phản công với cả 1 hệ thống quân giai rất dài bắt đầu đâm xuống, nhưng tường thành vẫn trơ như đá tảng.
Trong một khoảng khắc, gánh nặng của quốc gia ngàn cân đè lên vai người chiến binh Đại đội trưởng ở tầng lớp dưới cùng.
. . .
Giao Chỉ, San Jose

cha12 ba 11-27-2018 18:36

1 Attachment(s)
Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 3548244)
Ông này nhớ và sưu tầm lại KBC cũng đáng phục

:hafppy::hafppy::haf ppy:
thêm bài thơ KBC4100 dành cho các CSVSQ/TBB/Thù Đức

florida80 11-27-2018 18:42

Quote:

Originally Posted by cha12 ba (Post 3549347)
:hafppy::hafppy::haf ppy:
thêm bài thơ KBC4100 dành cho các CSVSQ/TBB/Thù Đức

thay mặt chú của N.Ư ở Việt Nam . cảm ơn Chú 3

cha12 ba 11-27-2018 18:46

Quote:

Originally Posted by florida80 (Post 3549350)
thay mặt chú của N.Ư ở Việt Nam . cảm ơn Chú 3

:thankyou::thankyou: :handshake:
không có chi cô 8, gởi lời hỏi thăm ông chú người đă từng thụ huấn tại KBC 4100 đồi Tăng Nhơn Phú

florida80 11-27-2018 18:51

Quote:

Originally Posted by cha12 ba (Post 3549353)
:thankyou::thankyou: :handshake:
không có chi cô 8, gởi lời hỏi thăm ông chú người đă từng thụ huấn tại KBC 4100 đồi Tăng Nhơn Phú

V́ mấy đứa em mới về Việt nam gần hơn 1 tuần trước nên mới có ảnh của ông khi trẻ.. Ông bị Stroke . nói o được mấy năm nay ...Có Vợ và mấy đứa con trai an ủi....

Chu choa chú c̣n biết ông thuộc loại khóa nào .. Đáng phục
Chắc ông cùng khoảng 18 hay 20 h́nh chụp th́ phải

cha12 ba 11-27-2018 18:55

Quote:

Originally Posted by florida80 (Post 3549358)
V́ mấy đứa em mới về Việt nam gần hơn 1 tuần trước nên mới có ảnh của ông khi trẻ.. Ông bị Stroke . nói o được mấy năm nay ...Có Vợ và mấy đứa con trai an ủi....

Chu choa chú c̣n biết ông thuộc loại khóa nào .. Đáng phục
Chắc ông cùng khoảng 18 hay 20 h́nh chụp th́ phải

:thankyou::thankyou:
sau khóa 20 và trước khóa 1968...
v́ nh́n quần áo lễ phục và alpha có gạch, các Khóa sau này bỏ cái gạch ngang...

florida80 11-27-2018 19:07

H́nh như cháu nghe mang máng ba nói sau đó ông lên chuẩn úy th́ phải .?
và khi Việt Cộng vào . Không biết ông chú đi học tập bao lâu

C̣n ba N.Y ông khai gian .. { ông cũng đi lính cấp bậc Trung sĩ } Nhưng không khai
Ông chỉ làm hành chánh cho Hải Quân
học tập 1 hai tuần ǵ đó . V́ ông khi c̣n nhỏ sống với Việt Minh .. Nên ông hiểu

hoanglan22 11-28-2018 03:10

Quote:

Originally Posted by cha12 ba (Post 3549347)
:hafppy::hafppy::haf ppy:
thêm bài thơ KBC4100 dành cho các CSVSQ/TBB/Thù Đức

Nhớ tời KBC 4100 tụi này hay chọc 4 người ngối ăn một bàn:hafppy::hafppy:: hafppy:

hoanglan22 11-28-2018 03:12

Quote:

Originally Posted by florida80 (Post 3549358)
V́ mấy đứa em mới về Việt nam gần hơn 1 tuần trước nên mới có ảnh của ông khi trẻ.. Ông bị Stroke . nói o được mấy năm nay ...Có Vợ và mấy đứa con trai an ủi....

Chu choa chú c̣n biết ông thuộc loại khóa nào .. Đáng phục
Chắc ông cùng khoảng 18 hay 20 h́nh chụp th́ phải

Nh́n qua h́nh có thể đoán được phần nào:hafppy::hafppy:: hafppy:

tbbt 11-28-2018 03:45

Cây Cầu Biên Giới Norungi Và Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị - Mường Giang

Thứ Năm, 18 tháng Mười năm 2018 14:04
Tác Giả: Mường Giang

(Tặng Thiếu Uư Nguyễn Văn Tuế (PBC-PT) - Trung Đoàn 56/SD3BB, bị bắt làm tù binh tại Quảng Trị -1972)

Tờ mờ sáng Chúa Nhật 26-6-1950, bảy sư đoàn Bộ Binh Bắc Hàn, với quân số tổng cộng hơn 90,000 người, được yểm trợ bởi một lữ đoàn Thiết Giáp, gồm 150 chiến xa T-34 của Nga Sô và lực lượng Không Quân hùng mạnh với 135 chiếc oanh tạc cơ cùng chiến đấu cơ. Tất cả ngang ngược vượt đường ranh ngăn đôi tạm thời hai nước Triều Tiên, tại Vỹ tuyến 38 để tấn công Nam Hàn.

Hai mươi hai năm sau đó, vào giữa trưa ngày 30-3-1972, nhằm mùa lễ Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo, cũng là ngày thứ năm của tuần Thánh Holly Thursday. Lợi dụng mọi người đang xem lễ, cầu nguyện trong những giờ phút thiêng liêng, như dịp Tết Mậu Thân 1968. Cọng sản Đệ tam quốc tế Hà Nội, mở một cuộc tấn công ác liệt nhất , trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975), vào khắp lănh thổ VNCH. Chỉ riêng mặt trận giới tuyến, Hà Nội đă xử dụng một lực lượng quân sự vô cùng hùng hậu trên 40,000 người, gồm các Sư đoàn chủ lực 304, 308, năm Trung đoàn biệt lập của B-5 là 126, 31, 246, 270, đặc công, hai Trung đoàn chiến xa mang số 203, 204 gần 400 chiếc và năm Trung đoàn Pháo Binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải, tràn qua khu Phi Quân Sự, pháo tập và tấn công biển người vào lănh thổ VNCH tại tỉnh Quảng Trị.

Hai trận chiến trên rất giống nhau và cũng khác nhau, giồng v́ cả hai hiệp định ngưng chiến của Cao Ly và Việt Nam, đều do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, được kư tại Postdam (7-1945) và Genève ( 20-7-1954), trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt kư vào văn bản. C̣n hai nạn nhân là Nam Hàn và Nam Việt, chỉ đứng chầu ŕa lơ láo bên lề hội nghị, để nuốt máu lệ và nổi nhục nhược tiểu mà thội. Riêng Bắc Hàn và Bắc Việt đều là chư hầu của Nga-Tàu, trước sau và tới bây giờ vẫn là những đảng cọng sản quốc tế c̣n sót lại, cuồng tín, cuồng sát và hung hăn hiếu chiến, không thua ǵ Trung Cộng. Tất cả những thảm họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên bán đảo Dông Dương và Triều Tiên, cũng đều do hai nước cọng sản này gây nên, qua sự chỉ đạo của đàn anh Nga-Tàu cùng khối xă hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc Hàn hùng hổ , lộng hành tràn qua vỹ tuyến 38, th́ lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại bên kia giới tuyến. Nhưng đối với hành động ngang ngược của Bắc Việt th́ lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ tịch , tại hội nghi Genève 1954 phản đối , mà ngay cả tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng im re. C̣n Mỹ th́ có ǵ để noí, khi Nixon và Kissiger đă quyết định bỏ chạy khỏi VN. Bởi vậy, Hà Nội càng hung hăng tàn bạo, táng tận lương tâm, pháo tập, trực xa, chém giết thẳng tay hàng vạn đồng bào vô tội, bị kẹt trong vùng lửa khói giao tranh, trên khắp các nẽo đường đất nước, mà kinh khiếp và tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu có thể sánh nổi với đoạn đường chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Quảng Trị.

Ngậm máu phun người trước dơ miêng ḿnh, đặt chuyện chụp mũ Mỹ và quân Lực VNCH trong chiến tranh, là một sự tuyên truyền rất rẽ tiền của Bắc Việt, chẳng những từ trước năm 1975, mà sau nay các văn nô Hà Nội, đều là chuyện b́nh thường và xảy ra hằng ngày như cơm bửa. Bởi vậy giờ đâu c̣n ai tin những chuyện QLVNCH hăm hiếp, bắn giết tù binh VC, hay những chuuyện quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa băi thường dân Việt tại Mỹ Lai-Quảng Ngăi hay mới đây là chuyện Mỹ gài ḿn trên cầu Nogunri ở Bắc Hàn vào tháng 7-1950 , trước khi rút lui, làm thiệt mạng thường dân trên đường chạy loạn hay có thể bị Bắc Cao, xua đi đầu dọn băi ḿn, như Bắc Việt từng làm tại An Lộc, B́nh Đinh, KonTum.. Nhưng dù có chạy tội cách nào chăng nữa, th́ đoạn đường xương trắng máu hồng từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đă trở nên Đại Lộ Kinh Hoàng, ngàn đời muôn kiếp, trong bia miệng, bia đời và những trang sử của VN cùng Nhân Loại. Hăy đọc G.H. Turley, nguyên Đại Tá cố vấn TQLC, trong tác phẩm The Easter Offensive, thuật lại lời Thiếu Tá Mỹ tên Sheridan vốn là một nhân chứng trong đoàn quân, di tản khỏi thành phố Quảng Trị ' không ngờ tôi đă làm nhân chứng, cho một h́nh ảnh thăm khốc, của cuộc chiến VN. Các pháo thủ, bộ đội Bắc Việt, với lư do mà tôi không thể nào giải thích nổi, khi tập trung các loại pháo nặng , thiết giáp để trực xạ vào đ̣n người di tản. Khiến cho hàng ngàn người đă gục chết oan khiên, trong đó phần lớn là người già yếu, đàn bà và trẻ nít ..'C̣n kư giả A.R.Isaaca th́ viết 'vào tháng 6-1972, tôi theo lực lượng Nhảy Dù của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị, nên được tận mắt nh́n thấy những thảm họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Đại Lộ Kinh Ḥang. Kéo hài hàng chục dặm trên đoạn đường bi thiết trên, toàn là những xác xe cộ, trong đó nhiều chiếc c̣n nguyên tử thi của các nạn nhân. Tất cả đă biến dạng sau hai tháng dầi dầu chịu đựng mưa nắng. Dù quân sĩ cố gắng chôn cất cho họ, nhưng v́ quá nhiều, nên vẫn c̣n nhiều xác kẹt trong xe, suốt hai bên đường Quốc Lộ số 1. Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dă man có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào ḿnh , là nhà văn quân đội Phan Nhật Nam, trong tác phẩm Mùa Hè đỏ Lửa 1972 "sự chết trên 9 cây số đường này, là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá và vạn vật chết trong ḷng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi người..". Thê thảm quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên giới và không c̣n một chút t́nh người.

1. Quảng Trị, miền địa đầu giới tuyến

Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới tuyến ngăn đôi đất nước, bởi con sông Bến Hải. Đây là một con sông nhỏ, phát nguyên từ dăy Trường Sơn, chảy ra Đông Hải tại cửa Tùng. Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía bên kia giới tuyền, phía Tây giáp nước Lào, phiá Nam là tỉnh Thừa Thiên và phía Đông là biển. Trước khi xăy ra trận mùa Hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị có diện 3966 km2, dân số 270.984 người. Sau khi kết thúc trận chiến mùa hè vào tháng 9-1972, diện tích Quảng Trị chỉ c̣n có 164.900 km2, với ba quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lăng nhưng dân số tới 202.338 người. Điều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến tranh, chỉ chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự tàn ác dă man của bộ đội miền bắc, đi tới tâu, th́ đồng bào đều phải bỏ của để chạy lấy mạng.

Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lănh thổ tỉnh, chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến Hải, Thạch Hản, Mỹ Chánh vô t́nh qua sự sắp xép của lịch sử, trở thành ba con sông biên giới, trong các giai đoạn chiến tranh VN . Tỉnh c̣n có hai Quốc Lộ 1 và 9, cũng là hai chứng tích lịch sử , về việc đồng bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị thảm sát.

Quảng Trị du nhập vào Mẹ VN , từ năm 1069 khi vua Lư Thánh Tôn, thân chinh đánh Chiêm Thành,bắt được vua Chàm là Chế Củ. Để chuộc mạng, vua dâng ba châu Địa Lư, Ma Linh và Bố Chánh (tứ Quảng B́nh và một phần Quảng Trị ngày nay ). Sau đó, vào năm 1306, Huyền Trân Công Chúa v́ nước quên ḿnh, chịu gă cho vua Chế Mân, để đem về cho Đại Việt hai châu Ô và Lư. Hai châu này sau đó được vua Trần Nhân Tông, đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lặng ngày nay là đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp của Họ Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Ḥang được vào trấn thủ Thuận Hóa , vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588). Ông lập dinh ơ tại Ái Tử, quận Triệu Phong. V́ là đất cổ của Đại Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử như đền thờ Trần Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua Hàm Nghi xuát bôn xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương Cung Thánh Đường La Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Đinh Công Tráng.

Thành cổ Đinh Cộng Tráng, được xây dựng từ năm 1823 s9ời vua Minh Mạng, thời nhà Nguyễn. Đó là thành được đắp bằng đất. Năm 1838, thành được xây lại bằng đá gạch, với chu vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng, dày 3 trượng. Thành có 4 cửa, chung quanh được bao bọc bởi ṿng hào , rộng 4 thước, sâu 8 thước. Trước năm 1972, thành cổ là doanh trại của sư đoàn 101 không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu Khu Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công thự pḥng thủ quân sự kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh SĐ3BB, cũng là Tư Lệnh chiến trường miền Giới Tuyến Quảng Trị, trong trận Mùa Hè năm 1972.

Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ Hoa Kỳ trong các cuộc họp mật, khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam VN, cọng sản Bắc Việt cũng đóng kịch giảm quân và cường độ tấn công vùng giới tuyến, so với những năm về trước. Do trên, các cấp lănh đạo VNCH, từ trung ương tới quân đoàn I, đă tin tưởng là Hà Nội sẽ chẳng bao giờ , có ư đồ tấn công qua sông Bến Hải. Đây chính là lư do, đă giao trọng trách pḥng thủ miền Giới Tuyến, cho một sư đoàn Bộ Binh tân lập, chỉ mới hính thành được vài tháng. Đó là Sư đoàn 3 Bộ Binh, thành lập cuối năm 1971, có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, v́ là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai Trung đoàn 56 và 57 tân lập, mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh,, quân dịch và các đơn vị ĐPQ + NQ Vùng 1 Chiến Thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng..

Quảng Trị lúc đó, được tăng phái thêm Lữ đoàn 147 TQLC của Trung Tá Nguyễn Năng Bảo, đóng tại Mai Lộc về phía tây tỉnh, với trách nhiệm pḥng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge, Holcomb và Phượng Hoàng. Riêng SD3BB pḥng thủ vỹ tuyến, Trung đoàn 56BB, đóng trong căn cứ hỏa lực Carroll lớn nhất tỉnh, do Trung Tá Phạm văn Đính chỉ huy, trách nhiệm pḥng thủ các căn cứ Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lử đoàn 147 TQLC.. Trung đoàn 2 BB đóng tại căn cứ A-4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn 57BB trách nhiệm căn cứ C-1 (Gio Linh), chạy tới cầu Hiền Lương trên quốc lộ 1, về tới căn cứ Ái Tử.. Phía bên kia quốc lộ tới biển, do lực lượng ĐPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ.

2. Trận chiến mùa Hè 1972 tại Quảng Trị

Đúng 12 giờ trưa ngày 30-3-1972, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh quân đội miền Bắc, khai pháo mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, xua 40.000 quân , vượt vỹ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tấn công QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Để mở đường qua sông, , pháo binh cộng sản, vói các loại đại bác ṇng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá tất cả các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có. Ngay lúc đó, cũng là thời gian hai Trung đoàn 2 và 56/SĐ3BB, đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng., đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó bộ binh, chiến xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hỏa lực lần lượt thất thủ, v́ pháo kích và các cuộc tấn công biển người.. Tuy nhiên quân cọng sản cũng vấp phải sự chống cự mănh liệt khắp nơi, nhất là tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và Trung đoàn 2BB. trấn giữ. Đại chiến long trời lỡ đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khấn báo về Sài G̣n và Đà Nẳng, nhưng lúc đó dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự cao nhất, vẫn c̣n chưa t́n là Hà Nội dám vượt sông Bến Hải. Chính điều này, đă làm cho bao nhiêu sinh mạng của đồng bào và người lính, chịu thương vong oan khiên , trên các con đường di tản, trước biển giặc.

Măi tới 6 giờ chiều ngày 30-3-1972, Lử đoàn 258 TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được tăng cường cho SĐ3BB tại mặt trận Đông Hà.. Ngay lúc đó, SĐ308 cọng sản đang tấn công Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô. C̣n SD304 th́ tấn công Tiểu đoàn 8 TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời tiết lại quá xấu, nên Không Quân không thể yểm trợ hỏa lực cho các căn cứ trên., c̣n hải pháo cũng chỉ yểm trợ tới các căn cứ hỏa lực ở phía đông gần biển mà thôi. Riêng các Pháo đội đại bác 105,155 kể cả 175 ly của VNCH, cũng không thể đương đầu nổi , với hàng trăm khẩu pháo nặng 130 ly của Bắc Việt.

Rồi th́ căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ Huy tiền phương của SD3BB cũng bị pháo kích nặng nề. Đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đă làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội miền Bắc, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, v́ vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới.

Ngày 31-3, căn cứ hỏa lực của TĐ4 TQLC tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối, sau khi hứng chịu nhiều thương vong. Ngày 1-4, các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo kích nặng nề nhưng cọng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ, trong lúc thời tiết càng xấu thêm, nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SD3BB trấn giữ, bị tấn chiếm, c̣n căn cứ Fuller và Khe Gió th́ di tản chiến thuật. Căn cứ Holcomb của TĐ8TQLC , bị tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya đểm 2-4. T́nh h́nh chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc t́nh cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiên cho các cấp chỉ huy của SĐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, v́ không t́m ra kế hoạch nào, để ổn định t́nh thế.

Rồi BTL tiền phương của SD3BB được lệnh rút về thành phố Quảng Trị. Lử đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm TĐ3PB/TQLC và TĐ7TQLC, lănh thêm nhiệm vụ pḥng thủ căn cứ Ái Tử. Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng không có quân tiếp viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Đông Hà, bỏ lại cho giặc nhiều khẩu đại bác 155 ly.

6 giờ 30 sáng ngày 2-4-1972, bổng có tin TQLC Hoa Kỳ đă đổ bộ vào bờ biển Quảng Trị, để tiếp viện cho QLVNCH. Tin trên làm cho quân dân trong tỉnh vô cùng phấn khởi nhưng Hà Nội biết trước là tin vịt, nên càng tấn công mạnh khắp nơi. Cùng ngày TĐ3TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được lệnh giữ cầu Đông Hà. Trận chiến trở nên ác liệt, v́ bộ đội và chiến xa cọng sản, chuẩn bị vượt cầu Đông Hà. Ngày 3-4, Trung Đoàn 2BB bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi , khi rút về Cam Lộ, nên không kịp dùng ḿn phá cầu. Tại căn cứ Carroll, do Trung Tá Phạm Văn Đính chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, TĐ1 Pháo Binh TQLC, tổng cộng quân số trên 2000 người, kéo cờ trắng đầu hàng quân Bắc Việt. Đây là trường hợp duy nhất, trong cuộc chiến Đông Dương lần 2. Sỡ dĩ có t́nh trạng tồi tệ này, v́ Trung Đoàn 56 BB rất bê bối, quân số hầu hết từ sĩ quan, hạ sĩ quan tới binh sĩ, được bổ sung từ quân phạm, lao công đào binh vô kỹ luật. T́nh h́nh đă quá nguy ngập, nên cầu Đông Hà được lệnh giật xập, chận được bước tiến của giặc trong một thời gian ngắn. Lử đoàn 369 TQLC lại được tăng cường thêm cho Quảng Trị.

Ngày 4-4, Lử đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ luôn căn cứ Mai Lộc, v́ không chịu nổi pháo kích và chiến thuật tấn công biển người. V́ quân số bị hao hụt quá nhiều, nên lử đoàn này được lệnh về Huế bổ sung và tái trang bị.. Riêng TĐ7 TQLC v́ quân số c̣n nguyên vẹn, nên được lệnh giữ con đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Như vậy về phía tây, chỉ c̣n có TĐ1 TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố mà thôi.

Do t́nh h́nh quá khẩn cấp và nguy ngập, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị. Như vậy tính đến ngày 5-4, chiến trường này có 2 Trung đoàn Bộ Binh của SĐ3 là 2 và 57, hai Lử đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Đoàn Biệt Động Quân, hai Thiết đoàn 17 (M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Địa Phương Quân + Nghĩa Quân và 8 Tiểu đoàn Pháo Binh. Nhưng v́ lệnh chỉ huy không thống nhất, giửa Tướng Hoàng Xuân Lăm (Tư lệnh QĐ1) từ Đà Nẳng và Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai (Tư lệnh SĐ3BB) tại chiến trường, khiến cho t́nh thế đă không được ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên khắp cac mặt trận. Cuối cùng Quảng Trị đă thất thủ, chỉ sau mấy ngày bị pháo kích, đă ban lệnh di tản.

Ngày 8-4, sau mấy ngày bị tổn thất v́ mưa pháo, TĐ3 TQLC phải hoán chuyển về Ái Tử và BĐQ ra thay thế giữ bờ nam Đông Hà. Tại căn cứ Phượng Hoàng, cọng sản đă thảm bại khi trực chiến với TD6 TQLC, thiệt hại hơn một trung đoàn bộ đội, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỷ oanh kích, băi ḿnh cùng pháo binh. Hai chiếc T54 khác bị bắt sống đem về thành phố Quảng Trị. Nhưng sau đó, TĐ6 TQLCH cũng được lệnh bỏ căn cứ Phượng Hoàng vào ngày 12-4. Một cuộc hành quân đại qui mô, do Trung tướng Hoàng Xuân Lăm chỉ Huy, mang tên Quang Trung 729, khai diễn ngày 14-4 với mục đích tái chiếm các căn cứ ở phía tây đă mất. Nhưng cùng lúc, cọng sản Bắc Việt đă mở ba cuộc tấn công lớn vào Ái Tử, Đông Hà và căn cứ Anne ở phía nam, đối diện với quận Hải Lăng. Mục đích là muốn cắt đứt con đường huyết mạch của QLVNCH, từ Quảng Trị về Huế. Để chống lại âm mưu trên, tướng Giai chia các lực lượng đang tham chiến tại đây thành 5 chiến đoàn đặc nhiệm : Trung đoàn 57 BB giữ bờ nam sông Đông Hà. Thiết đoàn 1 + 20 + 2 LD 4,5 BDQ do Đại tá chỉ huy trưởng LĐ1 TG chỉ huy, tái chiếm căn cứ Carroll. Lử đoàn 258 TQLC từ Ái Tử, tái chiếm căn cứ Mai lộc. Trung đoàn 2BB giữ mặt trận từ Ba Ḷng tới bờ tây sông Thạch Hản, ngăn không cho quân Bắc Việt tấn công thành phố. Cuối cùng là Liên Đoàn I BDQ, gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77, giữ con đường huyết mạch từ Quảng trị tới quận Hải Lăng. Chiến cuộc thật sự bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch và bị pháo kích nặng nề. Bởi vậy thay v́ quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LD5 BDQ và Thiết đoàn 20 chiến xa. Tuy nhiên tính đến ngày 18-4, các đơn vị của QLVNCH vẫn c̣n giữ vửng đựợc các vị trí chịu trách nhiệm.

Ngày 22-4, Lử đoàn 147 TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị, thay thế LĐ258 TQLC pḥng thủ căn cứ Aí Tử. Trong đêm CS pháo kích làm kho tiếp liệu của SĐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẳng tới. Nyày 23-4, bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Không Quân và Hải Pháo của Việt-Mỹ, Cọng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người của cả hai phía, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn. Trong lúc đó gần tháng qua, người lính Miền Nam các cấp, từ TQLC, BDQ, Thiết Giáp, Bộ Binh, DPQ + NQ..ngày đêm thiếu ăn mất ngủ, chỉ đứng dưới giao thông hào , chịu pháo, chịu đạn giữa rời mưa gió. Trong luc đó khắp các nẽo đường Quảng Trị, càbg lúc càng chết chóc thê thảm , bởi cảnh pháo kích bừa băi của cọg sản. Quảng Trị đă thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.

Ngày 27-4, tất cả ṇng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh, Hải Lăng. Trong lúc đoàn người tị nạn thay v́ tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hổn loạn trên Quốc lộ 1. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động v́ vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do nhiều đơn vị đă tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SD3BB cũng là đầu nảo chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc. Đúng lúc, kho đạn lớn trong căn cứ Ái Tử lại phát nổ. Ngày 28-4, trước áp lực của đích, cánh quân của LD5BDQ và TD20 rút về phía bên kia cầu Vĩnh Phước nhưng bị pháo 130 ly của Cọng sản bắn sập cầu, khiến nhiều xe M48 và đại bác 105,155 ly bỏ lại bên bờ Bắc. Cũng từ phút đó, các cánh quân c̣n lại của LĐ4, 5 BĐQ, LĐ1 Thiết Kỵ và Trung Đoàn 57 BB, phải lui về pḥng thủ căn cứ Ái Tử và thành phố Quảng Trị. Ngy 29-4, lúc 2 giờ sáng, cọng sản tấn công Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cọng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn cọng các Tiểu đoàn ĐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị. T́nh trạng hổn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ nam sông Thạch Hản pḥng thủ. Lúc đó Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, v́ hầu hết binh sĩ đă ră ngủ , để chạy theo gia đ́nh đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đă bị cọng sản đóng chốt nhiểu đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, v́ Tiểu đoàn 7 TQLC bị chuyển ra pḥng thủ căn cứ Ái Tử. Do đó đoạn đường huyết mạch, ch́ có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cọng sản đóng chốt, đă trở thành con đường xương trắng máu hồng., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè năm 1972.

3. Rút bỏ Quảng Trị


Ngày 30-4, Tư Lệnh chiến trường kiêm Tư Lệnh SĐ3 BB là Chuẩn Tướng Vũ văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và quan trọng, để bàn kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do đó, trong cuộc lui quân, LĐ147 TQLC và TĐ2 Pháo Binh/TQLC , với quân số trên 2000 người, khi quân qua cầu Thạch Hản th́ cầu bị xập, khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ, đại bác và quân trang dụng..phải bị bỏ lại phía bên kia cầu cho cọng sản. Lúc đó Lử đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ , giữ mặt tây từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị. Đồng thời phải giải tỏa Quốc lộ số 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị quân cọng sản chiếm và đóng chốt., nhất là cầu sông Nhung, nằm giữa Quốc lộ 1. T́nh trạng này, đă làm gián đoạn giao thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Đây là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt , tha hồ tác xạ dữ dội và tàn nhẩn, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp đường. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.

Ngày 1-5-1972, Tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm mười bảy triệu dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà c̣n khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá. Theo Lê Huy Anh Vũ, Trung tá thuộc pḥng điện ảnh quân đội, một nhân chứng trong ba ngày cuối cùng , tại Bộ tư lệnh SĐ3BB, đă viết tướng Giai có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ. Nhưng cuối cùng tướng tư lệnh đă thất hứa, đă cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16 giờ 40 ' cùng ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và pḥng thủ vững chắc gấp 100 lân thị xă An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt vào tay cộng sản Bắc Việt, tối ngày 2-5-1972.

Giữa lúc đó, cánh quân c̣n lại tại Quảng Trị, gồm Lữ đoàn 147 TQLC, Liên đoàn 1 Biệt động quân và các đơn vị của SD3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lănh đạn pháo kích nặng nề của giặc nhưng cuối cùng cũng đă thoát được về Huế, sau khi lănh chịu nhiều thương vong thê thảm. Như vậy tính đến ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị coi như hoàn toàn bị Bắc Việt cưởng chiếm. Nhưng giặc từ bộ đội, chiến xa, pháo binh kể cả đặc công, đă hoàn toàn bị chặn đứng bên bờ bắc sông Mỹ Chanh, bởi Lử Đoàn 368 Thủy Quân Lục Chiến, do Đại Tá Chung chỉ huy. Nhờ Lữ đoàn này ngăn được bước tiến của quân Bắc Việt, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, với vị Tư lệnh mới là Trung tứơng Ngô Quang Trướng (thay tướng Hoàng Xuân Lăm), mới có đủ th́ giờ chỉnh đốn lại các đơn vị và mở cuộc tấn công tái chiếm Quảng Trị. Sau đó thành cổ Dinh Công Tráng, coi như cũng được hoàn toàn giải phóng, vào đêm 14-9-1972, khi người lính của Đại Đội 3, Tiểu đoàn3 TQLC, treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, của Quốc Dân VNCH trên kỳ đài.
Những tên bộ đội cuối cùng của Trung đoàn 48 cọng sản, lội sông trốn chạy về bờ Bắc Thạch Hản, sau 82 ngày bám trụ.

4. Nguyên nhân và hậu quả cuộc chiến 1972

Đầu năm 1972, Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ mới với việc tổng thống Nixon ra tranh cử nhiệm kỳ hai, trong lúc ḥa đàm tại Ba Lê giữa Mỹ và Bắc Việt lại bế tắc. Cùng lúc phong trào phản chiến , do trí thức, báo chí, truyền thanh truyền h́nh Mỹ chủ xướng, đang dân cao, c̣n Quốc Hội Mỹ, dưới sự chi phối của đảng dân chủ, lần lượt cắt bỏ quyền của tổng thống Nixon, đối với sự tham chiến tại VN. Cuối cùng Mỹ rút hết nước, QLVNCH bị cắt giảm hỏa lực và quân trạng dụng. Đó là những lư do khiến Hà Nội đốt giai đoạn, vượt tuyến tấn công ào ạt vào khắp lănh thổ VNCH vào mùa hè năm 1972.

Nhưng dù đă được Nga-Tàu quân viện và bán chịu cho một số lượng quân dụng khổng lồ, tối tân như chiến xa T54,55, PT76, đại bác 130,155 ly, súng pḥng không 23,57 và hoả tiển tầm nhiệt SA 7. Đồng thời xử dụng hết số 13 sư đoàn tác chiến tại miền Bắc, quân số trên 136.400 người, bất thần mở cuộc tấn công khắp lănh thổ VNCH.. Tuy nhiên Bắc Việt chỉ thắng lợi lúc ban , rồi th́ sau đó đại bại hầu hết trên khắp cac mặt trận, cho dù Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, đă xử dụng binh pháp của Liên Xô, tận dụng triệt để hỏa lực của đại pháo, xe tăng và biển người, với mục đích đè bẹp nhanh chóng QLVNCH.

Đối với Hoa Kỳ, khi nhận được tin Bắc Việt vượt Vỹ tuyến 17, qua sông Bến Hải và biên giới Lào-Miên tấn công miền Nam. Tổng thống Nixon họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, quyết định cho phép Hải Không Quân Hoa Kỳ, trở lại yểm trợ hỏa lực cho QLVNCH. Ngoài ra bộ binh không được tham dự, đồng thời cuộc rút quân Mỹ về nước vẫn tiếp tục. Do đó Mỹ bắt đầu gia tăng các lực lượng yểm trợ, chiến đấu tại VN. Hai hàng không Constellation và Kitty Hawk, trở lại tăng cường cho hai Hàng không mẫu hạm Corral Sea và Hancook, cùng một số lớn tàu tuần duyên , khu trục hạm, có mặt quanh Cửa Việt trên 20 chiếc. Về Không Quân , từ ngày 15-4-1972, phi đoàn 35 Chiến Thuật , cùng với 3 phi đoàn F4 của TQLC Mỹ, đều trở lại VN. Đồng thới tất cả B52 tại hai căn cứ Anderson Field (Guam) và Utapao (Thái Lan), gồm 38 chiếc, cũng được lệnh yểm trợ cho chiến trường VN. Ngoài ra, tổng thống Nixon c̣n ra lệnh vào ngày 2-5-1972, mở chiến dịch Linebacker 1, tái oanh tạc miền Bắc, nhất là tại Hà Nội - Hải Pḥng. Đồng thời thả ḿn và thủy lôi , phong tỏa các cửa sông, cửa biển của Bắc Việt, ngăn chận các tàu thuyền của Nga,Tàu và các nước Đông Âu, tiếp tế vũ khí đạn dược , cho cọng sản Hà Nội. Sau đó mở thêm chiến dịch Linebacker II, kéo dài trong 11 ngày đêm, từ 1812 đến 29-121972, tàn phá miền Bắc rất nặng nề, khiến cho Hà Nôi phải trở lại bàn hội nghị, tại Ba Lê với Mỹ.

Theo J.Pimlott trong tác phẩm Vietnam The Decisive Battles, th́ cuối tháng 9-1972, cọng sản Bắc Việt thương vong khoảng 100.000 người. Riêng VNCH, dồng bào và lính chết chừng 50.000 người. Nhưng theo W.H Morrison trong The Elephant & The Tiger th́ Cọng sản Bắc Việt chẳng những đă thất bại về quân sự, mà c̣n không đạt được mục tiêu chính là dành dân chiếm đất, trừ tỉnh Quảng Trị bị tạm chiếm trong lúc đầu. Tướng Vơ Nguyên Giáp bại trận và danh liệt từ đó cho đến ngày nay, v́ đă lầm lẫn khi hoạch địch kế hoạnh tấn công . Không biết xử dụng nhị thức 'Thiết Giáp - Bộ Binh' như các tướng lănh VNCH lừng danh : cố Đại Tướng Đổ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi. Đă đánh giá sai lầm tinh thần chiến đấu của QLVNCH, dù đă bị đánh lén cũng như bị thua thiệt về hơa lực. Sau hết là ảo tưởng rằng , khi bộ đội đếu đâu, dân miền Nam sẽ đồng khởi, lật đổ chính quyền. Nhưng mọi sự hoàn toàn trai ngược, v́ cọng sản tới đâu, dân miền Nam bỏ chạy tới đó, do trên bộ đội tức giận , thẳng tay bắn giết đồng bào, mà chúng gọi là nguỵ dân.

Trong trận chiến này, VNCH có hai sư đoàn Bộ Binh bị tan hàng, đó là SĐ22 BB ở Tân Cảnh (Kon Tum) và SĐ3BB tại Quảng Trị. Nhưng sự tan hàng va cung cách hành xử của hai tư lệnh sư đoàn trên, cũng khác biệt. Tại Kontum, lúc 2 giờ sáng ngày 24-4-1972, cộng quân tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, do SĐ22BB trấn giữ. Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư lệnh của SĐ22BB, đă từ chối lời mời của Đại Tá cố vấn Mỹ là Kaplan, lên trực thăng cấp cứu của cố vân Mỹ tại QĐII là Paul Vann. Ông cũng không cầu cứu với Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn, chịu ở lại, để cùng chết với binh sĩ của SĐ22BB. Riêng SĐ3BB, trừ Trung đoàn 2BB, c̣n lại hai Trung đoàn 56 và 57, chưa đụng trận mà chỉ bị pháo kích, đă náo loạn và bỏ chạy. Riêng tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh SĐ, hứa ở lại, để cùng di tản bộ với đơn vị. Nhưng rồi lại thất hứa, leo lên trực thăng , để di tản với cố vấn Mỹ lúc 16 giờ 40 phút ngày 1-5-1972, bỏ lại binh sĩ của Bộ Tư Lệnh và Đại Đội Tổng Hành Dinh của SĐ3BB, như rắn mất đầu, phải chạy theo Thiết Đoàn 18 về Huế.

Ngoài ra cũng c̣n rất nhiều chuyện lạ, như lúc quân Bắc Việt qua sông Bến Hải, tràn ngập và tấn công QLVNCH, th́ người Mỹ lại dở tṛ chủ nhân, làm cho VNCH đang lúc nguy khôn lại càng tận tuyệt. Theo Turley trong The Easter Offensive, th́ việc Bộ Tư Lệnh KQ Mỹ, cấm tác xạ vào vùng phi quân sự, tại miền Bắc tỉnh Quảng Trị, trong phạm vi đường kính 27 km, khi tung tin chiếc phi cơ EB66 của một Đại Tá Hoa Kỳ, bị hỏa tiển Sam, của cộng quan bắn hạ tại vùng Cam Lộ. Lệnh này được thi hành suốt 12 ngày đầu của trận chiến vùng hỏa tuyến., tạo cơ hội cho Hà Nội mở một hành lang an toàn , khi di chuyển qua vùng giới tuyến mà không bị máy bay hay pháo binh của ta oanh tạc và tác xạ. Tại căn cứ hỏa lực Ái Tử, trong lúc QLVNCH đang bị giặc vây khổn và pháo kích tơi bời, lại nhận được thông báo từ các cố vấn, rằng B52 sẽ đến thả bom san bằng, khiến cho BTL .SD3BB phải cấp tốc ban hành lệnh di tản chiến thuật. Đó là tất cả những chuyện khôi hài, cười ra nước mắt, khiến cho ai đọc tới, cũng phải chua xót và tủi hổ cho thân phận nhược tiểu VN.

Sau hết là cái t́nh yêu thương giữa đồng bào và người lính trận, trong cơn hoạn nạn, cũng được thể hiện một cach trọn vẹn, qua cuộc chiến 1972. Chính tại những miền đạn bom lửa máu này, những chổ không bao giớ có bóng dáng các tên nhà báo, kư giả hay nhà văn nhà thơ ǵ ǵ đó, mà chỉ có người dân cùng người lính chia nhau niềm đau khổ, đói rách và khủng hoảng tinh thần. Người quốc gia, từ công chức, cảnh sát, cán bộ cho tới các quân binh chủng của QLVNCH, ai nấy đều chấp nhận cái chết, chịu ở lại, đổi mạng ḿnh, để đem lại sự b́nh an hạnh phúc cho hậu phương. Thắm thiết biết là bao, đó là sự đùm bọc đồng bào như chính bản thân ḿnh. Nhửng khẩu phần lương khơ ít ỏi, những ngụm nước uống thiếu vệ sinh cùng với những sớt chia sự nguy hiểm quanh quanh , đều là những viên thuốc thần dược, xoa dịu và an ủi niềm đau bất hạnh của đồng bào trong lúc nguy khốn. Chẳng những thế, đối với cán binh bộ đội giặc, bị bắt làm tù binh, cũng được người lính đối xử nhân đạo với t́nh đồng bào, mà không hề phân biệt Nam-Bắc, dù thực chất Hà Nội luôn coi đồng bào Miền Nam là kẻ tử thù.

Trần Đức, một người lính nhẩy dù, trên đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị, khi ngang qua Đại Lộ Kinh Hoàng, đă không cầm nổi nước mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra tung tóẹ Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ c̣n bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như c̣n mong bờ đất dưới ruộng che chở cho ḿnh thoát tầm đạn giặc. Đó đây, giữa đám xác người, rải rác những đuôi đạn súng cối 61 lư và B40 .Th́ ra cộng quân đă đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đă bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ thợ Thật là rùng rợn. H́nh ảnh này trong trận tấn công "Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972" ghi sâu măi măi trong kư ức của những người đă chứng kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của cọng sản Bắc Việt.

Đoạn đường mang tên "Đại Lộ Kinh Hoàng" nay không c̣n xác chết, không c̣n dấu vết của tội ác. Họ đă được thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Sau tháng 5- 1975, đất nước đắm ch́m trong tù gông nô lệ cũa thực dân VC, v́ vậy hằng năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia đ́nh ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm tưởng nhớ. Không ai dám hé răng nửa lời. Có những người không c̣n thân nhân th́ mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đă chết tức tưởi mà đến nay họ c̣n u uất nơi bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ được là 30 năm sau, người đời vẫn c̣n nhớ thương họ. Mới đây, vào ngày 28-4 đến ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Trị đă tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tại Quảng Trị., mặc dù chính quyền địa phương đă cho cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xe. Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ tŕ chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào đă mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của cộng sản trong Mùa Hè Đỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu thoát.

Mới đây báo đảng lại la ó lên vụ lính Mỹ thảm sát đồng bào Bắc Hàn trong chiến tranh Triều Tiên năm 1950. Báo viết lính Mỹ gài ḿn hai bên cầu Nogunri, để làm chậm đà tiến quân Bắc Hàn. Sau đó v́ hốt hoảng hay lư do nào khác, khiến lính Mỹ hạ sát hằng trăm người tị nạn đang trốn dưới ṿm cầu. Bài viết rất mơ hồ, khi chỉ nghe mờ mịt và đang trong ṿng tranh cải. Khi viết tin trên, không biết VC có khi nào sám hối về những hành động bắn giết đồng bào ḿnh, trong cuộc chiến vừa qua và sau đó cứ tiếp tục tàn sát cho tới nay vẫn chưa dừng tay.

Bởi vậy ngậm máu phun người, trước dơ miệng ḿnh và trên hết chỉ làm tṛ cười cho kẻ khác mà thôi.

Mường Giang

hoanglan22 11-28-2018 04:32

Quote:

Originally Posted by florida80 (Post 3549358)
V́ mấy đứa em mới về Việt nam gần hơn 1 tuần trước nên mới có ảnh của ông khi trẻ.. Ông bị Stroke . nói o được mấy năm nay ...Có Vợ và mấy đứa con trai an ủi....

Chu choa chú c̣n biết ông thuộc loại khóa nào .. Đáng phục
Chắc ông cùng khoảng 18 hay 20 h́nh chụp th́ phải

Chú đoán ông ấy ở khoảng 18 hay 20 . Theo chú nhớ mang mang là có 22 hoặc 27 khóa . Sau năm 1968 th́ được gọi khóa 1/ 68 ...2/ 68 cứ thế liên tục đến năm 75 . Mỗi khóa đều có tên riêng sau này . Khóa của chú đeo khăn vàng . khóa kiến thiết 9/73 . Dân Thủ đức đa số là Tổng động viên nhiều hơn là T́nh nguyện như vơ bị đà lạt . Chương tŕnh học kém hơn đà lạt ( đa lạt học 4 năm ) gái mê nhiều hơn :hafppy::hafppy::haf ppy:

Mấy năm trước chú có về họp mặt khóa này Bolsa nhưng người c̣n người mất ( chung tiểu đoàn 4 phân chia làm 4 đại đội , lâu quá rồi cũng chẳng nhận ra ai chỉ có nhớ kỷ niệm phần nào ở lquân trường rồi đường ai nấy đi làm nhiệm vụ đời trai trong thời chinh chiến

wonderful 11-28-2018 11:05

Ḿnh đóng góp và bổ xung thêm về Trường Vỏ Bị Thù Đức.
Trường chỉ đảm trách việc đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho toàn thể Lục Quân Việt Nam. Ngoài những khóa trên trường huấn luyện các khóa:
– Khoá hoàn hảo Sĩ quan Điạ Phương Quân
– Khoá Bổ túc Quân sự cho SQ Quân Y
– Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các: Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn. (Năm 1969 CSQG thành lập Học Viện tại Thủ Đức cũng trên đồi Tăng Nhơn Phú, Sinh viên sĩ quan được huấn luyện căn bản quân sự tại trung tâm huấn luyện Rạch Dừa Vũng Tàu, sau khi măn khoá gắn Alpha về Học Viện học chuyên môn, không c̣n thụ huấn tại trường SQTB Thủ Đức như những khoá đàn anh).
Học tŕnh của Trường SQTB Thủ Đức kéo dài 9 tháng. Những khóa đầu điều kiện học vấn cần có bằng trung học, thời gian huấn luyện ngắn hơn. Nhưng sau nầy nhập học (động viên hay t́nh nguyện) thanh niên từ 18 tuổi phải có bằng Tú Tài I (trước 1974 tại miền Nam trường trung học đệ nhị cấp phải qua 2 kỳ thi Tú Tài I & II). Sau khi ra trường mang cấp Chuẩn úy, sau 18 tháng quân vụ th́ thăng Thiếu úy, hai năm sau lên Trung úy. (ngoại trừ những Sĩ quan vi phạm kỷ luật bị “kư cũ“ th́ khó lên cấp bậc theo quy định). Mỗi đơn vị Quân Đội có một Khu Bưu Chính (hộp thơ). viết tắt KBC, với 4 con số ghi sau chỉ danh đơn vị đó. KBC của Trường Bộ Binh là KBC 4.100 trực thuộc Quân Bưu Cục Trung Ương tại Thủ Đô Sài G̣n.

Sau Tết Mậu Thân 1968, chính phủ ban hành một sắc luật Quân Sự áp dụng vào học đường, cuối tuần học sinh đệ nhị cấp phải học căn bản về quân sự biết xử dụng vũ khí, tập bắn tại các trung tâm huấn luyện. Nên khi họ vào trường SQ trừ bị Thủ Đức đă có một phần căn bản về quân sự. Các công chức và chuyên viên kỹ thuật các ngành phải được thụ huấn quân sự xong có thể trở về nhiệm sở cũ làm việc, nếu có nhu cầu đ̣i hỏi của cơ quan ấy. Các giáo chức sau một vài năm trong quân ngũ đa số được trở về trường xưa tiếp tục dạy học. Ngoài những người được biệt phái đa số sĩ quan trừ bị Thủ Đức phải ở lại Quân đội mặc dù nhiệm kỳ trừ bị 4 năm đă qua, nhưng bị lưu giữ lại v́ t́nh trạng chiến tranh.
Năm 1972 lịnh tổng động viên (sụt một tuổi) sinh viên cũng như học sinh phải lên đường nhập ngũ, có 15 khóa SQTB thụ huấn tại Nha Trang và Thủ Đức. Kể từ tháng 1-1968 đến tháng 12-1973, trong việc tiếp sức trường SQTB Thủ Đức, trường Hạ Sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang đă đào tạo được 12.000 Sĩ quan trừ bị. Khoá 1/68 Khóa 2/68, Khóa 2/69, khóa 1/72, Khóa 6/72, Khoá 9B/72 Khóa 11/72 học tại Nha Trang. Như vậy tổng số Sĩ quan trừ bị được huấn luyện tại Thủ Đức, Nam Định, và Nha Trang trên dưới 100,000 người trong đó có những danh tướng xuất thân từ Thủ Đức chiến đấu tới ngày cuối cùng như: tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê Văn Hưng… tuẫn tiết không đầu hàng, (c̣n những hèn tướng ra lệnh cho cấp dưới, binh sĩ tử thủ chiến đấu trong khi họ cùng gia đ́nh bỏ chạy từ 27.4.1975).
Thủ Đức c̣n đào tạo những khoá Sĩ quan đặc biệt, giành cho Hạ sĩ quan có tŕnh độ trung học và kinh nghiệm tác chiến, là một cơ hội tốt để họ tiến thân trong cuộc đời binh nghiệp như cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn.
Nhưng bạn bè, người thân trong gia tộc phần lớn được thụ huấn trong trường SQTB Thủ Đức, được học đầy đủ kỹ thuật tác chiến, công tác chỉ huy, tham mưu, t́nh báo, vũ khí, chiến thuật, chiến lược… Cuộc chiến đôi khi cao độ đẩm máu, nhiều người hy sinh, bạn thân của tôi trở về trong chiếc quan tài bọc kẻm, phủ cờ vàng trong chiều đông gió lạnh! Mẹ già ôm quan tài thương khóc…
Trường SQTB Thủ Đức đă đào tạo Sĩ quan trẻ tài năng và đạo đức. Những cuộc hành quân Sĩ quan chỉ huy ra lệnh binh sĩ luôn tôn trọng sinh mạng, tài sản của dân, kính trọng người già, yêu trẻ con và luôn đứng đắn với phụ nữ… đối xử nhân đạo với tù. Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín là năm đức tính người chỉ huy phải rèn luyện hàng ngày.
Cuộc đời của người trai thời loạn phải hy sinh tất cả ra chiến trường để bảo vệ cho miền Nam được tự do, mong ước chiến tranh chấm dứt để trở về mái nhà xưa. Mọi người hy vọng Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại ḥa b́nh ở VN (Agre ement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) nhưng chỉ là một giấc mơ!Sau khi Hiệp định Paris được kư kết và có giá trị kể từ ngày 27.1.1973, tất cả quân đội Đồng Minh triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam. Trường SQTB Thủ Đức dời về tiếp quản căn cứ của Sư Đoàn Hổ Mang Thái Lan ở Long Thành. Những cơ sở trường ốc cũ được chuyển thành Huấn Khu Thủ Đức, tập trung các Trường Huấn Luyện của tất cả các ngành lại một chỗ.
Cuộc đời của người trai thời loạn phải hy sinh tất cả ra chiến trường để bảo vệ cho miền Nam được tự do, mong ước chiến tranh chấm dứt để trở về mái nhà xưa. Mọi người hy vọng Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại ḥa b́nh ở VN (Agre ement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) nhưng chỉ là một giấc mơ!Sau khi Hiệp định Paris được kư kết và có giá trị kể từ ngày 27.1.1973, tất cả quân đội Đồng Minh triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam. Trường SQTB Thủ Đức dời về tiếp quản căn cứ của Sư Đoàn Hổ Mang Thái Lan ở Long Thành. Những cơ sở trường ốc cũ được chuyển thành Huấn Khu Thủ Đức, tập trung các Trường Huấn Luyện của tất cả các ngành lại một chỗ.
Trong khi đó Liên Xô, khối Cộng sản Đông Âu và Trung Cộng viện trợ tràn ngập quân sự cho Hà Nội. Bộ đội Bắc Việt được trang bị đầy đủ vũ khí, xe tăng tối tân. Bộ đội trẻ phải hy sinh rất cao “sinh Bắc tử Nam“ đánh theo chiến thuật biển người để tiến chiếm miền Nam. Tinh thần Quân Đội VNCH chiến đấu hăng say tái chiếm An Lộc, cổ thành Quảng Trị, dù bị cúp viện trợ thiếu súng đạn nhiên liệu…
Việt Nam Cộng Ḥa phải tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CS cho đến biến cố lịch sử 30.4.1975, tan hàng rả đám, Sĩ quan, Công chức VNCH bị tập trung vào các trại cải tạo, nhiều người đă chết trong các trại tập trung ở núi rừng miền Bắc. Số c̣n lại may mắn sau nhiều năm trong tù đói khổ, thiếu thốn trăm bề sống sót trở về được đi theo diện H.O (Humanitarian Operation) năm 1999 đến Mỹ nhờ sự giúp đỡ, vận động tích cực của Bà Khúc Minh Thơ. Hay những người đi vượt biển được các quốc gia thuộc thế giới tự do cho định cư. Những người c̣n trẻ đi học tiếp tốt nghiệp đại học, những người lớn tuổi th́ con cái có cơ hội làm nên sự nghiệp vẽ vang nơi xứ người, không bị kỳ thị lư lịch. Nhà cầm quyền CSVN trả thù Sĩ quan, Công chức của VNCH đă đành. Nhưng những cựu chiến binh của họ, họ cũng nhẫn tâm bóc lột, lọc lừa… nhiều người mang huân chương đầy ngực đi biểu t́nh, kêu gọi công lư v́ bị cướp đất, cướp nhà nhưng tiếng kêu gào oan ức của họ đi vào hư không!
Ḿnh c̣n nhớ và sẽ nhắc lại khúc quanh lịch sử không phải để khơi dậy nỗi hận thù mà là nhắc lại nỗi thống khổ, đau buồn của cả dân tộc Việt Nam, để thế hệ con cháu của chúng ta mai sau biết được giá trị lịch sử trách nhiệm của ḿnh với dân tộc. Chúng ta cùng đốt nén nhang ḷng, tưởng niệm những người đă nằm xuống trong cuộc chiến Việt Nam và với riêng tôi có một nhiệm vu nào đó chưa hoàn thành cùng với tất cả các bạn lính của tôi....11/2018

hoanglan22 11-28-2018 14:10

Anh Về Từ Thung Lũng Tử Thần Ashau
 
Dáng người nhỏ, da đen sạm, 25 tuổi, độc thân, sinh tại Hà Tây, Quảng Ngăi, thuộc bộ lạc Hả, 8 tuổi lính, từ Bộ Binh qua Biệt Kích rồi Thám Kích Tiền Phong. Đó là những nét đầu tiên tôi ghi nhận nơi Đinh Đó, người toán phó Thám Kích/Lực Lực Đặc Biệt, bị Cộng quân giam giữ suốt 45 ngày nhưng đă can đảm thoát vùng tử địa và hướng dẫn oanh kích sào huyệt Cộng quân gây tổn thất nặng nề cho địch.

Trong không khí yên lặng buổi ban mai đẹp trời, nơi chiếc ghế băng ngoài sân TTHQ/Delta, tôi được Đinh Đó kể lại quăng thời gian 45 ngày chung sống với Cộng quân trong thung lũng tử thần Ashau.

Cuộc đồi thoại không mang tính cách phỏng vấn, mà là một buổi trao đổi tâm t́nh cởi mở.

Nhảy vào vùng tử địa.

Ashau nằm cách biên giới Lào Việt không đầy 10 cây số và cách thị trấn Huế trên 40 cây số về phía Tây.

Với địa thế núi rừng hiểm trở, mây mù bao phủ quanh năm, tiện đường chuyển vận quân và vũ khí của Cộng quân. Qua nhiều năm CSBV dùng nơi đây làm sào huyệt xuất phát những trận đánh phá nhiều tỉnh thuộc Vùng I Chiến Thuật, nơi Cộng quân cho là bất khả xâm phạm với địa thế ḷng chảo, một tiền đồn và một phi trường bỏ hoang c̣n ghi dấu lại. Nhưng đối với các chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt và BKQ th́ danh từ ‘vùng tử địa’ hay ‘bất khả xâm’ cũng bị xóa bỏ. Chính nơi thung lũng tử thần này, tháng 3/68, các Chiến sĩ Tiểu Đoàn 91 Biệt Kích Dù đă phục kích phá tan đoàn xe Cộng quân gồm 8 chiếc chuyển vũ khí lương thực xâm nhập miền Nam. Đến nay trong khuôn khổ hành quân Delta vẫn c̣n nối tiếp, các toán Delta và Thám Kích Tiền Phong luôn được tung vào hoạt động trong vùng rừng núi tử thần này.

Trưa ngày 2/4/69, một toán Thám Kích Tiền Phong gồm : Toán Trưởng Nguyễn văn Son, Toán Phó Đinh Đó và hai toán viên Lê Văn Bang cùng Đinh Đức, được trực thăng thả bằng thang giây xuống hoạt động tại vùng thung lũng Ashau. Bốn chiến sĩ được trang bị súng AK, y phục Kaki, đi dép râu, đầu trần giống như Cộng quân. Buổi trưa bầu trời quang đăng không có những lớp mây mù giăng phủ như thường ngày, nhưng khí rừng vẫn xông lên hơi lạnh ẩm ướt. Đứng dưới hố bom. Toán trưởng mở bản đồ để xác nhận lại vị trí và ra lệnh cả toán gióng hướng Bắc 32 độ. Núi rừng âm u, tàn cây che kín chỉ để lọt xuống những khoảng nắng nhỏ, im lặng đến nỗi nghe rơ từng tiếng chim gơ mơ từ xa vọng lại và cả tiếng chân ḿnh khua động lá rừng cùng hơi thở đồng đội. Ở đây núi đồi không cao lắm, chỉ dưới ngàn thước, nhưng đường đi chênh vênh dốc và vướng mắc nhiều rễ cây rất khó di chuyển. Mồ hôi đă thấm lưng áo, nhỏ giọt từ trán xuống, bốn người dừng nghỉ. Rừng chiều xuống, những đám mây giăng trên đầu và sương rừng bắt đầu rơi lạnh. Son ra hiệu cho các bạn tiếp tục lên đường để t́m một vị trí an toàn nghỉ đêm. Màn đêm chụp xuống thật mau, xóa nḥa cảnh vật chung quanh. Bốn người ḍ dẫm đi gần nhau, v́ chỉ một khúc quanh, một hốc núi, một gốc cây là lạc nhau. Son đứng lại và cả toán dừng theo. - ‘Đêm nay nghỉ tạm trong hốc núi này !’.

Son ghé tai nói với Đinh Đó, anh gật đầu đồng ư và cả toán dừng theo.

Đêm rừng huyền bí lạ. Bốn bề yên lặng nghe rơ tiếng côn trùng rên rỉ dưới cỏ, sương rơi trên lá. Những con đom đóm rừng bay vật vờ ma quái. Tiếng vỗ cánh của con chim say ngủ. Khí lạnh từ trong ḷng đất và hang đá toát ra khiến mọi người rùng ḿnh vội kéo tấm áo lạnh khoác vào người. Đêm đầu tiên dựa vào nhau mà ngủ cho ấm và để dễ liên lạc. Một người ôm súng canh chừng cho ba người ngủ. Cứ thế thay phiên nhau tới khi những tia nắng đầu tiên lọt qua khe đá dội xuống. Cả bọn tiếp tục lên đường. Cứ ngày đi đêm nghỉ băng qua nhiều đồi núi. Tới ngày thứ ba, cả toán đang đi bỗng trời xám dần, rừng cây lay động mạnh. Những cơn gíó ào ào xoáy lốc giật lá cây trút xuống, những tia chớp loé lên kèm theo tiếng nổ vang động núi rừng. Cơn mưa đổ như trút nước. Bốn người nép ḿnh vào hốc đá vẫn không tránh khỏi ướt sũng. Trận mưa dai dẳng kéo dài suốt đêm. Một đêm giấc ngủ chập chờn với những tiếng động ầm ầm của đất trời và núi rừng.

Hai lần thoát chết trong gang tấc.

Sáng ngày 5/4/69, trận mưa đêm dứt hẳn, nhưng lá cây c̣n ướt sũng, thỉnh thoảng rùng ḿnh trút nước dưới những cơn gíó ào ào. Một ḍng suối róc rách chảy đâu đây, cả toán tiếp tục lên đường. Đổ đồi thật vất vả, ướt và trơn tượt, phải níu vào rễ cây mà đi xuống. Đó dừng lại, chú ư đám cỏ thấp nghiêng rạp hai bên. Anh giơ tay chỉ một nhánh cây non mới bị bẻ gẫy. Dấu người vừa đi qua gần đây, anh nh́n khả nghi lùm cây phía trước, đưa mắt ra hiệu đồng bạn thận trọng. Bỗng một tràng AK từ trên đồi dội xuống, Đó lăn ḿnh vào hốc cây, ria một băng đáp trả. Rồi từng loạt đạn từ bốn phía thi nhau nổ gịn. Địch h́nh như phát giác được quân số phía toán. Tiếng đạn rít lên từng hồi, tiếng hô xung phong bắt sống, phá tan bầu khí yên tĩnh ban mai núi rừng. Bốn tay súng can đảm chống trả, nhưng không thể cầm chân địch từ bốn phía tràn lên.Vài tên gục ngă, tiếng rên bi thảm.Tíếng súng dưới chân đồi thưa dần, chứng tỏ địch đă cận kề. Phải mở một đường máu liều chết để thoát ra ngoài. Son ra hiệu dồn hoả lực về phía trước để cầm chân địch. Bốn khẩu AK nổ gịn. Cả toán lăn nhanh xuống đồi như những con sóc rừng. Từng loạt đạn vút theo. Hai tiếng hét phía sau: Bang và Đức trúng đạn chúi xuống, một loạt đạn bồi theo. Toán Trưởng Son và Toán Phó Đinh Đó biết là hai toán viên đă bị hạ, nhưng không sao tiếp cứu nổi, v́ những loạt đạn vẫn nối tiếp đuổi theo với tiếng ḥ hét phía sau. Son và Đỏ thoát xuống chân đồi, lẩn vào khu rừng kế cận. Tiếng súng xa dần…

Nắng lên cao, nhưng hai người vẫn không dám dừng chân nghỉ, v́ biết địch c̣n bám sát phía sau.

Gói cơm chiều hôm trước c̣n dở hai người chia nhau vừa đi vừa ăn. Đỏ hỏi Son :

- Bây giờ tính sao ?

- Chúng ta đă mất hai, c̣n hai lạc hướng không thể nào tiếp tục như kế hoạch đă định trước.

Máy truyền tin mất, phải t́m một vị trí dựng ‘pano’ báo hiệu phi cơ đến tiếp cứu.

Đó chỉ ngọn núi phía trước, hai người trực chỉ. Phải lên tới dỉnh núi trước khi trời tối mới hy vọng.

Ngọn núi trông xa sườn thoai thoải, nhưng tới gần dốc đứng, lên thật vất vả, vô ư một chút là trượt chân té xuống vực. Gần 5 giờ hai người mới lên tới đỉnh. Sương mù xuống lạnh, giăng giăng trên đỉnh che khuất ánh nắng chiều. Cố lắng nghe tiếng phi cơ từ xa vọng lại, nhưng im vắng bao phủ triền miên núi rừng. Hai người tháo ba lô lấy thức ăn. Gói cơm lạnh ngắt, mùi cá hộp tanh nồng nhưng cố nuốt. Thèm một ngụm cà phê, một điếu thuốc biết chừng nào! Nhưng giữa cảnh núi rừng này, t́m đâu ra. Son giơ ‘bi đông’ nước lên uống một ngụm, ḍng nước chưa kịp trôi xuống cổ họng th́ anh bị một viên đạn bắn trúng đầu gục xuống. Nhanh như cắt, Đó chụp lấy khẩu AK ria một loạt về phía tên Cộng quân vùa từ dưới ḅ lên. Tên địch chới với lăn xuống phía dưới. Đỏ vội giựt khẩu AK trên đùi Son rồi biến mất. Anh không kịp mang ba lô theo và biến vào sương chiều đang vây phủ núi rừng. Có tiếng nói lao xao phía trên. Anh nép ḿnh vào hốc đá và thoáng nghĩ “đây là lần thứ hai ḿnh phải bỏ đồng đội ở lại. Thế là mất ba, chỉ c̣n một ḿnh, chắc khó thoát. Nhưng dù sao cũng phải cố gắng ra khỏi vùng này ngay trong đêm nay”.

Đỏ lần ṃ trong bóng đêm. Một ḥn đá lăn dưới chân, một con đom đóm đêm cũng đủ làm anh giật ḿnh. Thật là một đêm kinh hoàng nhất trong đời quân ngũ. Anh đă từng xông pha nguy hiểm nhiều lần, nhưng chưa bao giờ anh phải chiến đấu đơn độc như lần này, nói đúng hơn là anh phải tự bảo vệ cho ḿnh.

Khi tiếng chim rừng hót vang anh mới biết trời đă sáng. Anh nhớ bao đạn đă tuột mất và khẩu AK đă bắn hết viên đạn cuối cùng.Thật là vô dụng mang theo thêm nặng, anh t́m một hốc đa vùi xuống và lấp lá cây lên. Giờ th́ nhẹ nhơm, nhưng mạng sống đành trao cho số mệnh. Lúc này có thể gặp bất cứ ai bạn hay thù.

Người toán phó Thám Kích cứ lầm lũi đi theo bóng mặt trời lên. Người mệt lả, bụng đói v́ hết lương thực, mắt mờ đi, tay chân bủn rủn….

45 ngày sống với Cộng quân.

Buổi trưa, Đỏ dừng lại đang lấy tay vục nuớc uống từ một ḍng suối chảy qua khe đá ,bỗng có tiếng quát lớn phía sau :

- Giơ tay lên !

Như một cái máy, anh quay lại từ từ đứng lên giơ tay cao. Lúc này không c̣n thoát được nữa. Hai người mặc Kaki vàng cầm súng AK từ sau hốc đá nhảy vọt ra. Chúng lục soát người anh thấy không t́m được ǵ quan trọng, liền bắt anh cởi bỏ quần áo, chỉ cho mặc chiếc quần cụt và dùng giây trói tay quặt về phía sau.

Không đầy một phút sau, một toán chừng 20 tên kéo đến. Tất cả đều ăn mặc và trang bị giống như hai tên trước. Tên mang khẩu Colt Trung Cộng - chắc là cấp chỉ huy - lên tiếng hỏi :

- Bắt được có một tên hay sao ?

- Vâng chỉ có một tên thưa đồng chí ! Tên kia đă bị bắn chết trên núi, chỉ c̣n tên này trốn thoát.

Nghe tên kia trả lời, Đó biết là chúng đă cho một Trung đội theo sát Son và anh trong mấy ngày nay. Tên chỉ huy hỏi anh:

- Mày là lính Biệt Kích Mỹ ?

- Không, tôi là Biệt kích Việt Nam.

- Súng đạn đâu ?

- Tôi đánh mất tất cả.

- Tên mày và chức vụ ?

- Đinh Đó, toán phó Thám Kích.

Hỏi mấy câu vắn tắt rồi hắn hất hàm ra lệnh :

- Thôi giải hắn đi !

Toán người do tên chỉ huy hướng dẫn đi trước và Đinh Đó được bốn tên áp giải theo sau. Đoàn người theo đường ṃn mà đi, h́nh như chúng đă thông thuộc với những lối đi quanh co này. Trưa hôm đó tới một căn nhà dùng làm trạm giao liên. Đây không có người ở, chỉ dùng làm chỗ dừng chân nghỉ ngơi. Cả bọn ăn cơm và một tên mang đến cho Đó một chến cơm với ít muối. Ăn xong chúng ngồi nói chuyện một lúc rồi tiếp tục lên đường. Khi trời vừa tối tới trạm giao liên thứ hai. Trạm này có chừng một trung đội đang đóng giữ. Sau khi trao đổi vài câu cùng trưởng trạm, chúng nghỉ đêm tại đây… Cứ như thế, tiếp tục ngày đi đêm nghỉ và tiến về hướng đông. Dọc đường anh để ư cứ hai trạm bỏ trống tới một trạm có người, mỗi trạm cách nhau từ 2 tới 3 cây số. Anh được biết trong câu chuyện chúng trao đổi: Đơn vị này thuộc Tiểu Đoàn 50 CSBV và chúng đang áp giải anh về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn.

Qua ngày thứ ba, anh dược lănh mỗi ngày nửa lon gạo và một gói muối nhỏ, trong khi chúng lănh mỗi người 1 lon gạo kèm 1 gói đồ ăn khô. Giờ chúng để anh thong thả hơn v́ đây là vùng hoạt động của chúng.

Ban ngày anh được cởi trói, tự nấu lấy cơm dưới sự giám sát của 4 tên. Đêm đến chúng trói lại và nằm cạnh để canh giữ….

Năm ngày qua đă tới Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn của chúng. Nơi đây không một hàng chữ, không một cổng ra vào v́ bốn phía đều trống trải. Năm dẫy nhà mỗi dẫy chừng 10 căn cách nhau từ 50 đến 100 mét. Nhà dựng sơ sài bằng cây, lợp lá rừng trông đă cũ. Anh thấy những người lính qua lại c̣n rất trẻ chừng 15,16 tới 21, 22 tuổi là nhiều. Đứa mặc quần áo, đứa cởi trần, tỏ ra rất thong thả. Có vài người chống nạng hay bó tay chân. Anh thoáng thấy có cả nữ cán bộ, nhưng không biết họ làm nhiệm vụ ǵ ở đây. Các cô mặc quần đen, áo nâu, chít khăn theo lối người miền Bắc. Nhưng một đặc điểm là bọn này người nào cũng gầy g̣ da vàng bủng. Anh đoán chừng đây là cơ sở hậu cần Trung đoàn. Những người qua lại đưa mắt ṭ ṃ nh́n anh rồi bỏ đi.

Một tên bước tới hỏi :

- Mày là lính ở đâu ?

- Lính Việt Nam Cộng Ḥa.

- Đi lính có sướng không ?

- Không đến nỗi khổ cực.

- Quần áo và ăn uống thế nào ?

- Đầy đủ.

- Hút thuốc này ?

Tên cán bộ vừa nói vừa giơ điếu thuốc cuốn theo lối đồng bào Thượng thường dùng.

- Không ! Tôi hút Salem.

- Ồ khá nhỉ !

Hắn thoáng lộ nụ cười với nét mặt nham hiểm và ra lệnh :

- Đưa vào khu 1, không cho tiếp xúc với Bộ đội.

Chúng dẫn anh vào phồng số 1 trong khu đầu tiên.Trong nhà không có giường chiếu, không bàn ghế, chỉ có bóng tối tràn ngập…Anh bị giam tại đây đúng 5 ngày. Chỉ được ra ngoài giờ ăn và lo vệ sinh cá nhân, có người đi theo giám sát. Đỏ đă nghĩ đến cách trốn thoát, nhưng v́ bị kiểm soát chặt chẽ và anh cũng chưa định ra vị trí nơi ḿnh bị giam nên chưa thể quyết định được. Qua ngày thứ 6, chúng tiếp tục áp giải anh đi về hướng đông. Anh bỡ ngỡ không hiểu chúng đưa ḿnh đi đâu…

Vào cuối tháng, cả trung đội tới trạm giao liên nằm dưới chân ngọn đồi và xa xa phía bên kia là một con sông chảy ngang qua. Trong khi dừng đợi anh đă nhận ra vị trí nơi đây. Cách một tháng trước anh đă bay qua vùng này khi Toán Thám Kích của anh ngồi trên trực thăng t́m vị trí đổ quân. Đó là ḍng sông chia đôi vùng ranh giới giữa Quốc Gia và Cộng Quân, thuộc quận Đức Dục, cách thị xă An Ḥa chưa đầy 20 cây số. Trong những cuộc hành quân trước đây những toán Delta và Thám Kích đă quen thuộc địa thế vùng này.

Một tia hy vọng loé trong đầu, anh phải t́m cách trốn thoát. Cần chờ thời gian thuận tiện và lúc địch sơ hở.

Đây là trạm tiếp liên, chúng chờ tiếp tế hơn 10 ngày. Vào một buổi sáng, chúng bắt anh đi vác gạo từ bờ sông về. Chắc gạo được chuyển từ vùng Quốc Gia vào đây. Được tiếp tế rồi chúng vẫn đóng lạí chờ lệnh.

Thoát vùng tử địa.

Trong những đêm nằm tại đây, Đinh Đó để ư thấy bốn tên áp giải càng ngày càng tỏ ra không lưu tâm đến anh như trước. Nhiều lúc trông coi anh qua loa và đêm đến lại nằm cách xa. Hai tuần trôi qua. Vào một đêm tối trời, sau khi một tên trói anh lại và t́m một góc tối nằm ngủ. Anh giả vờ nhắm mắt, rồi một lát sau ngáy gỗ. Về khuya, bốn bề im lặng chỉ c̣n nghe tiếng côn trùng và tiếng người thở đều đều. Anh mở rộng đôi mắt nh́n vào màn đêm, những bóng đen bất động. Bọn chúng đă ngủ say như chết. Đỏ khẽ cựa ḿnh trút bỏ sợi giây buộc tay lỏng lẻo. Anh t́m một cục đá ném về tên áp giải nằm gần, không có phản ứng ǵ. Anh từ từ ḅ về phía trước rất nhẹ và nín thở. Thoát chốc anh đă lẩn vào bóng đêm tiến về phía sông. Con sông không rộng lắm nên chỉ một lúc sau anh đă sang tới bờ bên kia. Thế là yên tâm, v́ bên này vào vùng kiểm soát của Quốc Gia. Xa xa có ánh lửa, anh lầm lũi về phía đó. Một ngôi nhà nhỏ có tiếng từ trong vọng ra. Có cả tiếng radio. Anh cố gắng lắng nghe những bài ca và giọng nói quen thuộc Đài Quốc Gia. Anh vững tâm gơ cửa. Tiếng bên trong hỏi vọng ra :

- Ai ngoài đó ?

- Thưa tôi.

- Tôi là ai ?

- Tôi đi lạc đường.

Tiếng dép lẹp xẹp, một người đàn ông chừng ngoài 40 ra mở cửa :

- Mời vào trong.

Ông đưa mắt nh́n bỡ ngỡ v́ thấy người anh c̣n ướt và mặc độc nhất chiếc quần đùi. Anh vội lên tiếng :

- Thưa ông đây là đâu ?

- Vùng Quốc Gia kiểm soát.

- Có Quân đội…

- Không có lính bên kia, chỉ có Quân đội VNCH đóng thôi. Vậy anh là…?

- Thưa ông tôi là lính Cộng Ḥa bị bắt, trốn thoát và đi lạc. Tôi đói ông có ǵ cho ăn…

- Được anh ngồi đợi đó.

Rồi ông xuống bếp lấy cơm và đồ ăn mang lên. V́ đói nên anh ăn rất ngon lành không cần khách sáo.

Anh rất cảm động về thái độ ông đối với ḿnh :

- Chắc anh bị lính bên mặt trận bắt và t́m cách trốn ?

- Dạ vâng.

- Thế giờ anh định về đâu ?

- Tôi sẽ nhờ Chính quyền địa phương giúp trở về đơn vị ở Đức Dục, gần khu Kỹ Nghệ Nông Sơn.

- Thôi để trời sáng, tôi sẽ đưa anh lên tŕnh diện Hội đồng xă, quận Đức Dục gần đây.

- Cám ơn ông nhiều.

Sáng sớm người đàn ông dẫn anh lên tŕnh diện Hội đồng xă. May mắn dọc đường anh gặp một chiếc xe nhà binh, anh nhận ra ngay chiếc xe Toán Delta thường lên Quận. Xe dừng lại đưa anh về căn cứ hành quân Đức Dục.

Cấp chỉ huy và đồng đội rất ngỡ ngàng khi thấy anh trở về. Họ tưởng anh mất tích hay đă chết rồi. Đồng đội hân hoan bao quanh hỏi thăm sức khoẻ và tin tức. Anh cảm động biết bao khi gặp lại mọi người trong t́nh huynh đệ nồng nàn đầm ấm.

Người Chiến sĩ Thám Kích Tiền Phong ghi công đầu.

Ngay trưa hôm ấy, Đinh Đó ngồi trên trực thăng cùng Thiếu tá Chỉ huy trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta đi thám sát khu vực địch đóng quân anh đă ghi nhận đêm trước. Căn cứ địch đóng phía bên kia sông cách làng An Ḥa chưa đầy 10 cây số, nằm dưới chân một ngọn đồi. Anh đă nhận ra vị trí. Chiếc HU 1B bay lượn ṿng phía trên, rồi lao xuống thấp dần. Dấu vết Cộng quân được xác nhận. Một loạt AK phía dưới vọt lên, hai khẩu đại liên từ trên phi cơ đáp trả gịn vang.

Vài tiếng sau chiều hôm ấy 18/5/69, pháo binh ta đă nă vào vùng địch hàng trăm trái đạn. Tiếp theo là những phi vụ B52 oanh kích rung chuyển núi đồi… Chắn chắn những phi vụ oanh kích và trọng pháo đă gây cho địch tổn thất nặng nề. Đó cũng là nhờ công lao của :

- Toán Phó Đinh Đó.

- Người Chiến sĩ gan dạ Thám Kích Tiền Phong, đă hai lần lọt vào tay Cộng quân (lần trước bị bắt giam 7 ngày trong cuộc hành quân Delta năm 1967, anh cũng trốn thoát)

- Một lần bị thương trong cuộc hành quân Tết Mậu Thân tại Nha Trang.

- Chính tay anh trong đời binh nghiệp đă hạ 30 tên Việt Cộng,

Nhưng anh đă san sẻ vinh dự cho đồng đội và chỉ nhận một số huy chương thật khiêm tốn gồm một Ngôi Sao Bạc - một Chiến Thương Bội Tinh, cùng một số tiền thưởng do Thiếu Tá Phan Văn Huân chỉ huy trưởng/Trung Tâm Hành Quân/Delta trao tặng trong dịp trốn thoát vừa qua.

Tôi nh́n huy hiệu anh mang trước ngực : Chiếc dù mở rộng phía trên đôi cánh chim đại bàng bạt gió, chiếc sọ người dấu tử thần cùng lưỡi lửa biểu hiệu ḷng nhiệt thành quả cảm, ba tia sét tượng trưng 3 lối xâm nhập : Không - Thủy - Bộ và hàng chữ dưới cùng Thám Kích Tiên Phong.

Anh nở một nụ cười tươi trong dáng điệu c̣n mỏi mệt v́ đang thời gian nghỉ bồi dưỡng sức khỏe.

Tôi ghi nhớ câu anh nói khi chia tay tạm biệt :

- Nghỉ ngơi sau ít ngày phép, tôi sẽ trở về cùng đồng đội tiếp tục cuộc sống như cũ.

Nghĩa là anh lại đi toán vô rừng, tiếp tục gian khổ và có thể lại bị bắt, thất lạc, mất tích hay ra đi vĩnh viễn… nhưng anh chấp nhận tất cả, v́ cuộc sống của những Chiến sĩ Delta hay Thám Kích Tiền Phong Lực Lượng Đặc Biệt luôn là thế. Huy hiệu Anh và các bạn mang trên ngực áo đă nói lên ḷng quả cảm và sự hy sinh của tuổi trẻ dâng hiến cho Quê Hương Tổ Quốc.

Phóng Viên Chiến Trường Đinh Quân
Dinh Văn Tiến Hùng

(*) Ghi chú thêm của tác giả Đinh Văn Tiến Hùng, bút hiệu Đinh Quân.

- Và tại nơi đây hơn 1 năm sau, trên ngọn đồi Abia đă xảy ra trận chiến ác liệt giữa Quân đội Hoa Kỳ và Cộng Sản Bắc Việt kéo dài từ 1/7 đến 23/7/70, mà người Mỹ đă gọi là Ngọn đồi Thịt Băm (Hamburger Hill )

- Năm 1987, đạo diễn John Irvin đă dựng thành phim mang cùng tên.

- Rồi mới đây, trong dịp kỷ niệm 40 năm Quốc Hận, cuốn phim Ride The Thunder đă được công chiếu rộng răi và nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt. Phim dựa theo tác phẩm của Richard Botkin, do đạo diễn Fred Koster thực hiện, nói lên tinh thần chiến đấu can trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.


Đinh Văn Tiến Hùng

hoanglan22 11-28-2018 14:23

Cuộc rút quân tại Vùng IV Duyên Hải
 
Đặc-Khu Phú-Quốc, ngoài lực lượng Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải, c̣n có hai Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân và một Đại-Đội Trinh-Sát.

Lực lượng Việt-Cộng trên một Tiểu-Đoàn, Bộ-Chỉ-Huy đặt tại Bắc Đảo. Khoảng hai Trung-Đội Việt-Cộng hoạt động phía Nam Dương-Đông. Áp lực địch nặng nhất là vùng Bắc Đảo, Cửa Cạn. Việt-Cộng thường pháo kích vào phi trường Dương-Đông và cố ư cô lập đồn Cửa Cạn.

Lực lượng hai bên không chênh lệch. Nhưng áp lực địch rất nặng, v́ Lực-Lượng Địa-Phương-Quân của VNCH. chỉ ở thế thủ hoặc đi kích, hành quân lẻ tẻ, thiếu những cuộc hành quân quy mô.

Từ ngày nhậm chức Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải kiêm Đặc-Khu-Trưởng Đặc-Khu Phú-Quốc, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện giải tán các đồn, cho quân hành quân lục soát phía ngoài, mở rộng ṿng đai pḥng thủ. Đại-Tá Thiện xử dụng những đơn vị Địa-Phương-Quân để hành quân trên bộ, giữ an ninh phi trường và làng xă.

Khi cuộc rút quân từ miền Trung bắt đầu, Thiếu-Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư-Lệnh Quân-Đoàn IV, chỉ định Đại-Tá Thiện đặc trách lo về vấn đề đồng bào tị nạn.

Về quân sự, Đại-Tá Thiện trực tiếp chỉ huy và báo cáo về Bộ-Tư-Lệnh Quân-Đoàn. Về hành chánh, Quốc-Vụ-Khanh Phan Quang Đán bổ nhiệm một nhân viên hành chánh cao cấp ra Phú-Quốc, giúp Đại-Tá Thiện điều hành. Đại-Tá Thiện phúc tŕnh t́nh trạng dân, quân tị nạn và nhận lệnh từ Bác sĩ Phan Quang Đán và Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, phụ tá Quốc-Vụ-Khanh đặc trách đón tiếp đồng bào di cư.

Phía Nam đảo Phú-Quốc, vùng Đất Đỏ, VNCH. đă xây một trại tù để giam giữ tù chính trị. Sau hiệp định Ba-Lê, số tù Cộng-Sản được chuyển đi, trại tù bỏ trống. Đại-Tá Thiện xử dụng những dăy nhà này với hệ thống nước ngọt từ một giếng sâu, do hăng thầu RMK (Raymond - Morrisson - Knudsen) của Mỹ đào từ lâu, với dụng cụ Y-tế và giường ngủ sẵn có, để tiếp người tị nạn.

Vấn đề tiếp tế để lo cho khối người tị nạn một phần do Hải-Quân đài thọ; phần lớn do chính phủ trung ương và cơ quan USAID Hoa-Kỳ đảm nhận.

Mỗi ngày có khoảng ba mươi chuyến bay của Air America, C123 hoặc C130 đáp xuống phi trường Dương-Đông với đầy đủ dụng cụ và thực phẩm.

Với khoảng 60.000 người tị nạn trên một diện tích nhỏ hẹp, an ninh là vấn đề phức tạp và thiết yếu. Tuy vậy, t́nh trạng các trại rất tốt đẹp nhờ hệ thống kiểm soát chặt chẽ và nhiều biện pháp mạnh được áp dụng. Để giải tỏa bớt t́nh trạng ứ đọng, Đại-Tá Thiện cấp giấy phép rời Phú-Quốc cho bất cứ ai có thân nhân trong đất liền.

Hải-Quân biệt phái một số Sĩ quan do Hải-Quân Đại-Tá Trần Văn T., Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Saigon, điều động ra Phú-Quốc giúp điều hành và giải quyết những khó khăn tại các trại tỵ nạn.

Trong những Chiến hạm chuyển quân và dân ra Phú-Quốc, có một chuyện rất thương tâm xảy ra trên HQ 500.

Từ Qui-Nhơn HQ 500 đón quân và dân về Cam-Ranh. Tại Cam-Ranh HQ 500 được lệnh nhận thêm lính và dân rồi đưa ra Phú-Quốc.

Trong số dân và quân HQ 500 đưa ra Phú-Quốc có Thiếu-Úy Lê Quang Lệ Lan, trưởng nữ của Cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Lê Quang Mỹ và một em bé được sinh ra trên Chiến hạm.

Em bé này được Thiếu-Úy Lệ Lan đón vào đời và được Hạm-Trưởng LST Cam-Ranh, Hải-Quân Trung-Tá Lê Quang Lập, đặt tên là Nguyễn-Thị-Cam-Ranh.

Vào đến Phú-Quốc, HQ 500 cặp cầu dầu. Từ cầu này muốn vào bờ phải dùng xuồng hay tàu nhỏ.

Thời gian này, đồng bào trên Chiến hạm quá đông và thiếu thốn mọi thứ. Thiếu-Úy Lệ Lan t́nh nguyện vào gặp Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải xin tiếp tế.

Suốt thời gian nhận và chuyển thực phẩm, vật dụng, thuốc men từ Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải ra Chiến hạm, Thiếu-Úy Lệ Lan đă tận tụy với đồng bào, nhiều khi quên ăn, quên uống.

Lần cuối cùng, sau khi chất đầy thực phẩm, hai mươi mốt nhân viên Chiến hạm và Thiếu-Úy Lệ Lan từ bờ trở lại HQ 500 bằng LCVP. Khi kéo LCVP lên, giây đứt, hai mươi mốt nhân viên bị hất xuống biển; riêng Thiếu-Úy Lệ Lan bị kẹt, chết giữa những thùng thực phẩm !

Sau đó HQ 500 về Saigon sửa chữa. Công tác sửa chữa chưa hoàn tất, HQ 500 lại được lệnh đưa khoảng vài trăm tội phạm ra Côn-Sơn.

Trên những chuyến xà-lan từ miền Trung vào Phú-Quốc, nhiều tên bất lương lấy Quân phục của vài Binh chủng thiện chiến VNCH. mặc vào rồi cướp của, giết người, xô người xuống biển, v.v...Khi những chuyến xa-lan này đến Phú-Quốc, đơn vị an ninh ở các trại tị nạn được báo cáo.

Sau khi điều tra cặn kẽ, nếu hội đủ bằng chứng, tội phạm được giải giao cho Quân-Cảnh Tư-Pháp điều tra thêm. Tin này loan ra nhanh. Một số lớn đồng bọn đi những chuyến xà-lan sau đón ghe đánh cá vào Rạch-Giá khi xà-lan c̣n neo ngoài khơi Phú-Quốc.

Trong số những tên thảo khấu bị bắt, có mấy tên được đồng bào nhận diện. Một Đức Cha, khi thuật lại những hành động dă man của hai tên bất lương đối với gia đ́nh của một Đại-Tá Bộ-Binh đă không nén được phẫn nộ, hỏi Đại-Tá Thiện : “Theo sấm truyền cũ, những hành động như vậy giữa con người đối với con người, phải bị tội lăng tŕ. Đại-Tá biết không ?” Là một con chiên ngoan đạo, Đại-Tá Thiện lặng thinh, suy nghĩ.

Trong thời gian đa số đồng bào bất b́nh về thái độ tŕ hoản xử tội mấy tên cướp th́, ngày 19 tháng 4, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện nhận được công điện từ Bộ-Tổng-Tham-Mưu: Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H., bổ nhiệm Đai-Tá Thiện vào chức vụ Tổng-Trấn Phú-Quốc.

Với quyền hạn của một Tổng-Trấn trong thời chiến, Đại-Tá Thiện có quyền kêu án tử h́nh tội phạm, không cần chờ lệnh ṭa án. Nhưng Đại-Tá Thiện lại liên lạc Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân xin ư kiến. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân không hạn chế quyền hạn của Đại-Tá Thiện.

V́ áp lực của đồng bào và của Đức Cha, Đại-Tá Thiện cử ủy ban điều tra lại vụ hai tên côn đồ và mấy tên thảo khấu trên những chuyến xà-lan khác nhau. Sau khi ủy ban an ninh phúc tŕnh bản điều tra cuối cùng, Đai-Tá Thiện ra lệnh Địa-Phương-Quân thành lập một bán tiểu đội hành quyết, xử tử những tội phạm đó.

Thời gian này, t́nh h́nh Quân sự trong Vùng tương đối yên tĩnh. Chỉ có đồn Cửa Cạn bị Việt-Cộng vây khốn suốt mấy hôm, với mục đích khuấy phá chứ không dám chiếm; v́ sợ hải pháo và phi cơ oanh tạc.

Trọng trách giải tỏa đồn Cửa Cạn được giao cho Đặc-Khu-Phó (Quận-Trưởng quận An-Thới). Đại-Tá Thiện tăng phái HQ 230 bắn hải pháo yểm trợ, đồng thời biệt phái PCF chạy gần bờ để kiểm soát và yểm trợ bằng đại liên, trung liên và súng cối 81 ly. Nhiều LCM của Căn Cứ Yểm-Trợ An-Thới cũng được tăng cường để, nếu cần, sẽ đổ bộ Địa-Phương-Quân lên.

Không hiểu v́ lư do ǵ, Đặc-Khu-Phó không thực hiện được công tác đă được hoạch định và giao phó. Đại-Tá Thiện thay đổi kế hoạch bằng cách không xử dụng chiến đỉnh mà trưng dụng mười ghe đánh cá loại lớn, tập trung ngoài khơi. Khi được lệnh của Đại-Tá Thiện, quân sẽ được chuyển xuống mười ghe đó, đưa lên các ghềnh đá phía Bắc Đảo, cách đồn Cửa Cạn khoảng hai, ba cây số, đánh thốc xuống.

Nhờ yếu tố bất ngờ, chỉ không tới một Đại-Đội Địa-Phương-Quân, với sự yểm trợ hữu hiệu của hải pháo, đă đẩy lui trên một Tiểu-Đoàn địch về những hang hóc phía Đông Bắc. Địch để lại trên một trăm xác và thương binh.

Ngoài chiến thắng tại đồn Cửa Cạn, tưởng cũng nên đề cập đến cuộc đụng độ giữa Duyên-Đoàn 44 và Khmer Đỏ, trên ḥn đảo phía Bắc, trong quần đảo Poulo Dama.

Vào khoảng cuối tháng Tư, Duyên-Đoàn 44 được lệnh chiếm hai đảo Kiến-Vàng và Keo-Ngựa, trong hải phận Việt-Nam. Chỉ-Huy-Trưởng Duyên-Đoàn 44 chỉ huy một đơn vị Hải-Kích thi hành công tác này. Toán quân được chia làm hai cánh.

Cánh A thực hiện kế hoạch và chiếm đảo Keo-Ngựa một cách dễ dàng.

Cánh B đổ bộ nhầm một đảo khác, không thuộc hải phận Việt-Nam. Cánh quân B này “đụng” với lực lượng Khmer Đỏ trấn thủ đảo. Trong cuộc chạm súng, Hải-Quân Thiếu-Úy T. bị kẹt trên đảo.

Nghe báo cáo, cánh A, một mặt xin chiến hạm yểm trợ, một mặt kéo toàn lực lượng đến đảo Kiến-Vàng, t́m cách cứu vị Sĩ quan.

Lực Lượng Hải-Kích đến đảo Kiến-Vàng khoảng 5 giờ sáng. Nhưng Khmer Đỏ dùng trọng pháo 150 ly pháo kích nặng nề xuống băi, khiến quân V.N.C.H. đến sáng vẫn không đổ bộ được.

HQ 330 đang tuần tiễu quanh vùng, được chỉ thị đến đảo Kiến-Vàng trợ chiến; nhưng HQ 330 không được phản pháo, v́ hải phận đó không thuộc chủ quyền của VNCH.

Trưa, Khmer đỏ ngưng pháo kích. Thiếu-Úy T. từ bờ bơi ra Chiến hạm.

Tối 27 tháng 4, Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện gọi tất cả chiến hạm biệt phái cho Vùng IV Duyên-Hải về An-Thới.

Sáng 28 tháng 4, chiến hạm USS Dubuque thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ đột ngột xuất hiện và neo gần An-Thới. Ít ai biết được rằng chính Erich Von Marbod có mặt trên USS Dubuque. Erich Von Marbod xử dụng USS Dubuque như một trạm viễn liên để hướng dẫn Không-Quân VNCH. bay sang Thái-Lan !

Đêm 28 tháng 4, Căn-Cứ Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải hỗn loạn v́ tin Đại-Tá Thiện lấy PCF ra chiến hạm Mỹ. Tất cả chiến hạm VNCH. rời bến sau khi thông báo cho pḥng hành quân.

Sáng 29 tháng 4, Đại-Tá Thiện cho tất cả Chiến hạm biết rằng Ông đă đi tuần trong đêm qua.

10 giờ sáng cùng ngày, Đại-Tá Thiện liên lạc với Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy, Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân, để hỏi t́nh h́nh chiến sự. Phó-Đề-Đốc Thủy bảo Đại-Tá Thiện túc trực trên máy vô tuyến, có biến chuyển nào Ông sẽ cho hay.

11 giờ sáng, Đại-Tá Thiện mất liên lạc với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon !

Ngày 30 tháng 4, lúc 10 giờ sáng, sau khi nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thổng Dương Văn Minh, Đại-Tá Thiện họp tất cả Sĩ quan và Hạm-Trưởng tại pḥng ăn Sĩ quan và cho biết ư định của Ông là sẽ ra đi. Điểm hẹn là Poulo-Panjang.

Sau cuộc họp ngắn ngủi đó, tất cả chiến hạm tách bến; chiến đỉnh cũng vội vàng ra đi. Đại-Tá Thiện và gia đ́nh không c̣n phương tiện nào để rời Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải. Đại-Tá Thiện liên lạc vô tuyến với người bạn cùng khóa, Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Tiếp-Vận An-Thới, nhờ giúp đỡ.

Chiếc LCM8 đưa gia đ́nh Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Tiếp-Vận An-Thới ghé đón Đại-Tá Thiện và gia đ́nh Ông tại cầu tàu, trước Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải.

Sau đó, v́ đă hứa đi chung với các đơn vị Hải-Quân tại Phú-Quốc, Đại-Tá Thiện sang một ghe Yabuta để đến chiến hạm. Lúc này đoàn tàu gồm :

- HQ 230 - Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Nguyên.

- HQ 330 - Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Anh.

- HQ 331 - Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Tấn Triệu.

- HQ 602 - Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô Minh Dương.

Đại-Tá Thiện lên HQ 230. Tại đây, v́ chưa biết Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon đă di tản, Đại-Tá Thiện dùng hệ thống siêu tần số để liên lạc với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon, nhưng không gặp được ai cả !

Một số nhân viên trên HQ 230 nổi loạn, muốn đem Chiến hạm về. Vừa khi đó, HQ 230 đến Poulo-Panjang. Tại đảo này có khoảng hai mươi PCF của Hải-Đội 4 Duyên-Pḥng. Những người muốn về, dùng PCF trở về; ai muốn đi, ở lại Chiến hạm.

Trên đường rời hải phận Việt-Nam, v́ t́nh trạng kỹ thuật của HQ 331, đoàn tàu phải ghé Singapore. Hải-Quân Singapore, thay v́ giúp sửa chữa HQ 331, lại đ̣i lấy HQ 331 !

Đoàn tàu rời Singapore với thêm nhiều người di tản mới nhập hạm từ Singapore. HQ 330 phải ḍng HQ 331.

Trong thời gian hải hành, Thiếu-Úy Xử-Lư Thường-Vụ Hạm-Phó HQ 602 cùng một nhóm người nhập hạm từ Singapore, nổi loạn, giết chết Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô Minh Dương, rồi đem Chiến hạm trở về !

Đại-Tá Thiện có ư định - và tất cả Hạm-Trưởng cũng đồng ư - là sẽ đưa những chiến hạm này sang Úc-Đại-Lợi. Nhưng, khoảng nửa đường, nghe đài BBC và đài VOA loan báo rằng Úc-Đại-Lợi công nhận chính phủ Cộng-Sản Việt-Nam, tất cả đổi ư, đi Phi-Luật-Tân.

Trên đường hướng về Phi-Luật-Tân, một Chiến hạm Nga bám sát ba chiến hạm HQ 230, HQ 330 và HQ 331. Khi phi cơ Hoa-Kỳ xuất hiện quanh ba Chiến hạm này th́ Chiến hạm Nga đổi hướng và mất dạng.

Trong chuyến di tản này, lực lượng Hải-Quân Phú-Quốc đem theo khoảng từ 50% đến 55% gia đ́nh Hải-Quân, từ 10% đến 15% gia đ́nh Địa-Phương-Quân và số c̣n lại là đồng bào.



Điệp Mỹ Linh

hoanglan22 11-29-2018 04:45

Chuyến Ra Khơi Bi Hùng
 
Vào giữa tháng 4, ông Erich Von Marbod, phụ tá Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng (Assistant Secretary of Defense) Hoa-Kỳ cùng phụ tá của Ông là ông Richard Lee Armitage, đến Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân bàn về vấn đề di tản Hải-Quân Việt-Nam. Ông Marbod và ông Armitage yêu cầu Hải-Quân soạn thảo một lệnh hành quân di tản, nhằm mục đích di tản tối đa Lực-Lượng Hải-Quân, gồm tất cả Chiến hạm, Chiến đỉnh, binh sĩ và gia đ́nh.

Hải-Quân được yêu cầu đặt ḿn phá những ụ nổi và cơ sở truyền tin của Hải-Quân. Hải-Quân từ chối, v́:

Nếu phải di tản, Hải-Quân sẽ ra đi sau cùng; v́ vậy, cơ sở Truyền tin rất cần thiết cho Hải-Quân.

Phá các ụ nổi sẽ gây nhiều tiếng nổ lớn và nhiều đám cháy, khiến đồng bào càng kinh hoàng thêm, t́nh trạng càng rối ren thêm.

Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm, Tham-Mưu-Phó hành quân, yêu cầu Hoa-Kỳ giúp đỡ thiết thực và nhanh chóng để binh sĩ, gia đ́nh và Chiến cụ Hải-Quân không lọt vào tay Cộng-Sản. Ông Marbod và ông Armitage hứa sẽ lo tất cả nếu lực lượng Hải-Quân ra khỏi bờ 12 hải lư. Điểm tập trung là Côn-Sơn.

Một vấn đề đáng lưu ư là, cho đến giờ phút đó, Hải-Quân Việt-Nam, ông Marbod cũng như ông Armitage vẫn chưa nghĩ đến, hoặc đề cập đến, một giải pháp nào cho Hải-Quân sau khi Hải-Quân rời hải phận Việt-Nam.

Trong thời gian hai vị dân chính cao cấp của Hoa-Kỳ đang bàn tính kế hoạch di chuyển số lượng khổng lồ quân dụng ra khỏi Nam Việt-Nam th́, tại Xuân-Lộc, nhiều đại đơn vị Bắc quân do tướng Việt-Cộng Văn-Tiến-Dũng điều động từ Phan-Rang vào, gặp ngay sự chống cự mănh liệt của Sư-Đoàn 18 Bộ-Binh VNCH, dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê-Minh-Đảo.

Thấy khó phá vỡ pḥng tuyến Xuân-Lộc, Tướng Văn Tiến Dũng liên lạc Trung ương Đảng, xin triển hạn ngày kéo quân vào Thủ-Đô Nam Việt-Nam. Nhưng Bộ-Chính-Trị đảng Cộng-Sản lập lại quyết định: Phải tiến chiếm Saigon trước tháng 5 để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, 19 tháng 5!

Ngày 17 tháng 4, trong buổi họp Sĩ quan các cấp tại Câu-lạc-bộ-nổi, Khối Hành-Quân nhấn mạnh rằng kế hoạch di tản được thi hành tốt đẹp. Tuy nhiên, tất cả phải ở lại nhiệm sở cho đến phút chót; nếu phải ra đi th́ cùng đi.

Ngày 21 tháng 4, tuyến Xuân-Lộc vỡ! Thủ đô Saigon rúng động! Tiếp theo là sự từ chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay. Những biến chuyển đó khiến Hải-Quân phải có những quyết định cấp kỳ.

Ngày 25 tháng 4, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn cùng đi với một sĩ quan thân tín, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Tiến Hùng, đến cơ quan MAV (Navy Section) - trong khi Mỹ đang thiêu hủy tài liệu - để nhận mật mă liên lạc với Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.

Thời gian này, vài Hạm-Trưởng đưa gia đ́nh lên Chiến hạm khi chưa có lệnh khiến Thủy thủ đoàn bất măn. Bộ-Tư-Lệnh cho điều tra. Kết quả, hai Hạm-Trưởng bị cách chức. Một trong hai vị đó là Hạm-Trưởng HQ 800.

Cùng ngày, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô, chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh tiếp nhận các kho xăng tại Nhà-Bè; v́ tất cả giám đốc đă bỏ đi.

Lúc này, Liên-Đoàn 33 tại Nhà-Bè, do Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh chỉ huy, gồm các đơn vị:

- Giang-Đoàn 28 Xung-Phong.
- Giang-Đoàn 30 Xung-Phong.
- Giang-Đoàn 51 Tuần-Thám.
- Giang-Đoàn 91 Trục-Lôi.

Nhiệm vụ và vùng hoạt động của Liên-Đoàn 33 là tuần tiễu, giữ an ninh các thủy lộ quan trọng như sông Ḷng Tàu, sông Soài Rạp và quanh Saigon. Ở phần vụ này, suốt thời gian di tản, những đơn vị kể trên đă tịch thu vũ khí và rượu mạnh trên các thương thuyền từ miền Trung vào.

Ngày 26 tháng 4, Hải-Quân Trung-Tá Dương Hồng Vơ được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 800. Lúc này Hạm-Phó HQ 800 cũng vắng mặt bất hợp pháp. Trung-Tá Vơ chỉ định một Đại-Úy tạm thời thay thế Hạm-Phó.

HQ 800 là loại LST lớn hơn và mới hơn các loại LST 500. HQ 800 được trang bị ba giàn “bô-pho” 40 ly đôi bắn tự động và nhiều súng pḥng không, chưa kể một số 20 ly. HQ 800 dự trữ 200 ngàn lít xăng máy bay (JP4) và có chỗ đáp an toàn cho hai trực thăng.

Với dự định sẽ đưa bộ chỉ huy xuống HQ 800 để chỉ huy và điều động phản công lại Việt-Cộng, nếu trường hợp Saigon bị tấn công, Tư-Lệnh Hải-Quân ra lệnh bổ sung nhân viên và trang bị HQ 800 một trăm phần trăm. HQ 800 neo tại Nhà-Bè và chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Tư-Lệnh Hải-Quân và Tổng-Tham-Mưu-Trưởng chứ không trực thuộc Hạm-Đội.

Lúc này HQ 403 - sau nhiều chuyến chuyển quân và dân từ Phan-Thiết về Vũng-Tàu - được lệnh trở về Saigon.

Sáng 27 tháng 4, trong khi Việt-Cộng tấn công cầu Tân-Cảng, đốt kho hàng PX của Mỹ và đặt súng máy bắn bừa vào ḍng người tỵ nạn đang kéo về Saigon th́, tại phi trường Biên-Ḥa, ông Richard Armitage đang vận dụng tất cả mọi phương tiện để di chuyển chiến cụ và nhân viên Việt-Nam ra khỏi tầm đạn của Việt-Cộng.

Trưa cùng ngày, ông Armitage từ Biên-Ḥa về Saigon bằng trực thăng. Sau đó ông Armitage cùng ông Erich Von Marbod đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân. Hai Ông hối thúc Hải-Quân ra đi. Ông Armitage c̣n lo ngại rằng có thể chính phủ Dương Văn Minh sẽ giữ những Sĩ quan cao cấp Hải-Quân để buộc Hải-Quân phải ở lại.

Chiều 27 tháng 4, tại tư dinh của Đại Tướng Minh, số 3 Trần-Quư-Cáp Saigon, trong phiên hội của Nội Các đang được thành lập, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Tư-Lệnh Hải-Quân, tiếp xúc riêng với Tướng Minh để bàn luận về t́nh h́nh quân sự. Tướng Minh cho Phó-Đô-Đốc Cang biết t́nh h́nh vẫn chưa biến chuyển ǵ cả, v́ “bên kia” chưa chấp nhận tiếp xúc với VNCH Phó-Đô-Đốc Cang đề nghị Tướng Minh nên chuyển Nội Các về Cần-Thơ, bỏ ngơ Saigon và ra lệnh tất cả đại đơn vị rút về Vùng IV Chiến-Thuật; v́ hiện tại Tướng Minh không có tư thế nào để thương thuyết. Lực-Lượng Hải-Quân c̣n nguyên vẹn, Phó-Đô-Đốc Cang sẽ tận dụng tất cả Lực-Lượng Hải-Quân để chận sông Tiền-Giang và Hậu-Giang. Tướng Minh im lặng, không có một quyết định nào cả.

Ngày 28 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng cùng ông Richard Armitage bay thám sát t́nh h́nh phía Bắc Saigon.

T́nh h́nh lúc này bi đát vô cùng, v́ nhiều đơn vị đă ră ngũ, theo đoàn dân di tản, tràn về Saigon bằng đường bộ. Đến cầu B́nh-Lợi, thấy một Giang-Đoàn vẫn c̣n tuần tiễu trong vùng trách nhiệm, Phó-Đề-Đốc Hùng ra lệnh cho Giang-Đoàn đó rút về hậu cứ.

Căn-Cứ Hải-Quân Long-B́nh đang chuẩn bị “đón nhận” một cuộc tấn công quy mô của Bắc Quân. Dấu tích cuộc đột kích sáng nay của địch vào Căn-Cứ là xác của tên cảm tử Việt-Cộng c̣n nằm tênh hênh ngay cổng ra vào.

Sau khi thị sát, Phó-Đề-Đốc Hùng cùng ông Armitage trở về Saigon bằng xe Jeep. Và ông Armitage tường tŕnh những sự việc đă thấy cho ông Van Marbod.

Cũng thời điểm này, tại Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn triệu tập một phiên họp gồm hầu hết Hạm-Trưởng để thông báo hạn chế về việc Hải-Quân sẽ tạm trú tại Côn-Sơn, chờ một biến chuyển thuận lợi sẽ quay vào chiến đấu. Đại-Tá Sơn chỉ thị tất cả Hạm-Trưởng mang theo đầy đủ gạo và lương khô, càng nhiều trứng vịt và cá khô càng tốt.

Không ngờ, cũng ngày hôm đó, Đại-Tá Sơn bị thuyên chuyển khỏi chức vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Người bạn cùng khóa với Ông, Hải-Quân Đại-Tá Phạm Mạnh Khuê, đang là Tham-Mưu-Trưởng Hành-Quân Lưu-Động-Biển, nhận chức Tư-Lệnh Hạm-Đội.

Sự thuyên chuyển Đại-Tá Sơn là do sự hiểu lầm và sự thiếu liên lạc mật thiết giữa Đại-Tá Sơn và Phó-Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân về vấn đề di tản Hạm-Đội tránh pháo kích.

Chiều 28 tháng 4 năm 1975, lúc 5 giờ 15, Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh khi ngoài trời cơn mưa giông đột ngột trút xuống!

6 giờ chiều cùng ngày, Hải-Quân Công-Xưởng hoàn tất mấy ṿng rào sắt cho hệ thống pḥng thủ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và Hải-Quân Công-Xưởng.

6 giờ 20, phi công Việt-Cộng - do Trung-Úy phi công VNCH Nguyễn Thành Trung huấn luyện cấp tốc và hướng dẫn - lấy 5 chiếc phản lực Dragonfly A37 của Không-Quân VNCH bỏ lại Phan-Rang, bay vào, thả bom phi trường Tân-Sơn-Nhất!

Sau khi dội bom, 5 phản lực cơ bay ngang HQ 800. Hạm-Trưởng HQ 800 biết 5 phản lực đó vừa tấn công phi trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng Hạm-Trưởng HQ 800 tưởng là một biến cố chính trị nào đó đang diễn ra, cho nên Hạm-Trưởng HQ 800 chỉ ra lệnh nhiệm sở tác chiến chứ không ra lệnh bắn. Nhờ vậy 5 phi cơ đó mới bay thoát.

Tối 28 tháng 4, Phó-Tổng-Thống Nguyễn Văn Huyền, trong Chính phủ Dương Văn Minh, đến thăm Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, rồi cả hai Ông đến thăm Tổng Thống Dương Văn Minh.

Trong lần tiếp xúc này, Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh về những biện pháp thích nghi cho t́nh h́nh hiện tại. Tổng Thống Minh cho biết không có giải pháp nào cả. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi thẳng: “Thưa Tổng Thống, nếu vậy, mỗi Quân Binh chủng phải tự quyết định lấy, phải không?” Tổng Thống Minh chán nản: “Ôi! Toa làm sao đó toa làm!”

V́ lẽ đó, Bộ-Tham-Mưu Hải-Quân họp khẩn. Lúc này Phó-Đô-Đốc Cang có dự định đưa gia đ́nh Hải-Quân ra Phú-Quốc lánh nạn để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Nhưng t́nh h́nh biến chuyển quá nhanh khiến ư định của Ông không thực hiện được.

Hải-Quân ra đi là một quyết định tập thể, gồm Phó-Đô-Đốc Cang và Tư-Lệnh các đại đơn vị, để bảo toàn Lực-Lượng Hải-Quân. Nhưng Phó-Đô-Đốc Cang cũng biết rằng, nếu quyết định đó sai lầm th́ chính Ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử!

Sáng sớm 29 tháng 4, phi trường Tân-Sơn-Nhất bị pháo kích nặng nề. Không-Quân náo loạn. Hầu hết phi cơ A37 và F5 được cất cánh để tránh thiệt hại. Công cuộc di tản nhân viên của Ṭa Đại-Sứ Hoa-Kỳ không thể tiếp tục thực hiện bằng phi cơ vận tải mà phải dùng trực thăng.

Ngay khi phi trường bị pháo kích, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó-Tổng-Thống trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đáp trực thăng riêng quan sát. Tướng Kỳ gọi Sư-Đoàn IV Không-Quân tại Cần-Thơ, ra lệnh tăng viện gấp bốn chiến đấu cơ với bom hạng nặng.

Khi bốn chiến đấu cơ đến không phận Saigon, Tướng Kỳ hướng dẫn bốn phi cơ đó phá hủy những giàn hỏa tiễn Việt-Cộng gần đài Radar Phú-Lâm và phía Tân-Cảng.

Sau khi diệt xong các ổ trọng pháo của địch, Tướng Kỳ đáp trực thăng xuống Liên-Giang-Đoàn 33 tại Nhà-Bè lấy xăng. Lúc bấy giờ có cả trăm chiếc trực thăng đậu tại Nhà-Bè. Nhiều trực thăng và phi cơ đủ loại bay lượn trên không phận thủ đô. Tất cả liên lạc, xin chỉ thị của Tướng Kỳ. Tướng Kỳ bảo tất cả phi công bay ra Đệ Thất Hạm-Đội; nếu c̣n đủ nhiên liệu th́ bay sang Thái-Lan.

Trong khi những sự việc kể trên xảy ra trên không phận thủ đô th́ Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam, ông Graham Martin, nhận được công văn khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh.

Ngày 28 tháng 4 năm 1975.
Tổng Thống Việt-Nam Cộng-Ḥa
Kính gửi : Ông Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam

Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại-Sứ chỉ thị cho tất cả nhân viên cơ quan tùy viên quân sự Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong ṿng 24 tiếng đồng hồ kể từ ngày 29 tháng 4 năm 1975 để vấn đề ḥa b́nh cho Việt-Nam được giải quyết sớm hơn.

Trân trọng kính chào ông Đại-Sứ.
Dương Văn Minh

Đại-Sứ Graham Martin phúc đáp:

Kính thưa Tổng Thống,
Tôi vừa nhận được văn thư đề ngày 28 tháng 4 năm 1975 yêu cầu tôi ra lệnh cho nhân viên Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong ṿng 24 tiếng đồng hồ. Văn thư này gửi đến Ngài để xác nhận là yêu cầu của Ngài đang được thực hiện.
Tôi tin tưởng vào sự giúp đỡ của các cơ quan liên hệ thuộc chính phủ Việt-Nam Cộng-Ḥa để sự di chuyển nhân viên D.A.O. được hoàn thành tốt đẹp.

Trân trọng kính chào Tổng Thống.
Graham Martin
Đại-Sứ Hoa-Kỳ

Ngày 29 tháng 4, khoảng 10 giờ sáng, Tướng Nguyễn Cao Kỳ trở về Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân và thấy gần 30 sĩ quan cao cấp Không-Quân trong văn pḥng Tư-Lệnh Không-Quân.

Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn Minh, giải thích với Tướng Kỳ là người Mỹ muốn chuyển vận tất cả phi cơ phản lực sang Phi-Luật-Tân hoặc Thái-Lan. V́ vậy mọi người đang chờ để được sang cơ quan D.A.O. rồi ra đi.

Tướng Kỳ bay đến Bộ-Tổng-Tham-Mưu và thấy chỉ một ḿnh Tướng Đồng Văn Khuyên đang điều động các mặt trận quanh Saigon. Lúc này, cựu Phó-Tổng-Thống Nguyễn Cao Kỳ mới biết Đại-Tướng Cao Văn Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực VNCH, đă rời Việt-Nam ngày hôm qua!

Tướng Kỳ gọi tất cả đơn vị trưởng của những đại đơn vị quanh Saigon, nhưng không gặp ai cả. Tướng Kỳ đi xuống tầng dưới th́ gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Sau khi nói cho nhau hay là vợ con của hai Ông đă được di tản từ tuần trước, Tướng Kỳ vừa bước đến trực thăng vừa nói với Tướng Trưởng: “Đi với tôi”. Rồi cả hai Ông cùng một số sĩ quan thân tín của Tướng Kỳ lên trực thăng, bay ra Đệ Thất Hạm-Đội, đáp xuống chiến hạm USS Midway.

10 giờ 47 sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên gọi Trung-Tâm hành quân Hải-Quân, hỏi đường sông từ Saigon ra biển c̣n an ninh hay không? Đại-Tá Đỗ Kiểm cho biết đến giờ phút đó Hải-Quân vẫn c̣n kiểm soát được sông Ḷng Tào. Tướng Khuyên chào vội vàng và cúp máy

Tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, sau khi liên lạc với Đại-Tá V. Không-Quân và được biết Không-Quân vẫn c̣n kiểm soát phi trường Tân-Sơn-Nhất, Khối Hành-Quân Hải-Quân tiếp xúc với các Hạm-Trưởng. Lệnh di tản dự trù sẽ ban hành khoảng 10 giờ tối 29 tháng 4.

Sau khi hội ư với các Hạm-Trưởng, Đại-Tá Đỗ Kiểm gọi Đại-Tá Ước, Tham-Mưu-Phó hành quân Không-Quân. Đại-Tá Ước cho Đại-Tá Kiểm biết rằng lúc nào Không-Quân không giữ được Tân-Sơn-Nhất th́ sẽ cho Hải-Quân hay.

Trong khi đó, tại Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn Minh cùng vài vị Tướng và các Sĩ quan chờ hoài không thấy Mỹ liên lạc, đành đi bộ sang cơ quan D.A.O. xin được vào danh sách di tản.

Được báo cáo rằng nhóm Sĩ quan Không-Quân Việt-Nam đều mang vũ khí cá nhân, Tướng Homer Smith ra lệnh cho Trung Tá Richard Mitchell tước vũ khí của nhóm Sĩ quan đó và đưa tất cả vào một pḥng nhỏ, canh gác cẩn mật trong khi chờ đợi di tản.

Cũng thời điểm này, tại Nhà-Bè, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên, Hải-Quân Đại-Tá Lê Quang Mỹ, cùng gia đ́nh đến Căn-Cứ Hải-Quân xin di tản, nhưng lính gác không cho vào ! Sau đó, một Sĩ quan nhận diện được Ông và cấp cho Ông cùng gia đ́nh một LCM để ra tàu lớn.

11 giờ sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên rời Bộ-Tổng-Tham-Mưu.

Không-Quân vẫn c̣n kiểm soát được phi trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng rất nhiều phi cơ trúng đại bác của Việt-Cộng.

12 giờ trưa, được báo cáo nhiều thương thuyền chạy ra, chạy vào sông Ḷng Tào và sông Soài Rạp, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt chỉ thị Liên-Giang-Đoàn 33 mở cửa sông để thương thuyền ra vào tự do.

Cũng thời điểm này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, cả mấy ngàn người thuộc gia đ́nh Hải-Quân di tản từ Vùng I và Vùng II vào, tạm trú trong ṿng thành. Dọc các cầu tàu và bờ sông, tàu bè từ các tỉnh miền Trung kéo về neo ngổn ngang. Việt-Cộng phao tin là sẽ pháo kích một ngàn quả đại bác vào Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái và kho đạn Thành Tuy-Hạ vào lúc 6 giờ chiều 29 tháng 4.

Tin này loan ra khiến Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Ḥa Hiệp, ra lệnh hai Tiểu Đội Người Nhái đang tuần tiễu bên kia sông trở về Căn-Cứ; đồng thời Ông cũng chỉ thị những LCU và Trục Vớt đón gia đ́nh Người Nhái và gia đ́nh Hải-Quân thuộc Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, đưa ra sông, chờ.

1 giờ chiều, Trung-Tâm Hành-Quân Không-Quân bỏ trống.

Những biến động dồn dập khiến Hải-Quân quyết định nên di tản vào khoảng 6 giờ chiều - thay v́ 10 giờ đêm như đă dự định.

Ông Richard Armitage lại điện thoại về Trung-Tâm Hành- Quân Hải-Quân, thúc hối Hải-Quân ra đi.

Nhận thấy Hải-Quân không phải là một lực lượng chiến đấu thuần túy, bây giờ, Bộ-Tổng-Tham-Mưu và Trung-Tâm hành quân Không-Quân bỏ trống, Hải-Quân không thể ở lại chiến đấu đơn độc. V́ vậy, lệnh di tản được ban hành lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4!

Sau khi được thông báo là đến giờ Hải-Quân phải ra đi, rất nhiều binh sĩ ngồi bệt trong sân Trại Bạch-Đằng, ôm đầu, khóc! Một số binh sĩ khác vội vàng chạy đi.

Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân kêu gọi những ai không muốn ra đi, hăy giúp canh gác phía Công trường Mê-Linh, giúp người ra đi được di tản trong trật tự. Bấy giờ không c̣n hệ thống chỉ huy nữa mà chỉ c̣n uy tín cá nhân mới có thể giúp điều động một khối nhân sự khổng lồ của một Quân chủng tan hàng vào giờ phút chót.

rên không, trực thăng bay ngập trời. Trên bờ, đồng bào và quân nhân đổ xô xuống bến Bạch-Đằng và Hải-Quân Công-Xưởng. Trên sông, một số chiến hạm đă vào vị trí và một số khác đang trên đường về. Súng bắt đầu nổ quanh ṿng đai Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.

Toán Nhảy-Dù có bổn phận canh gác kho đạn Thành Tuy-Hạ rời vùng trách nhiệm, sang sông, xin Hải-Quân cho di tản. Hải-Quân yêu cầu toán Nhảy-Dù phối hợp với Quân-Cảnh Hải-Quân lo trật tự phía công trường Mê-Linh, sau đó Hải-Quân sẽ giúp phương tiện cho họ di tản.

Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị tất cả Sĩ quan cao cấp : Đến 7 giờ tối, nếu không có biến chuyển nào thay đổi cuộc diện, Hải-Quân sẽ ra đi.

5 giờ chiều 29 tháng 4, Tổng Thống Dương Văn Minh gọi Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh cần ǵ, Ông sẽ đến. Nhưng Tổng Thống Minh bảo thôi, đưa Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đến cũng được.

Tại tư dinh, Tổng Thống Minh tỏ ra rất hài ḷng về sự đóng góp lớn lao của Hải-Quân trong những cuộc triệt thoái dọc duyên hải. Tổng Thống Minh cũng hết lời khen ngợi tinh thần kỹ luật cao của Hải-Quân. Sau đó, Tổng Thống Minh nói qua về t́nh h́nh nghiêm trọng hiện tại và khuyên Phó-Đề-Đốc Thủy nên đưa Hải-Quân rút trong đêm, trước khi Việt-Cộng đủ th́ giờ bế sông Ḷng Tào. Phó-Đề-Đốc Thủy đề nghị Tổng Thống Minh đi luôn, nhưng Tổng Thống Minh từ chối - như đă từ chối lời đề nghị của của Tướng Charlie Timmes lúc sáng. Tổng Thống Minh bảo: “Thôi, t́nh thế này moa không đi được! Đời người có chết cũng chỉ chết một lần thôi !” Sau đó, Tổng Thống cuối cùng của chính thể VNCH, Tướng Dương Văn Minh, nhờ Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đưa Tướng Nguyễn Thanh Hoàng, Đại Tá Nguyễn Hồng Đài - rể của Tổng Thống Minh - và Tướng Mai Hữu Xuân theo Hải-Quân ra đi.

Sau khi từ giă Tổng Thống Minh, đi chưa đến chỗ chiếc Jeep đậu, Phó-Đề-Đốc Thủy đă thấy hai vị Tướng và một vị Đại-Tá ngồi sẵn trên băng sau chiếc Jeep của Ông rồi!

Lúc này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, Trung-Tá Trịnh Ḥa Hiệp triệu tập phiên họp khẩn cấp. Vào lúc 6 giờ chiều, buổi họp vừa tan th́ Việt-Cộng pháo ngay vào Căn-Cứ Hải-Quân, đúng như tin họ đă loan!

Trên hệ thống truyền tin, Trung-Tá Hiệp điều động những LCU Trục Vớt đưa gia đ́nh binh sĩ về Nhà-Bè, hướng ra biển. Chiếc LCU dành riêng cho Ông và toán Hải-Kích chiến đấu đậu ngay bồn dầu, suưt trúng đạn. Trung-Tá Hiệp ra lệnh chặt giây, tách bến.

Trong cảnh hỗn loạn như vậy Giang-Đoàn 91 Trục-Lôi vẫn b́nh thản chạy qua, chạy lại giữa sông, phản pháo dữ dội.

Tại đường Cường-Để, từng thác người tuôn vào Hải-Quân Công-Xưởng. Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, đứng nh́n mọi người chạy loạn bằng đôi mắt lạnh lùng từ sau cánh cổng sắt của Hải-Quân Công-Xưởng.

Tại bến Bạch-Đằng, cầu B, ba chiến hạm đậu sát nhau, theo thứ thự, từ trong ra ngoài: HQ 1, HQ 3 và HQ 2.

V́ đậu ngoài cùng, HQ 2 là chiến hạm đầu tiên tách bến, chỉ với một nửa số nhân viên cơ hữu. Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-Động-Biển, có mặt trên HQ 2.

Sau 7 giờ, chiến hạm đầy người và thấy t́nh h́nh không thay đổi, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân hành-quân Lưu-Động-Sông, ra lệnh HQ 3 tách bến. Lúc này trên HQ 3 c̣n có Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, cựu Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải.

Theo lịch tŕnh di tản, HQ 1 được chọn làm Soái Hạm, với cờ Tư-Lệnh trên kỳ đài, để đón Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy. Nhưng dân chúng tràn lên quá đông, gia đ́nh Phó-Đô-Dốc Cang và gia đ́nh Phó-Đề-Đốc Thủy không thể nhập hạm được.

Lúc này trên HQ 1 có cựu Tư-Lệnh Hải-Quân, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh và cựu Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu. Nhưng lại vắng mặt Hạm-Trưởng, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Địch Hùng.

Xuất thân khóa 4 Brest, Trung-Tá Hùng có nhiều đức tính mà ít Sĩ quan cao nào áp dụng để chỉ huy. Chính một trong những đức tính ấy đă khiến Ông vắng mặt vào giớ phút chút.

Nguyên nhân sự vắng mặt của Hạm-Trưởng Hùng là, ngày 29 tháng 4, Hạm-Trưởng Hùng tuyên bố trước tất cả nhân viên HQ 1: Nhân viên nào có cấp bậc thấp nhất trên chiến hạm sẽ là người đầu tiên đưa gia đ́nh lên Chiến hạm. Người nào mang cấp bậc cao nhất trên Chiến hạm sẽ đem gia đ́nh lên Chiến hạm sau cùng. V́ lẽ đó, trong khi những Chiến hạm khác đă tuần tự tách bến mà Hạm-Trưởng HQ 1 đi đón gia đ́nh vẫn chưa trở lại được!

V́ không biết Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh có mặt trong số người lúc nhúc trên sàn Chiến hạm, và cũng v́ Hạm-Phó HQ 1 không phải là một Sĩ quan Hải-Quân nguyên thủy, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu lấy quyền Sĩ quan thâm niên hiện diện, ra lệnh HQ 1 tách bến.

Trong khi đó, tại cầu A, Phó-Đô-Đốc Cang cùng gia đ́nh và Phó-Đề-Đốc Thủy cùng gia đ́nh - sau khi không thể lên được HQ 1, cả hai Ông và gia đ́nh phải sang HQ 601 - th́ bị kẹt trên cầu tàu; v́ Hạm-Trưởng HQ 601, Hải-Quân Đại-Úy Trần Văn Chánh, không cho lên tàu.

Một lúc sau, nhận diện được hai vị Sĩ quan cao cấp Hải-Quân, Đại-Úy Chánh cho Phó-Đô-Đốc Cang và gia đ́nh cùng Phó-Đề-Đốc Thủy và gia đ́nh nhập hạm.

Tối 29 tháng 4, lúc 10 giờ, HQ 11 không thể rời bến, v́ HQ 504 đậu bên ngoài không chịu đi. Tuy hệ thống chỉ huy đă tan ră, nhưng quanh đài chỉ huy của HQ 504 lính gác cẩn mật, không ai tiếp xúc được với Hạm-Trưởng - một Sĩ quan từ Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt nhập học và tốt nghiệp khóa 11 Sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang. Cuối cùng, một sự giàn xếp êm đẹp với thủy thủ đoàn của HQ 504 và chính những thủy thủ này tháo giây, giúp HQ 11 vận chuyển.

Vừa khi đó, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Xuân Phong lái xe Jeep xuống bến tàu, tự xưng là Tư-Lệnh Hạm-Đội, ra lệnh tất cả chiến hạm ở lại!

Từ HQ 11, Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm khuyến cáo Đại-Tá Phong nên rút lui trước khi những điều đáng tiếc có thể xảy ra. Đại-Tá Phong lặng lẽ lên xe, lái đi.

Đại-Tá Kiểm xử dụng đài-chỉ-huy HQ 11 như một trung tâm hành quân lưu động để điều động tất cả Chiến hạm.

11 giờ đêm, giữa lúc kho xăng Nhà-Bè trúng đại bác, nổ tung, gây một đám cháy ngất trời th́ trên hệ thống truyền tin của hầu hết Chiến hạm người ta nghe tiếng Hải-Quân Đại-Tá Trần B́nh Phú, Tham-Mưu-Phó nhân viên, từ trung tâm truyền tin Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, tự xưng là Tham-Mưu-Phó Hành-Quân Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh cho tất cả Chiến hạm không di chuyển, chờ lệnh!

Đại-Tá Kiểm bảo Đại-Tá Phú im đi và Đại-Tá Kiểm ra lệnh đoàn tàu tiếp tục di chuyển theo kế hoạch đă định và không nhận lệnh bất cứ từ ai khác.

Trong khi kho xăng Nhà-Bè trúng đạn và phực cháy, Chỉ-Huy-Trưởng căn cứ Hải-Quân Nhà-Bè, Đại-Tá Cơ-Khí Lê Kim Sa họp tất cả Sĩ quan; nhưng đến quá nửa đêm vẫn không quyết định được ǵ cả.

Tiếp đến, Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, lên máy vô tuyến, tự nhận là Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh tất cả Chiến hạm ở lại.

Đại-Tá Đỗ Kiểm lại lên tiếng cản ngăn Đại-Tá Phú. Nhưng điều tai hại là Đại-Tá Phú và Đại-Tá Tấn xử dụng máy của Trung-tâm Truyền tin Hải-Quân, có làn sóng mạnh, những đài xa như Poulo Obi hoặc Phú-Quốc nghe được; trong khi Đại-Tá Kiểm dùng máy của HQ 11 yếu hơn, v́ vậy, chỉ những Chiến hạm gần mới nhận được lệnh của Đại-Tá Kiểm. Đại-Tá Kiểm cũng liên lạc được với nhiều đơn vị sông và hẹn gặp nhau tại Côn-Sơn.

Hạm-Đội lầm lủi tiến và vô số Chiến đỉnh, Giang đỉnh chạy hai bên. Nhiều loạt súng của nhiều nhóm Quân nhân căm phẫn từ trên bờ bắn lên tàu. Sau khi tắt hết đèn để khỏi lộ mục tiêu, tất cả Chiến hạm được chỉ thị phải vớt đồng bào và quân bạn trên các ghe thuyền. Chiến đỉnh và giang đỉnh được khuyến khích cố chạy ra đến biển, sẽ được tiếp cứu sau.

Những Chiến hạm ngoài khơi Vũng-Tàu được lệnh tập họp tại Côn-Sơn, chờ Hạm-Đội ra. Nhưng HQ 505 lại tách rời, chạy ra đảo Poulo Dama, mang theo hơn 2.000 người và hai trực thăng.

Thấy HQ 505 tách rời và không liên lạc vô tuyến với những Chiến hạm khác, nhiều Sĩ quan và đoàn viên nghi ngờ Hạm-Trưởng. Tất cả âm thầm đặt kế hoạch đối phó trong trường hợp Hạm-Trưởng quay tàu về. Trong khi đó, một nhóm khác lại muốn đem Chiến hạm về lại Saigon. T́nh h́nh nội bộ rất căng thẳng.

Lúc này, trên tần số truyền tin, không biết “phe” nào đă gọi đích danh nhiều Hạm-Trưởng, bảo đừng đi, hăy ở lại với Chính phủ mới để được trọng vọng!

Từ HQ 3, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng bắt được liên lạc vô tuyến với Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy từ HQ 601 của Đại-Úy Trần Văn Chánh. Đại-Úy Chánh được chỉ thị đưa Phó-Đô-Đốc Cang và Phó-Đề-Đốc Thủy sang HQ 3.

Từ giây phút đó, HQ 3 trở thành Soái-Hạm. Phó-Đề-Đốc Hùng phụ tá Phó-Đô-Đốc Cang chỉ huy Hạm-Đội. Hạm-Đội Việt-Nam được chia thành nhiều nhóm nhỏ; mỗi nhóm do một Sĩ quan thâm niên hiện diện chỉ huy.

Trên đường ra biển, v́ một máy bất khiển dụng, HQ 1 lủi vào bờ, mắc cạn! HQ 1 kêu cứu trên tất cả tần số truyền tin nhưng không một Chiến hạm nào trả lời! Khi được báo cáo có hai vị Tướng Bộ-Binh và cựu Tư-Lệnh Lâm Ngươn Tánh trên Chiến hạm, Phó-Đề-Đốc Châu mời Đề-Đốc Tánh lên đài chỉ huy và nhờ Đề-Đốc Tánh cố đem Chiến hạm ra. Tất cả cơ khí viên được huy động xuống hầm máy để sửa chữa.

Vừa khi đó HQ 801 trờ tới. Hạm-Trưởng HQ 801, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, cho Chiến hạm vào kéo HQ 1. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Châu rời HQ 1, sang HQ 801.

Bằng vào nỗ lực vượt bực của các Cơ khí viên và sự trợ lực hữu hiệu của HQ 801, HQ 1 được kéo ra. Sau đó, HQ 1 vừa chạy, các Cơ khí viên vừa sửa chữa. Khi ra đến biển, hai máy của HQ 1 đều tốt cả.

Khuya 29 tháng 4, nhận thấy thời gian ấn định cho Mỹ triệt thoái khỏi Việt-Nam vừa đủ, Tướng Việt-Cộng Văn Tiến Dũng xin chỉ thị Hà-Nội để tấn công Saigon.

Ngay sau khi thỉnh cầu được chấp thuận, Tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh những đơn vị Pháo-Binh ngưng pháo kích vào Thủ đô để Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào!

Trong khi Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào Saigon th́ ngoài biển khơi, nhiều Hạm-Trưởng nghe tiếng Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn - từ HQ 3 - và Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu - từ HQ 801 - điều động trên máy vô tuyến. Càng về sáng th́ chỉ c̣n một ḿnh Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ huy Hạm-Đội.

30 tháng 4, khoảng 3 giờ sáng, cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Sông Ng̣i, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Quang Xuân, từ một PBR, lên HQ 502.

Lúc này HQ 406 chỉ c̣n chạy được một máy. Sau khi ra đến Vũng-Tàu, HQ 406 phải cặp vào HQ 800, sớt người sang. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Minh ra lệnh tháo ống cho HQ 406 ch́m.

Nhiều ghe thuyền và tàu nhỏ vây quanh mấy chiến hạm Hoa-Kỳ, nhưng không ai được lên tàu.

5 giờ 30 sáng, Lữ-Đoàn Thiết-Kỵ 203 Việt-Cộng tiến vào Tân-Cảng, t́m đường về Thủ đô.

Tổng Thống Dương Văn Minh phái Tổng Trưởng Thông-Tin Lư Quư Chung đến Camp David nhiều lần để t́m hiểu những yêu sách của phái bộ Việt-Cộng. Tổng Thống Minh cũng liên lạc với Thượng-Tọa Thích Trí Quang, nhưng Thượng-Tọa cũng tỏ vẻ bi quan, không thể giúp Tổng Thống Minh.

Ông Lư Quư Chung tŕnh với Tổng Thống Minh rằng Việt-Cộng buộc phải đầu hàng để tránh đổ máu. Cả ông Chung và Thượng-Tọa Thích Trí Quang đều khuyên Tổng Thống Minh nên đầu hàng.

Đây không phải là lần đầu tiên Tổng Thống Dương Văn Minh nghe nói đến giải pháp đầu hàng. Trong mấy ngày qua, Pierre Prochand, một nhân viên tin cẩn của Đại-Sứ Pháp, và ngay cả Đại-Sứ Pháp, Mérillon, cũng đă cố thuyết phục Tổng Thống Minh nên chấp nhận điều kiện của Việt-Cộng!

Trong khi tại Saigon, Tổng Thống Minh bị thuyết phục phải đầu hàng th́, ngoài khơi, HQ 17 được chỉ thị ra Phú-Quốc cứu một xà-lan đầy người. Nhưng v́ biết tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chẳng c̣n ai và cũng v́ gia đ́nh c̣n kẹt lại Saigon, Hạm-Trưởng HQ 17 không thi hành lệnh!

HQ 403 không thể đi xa v́ thiếu nhớt, được Đại-Úy Xuân và Trung-Úy Tư đem về.

HQ 601 được chính Hạm-Trưởng Trần Văn Chánh đem về. Cùng về với HQ 601 c̣n có Hạm-Trưởng HQ 801.

HQ 502 chạy chậm v́ chỉ c̣n một máy, vừa chạy vừa sửa. Nhiều người t́nh nguyện đứng xếp hàng từ đài-chỉ-huy xuống hầm lái để chuyền khẩu lệnh.

Liên-Đoàn Người Nhái chạy đến Nhà Bè th́ dừng, chờ Trung-Tá Trịnh-Ḥa-Hiệp. Lúc đó, Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái và toán Hải-Kích Chiến-Đấu lội qua nhiều con lạch và chạy bộ đến Nhà Bè, được một nhân viên đưa một hors-bord vào đón, đưa lên LCU. Từ LCU, Trung-Tá Hiệp điều động toán LCU ra biển. Ra đến biển, toán Người Nhái, tổng cộng khoảng 60 người, một số là học viên khóa 8, thấy HQ 502 vừa ra tới cửa sông, vội cập vào, xin nhập hạm.

Trong khi HQ 502 ́ ạch tiến, bỗng một L19 bay đến và lượn ṿng quanh chiến hạm. Đến ṿng thứ ba, L19 sà thấp hơn, cách mũi tàu khoảng 50 thước và phi công phụ nhảy ra. Lập tức nhiều phao nổi được vất xuống. Biển tương đối êm, nhưng những lượn sóng do HQ 502 tạo nên đă đùa người phi công phụ về phía sau chiến hạm.

Biết không thể nào ông phi công phụ bơi theo chiến hạm được, Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt chụp con dao cá nhân, mang vội đôi chân nhái, ṿng vào người một áo phao và mang theo một phao nữa cho nạn nhân, rồi ông Kiệt nhảy xuống biển.

Sau khi vớt được ông phi công phụ, ông Kiệt cố bơi theo tàu. Nhưng v́ nước bị bánh lái tàu đẩy mạnh ra sau khiến ông Kiệt bơi theo rất khó khăn.

Trong khi ông Kiệt gặp khó khăn trên triền sóng th́ trên không trung, chiếc L19 đảo lại một ṿng nữa và phi công nhảy ra. Thân người của ông phi công vừa chạm mặt nước liền bị hất nhẹ lên rồi ch́m lỉm!

Thấy bạn gặp nạn, ông phi công phụ van nài ông Kiệt hăy bỏ ông ấy ra, đến cứu giùm người bạn. Nhưng, ông Kiệt lượng sức ḿnh. Ông Kiệt chưa biết có thể đem được người phi công phụ lên Chiến hạm hay không th́ làm thế nào ông Kiệt dám vớt ông phi công nữa!

Cuối cùng, HQ 502 quay lại, vớt ông Kiệt và ông phi công phụ trong tiếng reo ḥ của hơn 3.000 người trên Chiến hạm.

Trong thời gian này, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, nguyên Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám kiêm Tư-Lệnh Đặc-Nhiệm 212, từ một PBR, liên lạc truyền tin với các Chiến hạm để t́m gia đ́nh! Khi biết gia đ́nh ở trên HQ 502, Phó-Đề-Đốc Phú lên gặp. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Phú lầm lủi trở xuống PBR, quay lại sông Soài Rạp, chờ những đơn vị Hải-Quân từ Vàm-Cỏ-Đông và Vàm-Cỏ-Tây ra.

Cũng thời điểm này, tại Saigon, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng VNCH, Trung Tướng Vĩnh Lộc, tiếp Đại-Tướng Pháp - Vanuxem - tại ṭa nhà chính Bộ-Tổng-Tham-Mưu. Trong cuộc tiếp xúc ngắn ngủi này, Đại-Tướng Vanuxem cho Trung-Tướng Vĩnh Lộc hay rằng Tổng Thống Dương Văn Minh đang soạn văn bản ra lệnh quân đội VNCH buông súng đầu hàng!

Quá thất vọng, Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung - Tổng-Giám-Đốc Nha Chiến-Tranh Chính-trị - và Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận dùng xe có bảng sao dành cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân t́m phương tiện di tản!

Đại-Tá Nguyễn Văn Tấn, “Tân Tư-Lệnh Hải-Quân”, đích thân đưa Tướng Vĩnh Lộc, Tướng Trung và Đại-Tá Nhận xuống một LCM Giang-Cảnh để ra biển.

Trong khi LCM Giang-Cảnh đưa Trung Tướng Tổng-Tham-Mưu-Trưởng cuối cùng của Quân-Lực VNCH rời bến Bạch-Đằng th́, từ xa lộ Biên-Ḥa, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng tiến vào Thủ đô.

Đến ngă tư Hàng-Xanh, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng gặp sự kháng cự của Thủy-Quân Lục-Chiến. Khi kéo quân qua Thị-Nghè, Sư-Đoàn 324 lại gặp sự ngăn chận của Sinh viên Sĩ quan Hải-Quân và Thủy-Quân Lục-Chiến tại các yếu điểm ở sở thú.

10 giờ 20, sau khi lệnh đầu hàng được truyền đi trên đài phát thanh, Tổng Thống cuối cùng của chính thể VNCH, Đại Tướng Dương Văn Minh, nói với kư giả Pháp, Jean Louis Arnaud: “Hăy nói hộ với Đại-Sứ Mérillon rằng tôi đă làm tất cả những ǵ mà chính phủ Pháp đ̣i hỏi nơi tôi!”

Trưa 30 tháng 4, lúc Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng trương cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam lên kỳ đài dinh Độc-Lập cũng là lúc Hạm-Đội Hải-Quân vào đội h́nh, trực chỉ Côn-Sơn.

Chiều 30 tháng 4, HQ 2 được chỉ thị quay lại Phú-Quốc cứu người trên chiếc xà-lan mà HQ 17 từ chối lúc sáng.

Đến Phú-Quốc, lúc sắp cặp vào, v́ thấy quá nhiều người và biết trong số đó có một số tù phạm, Hạm-Trưởng HQ 2, Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng ra lệnh Chiến hạm tách ra, chạy thẳng!

Tối 30 tháng 4, HQ 615 đón Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung và những người rời Saigon lúc sáng, từ LCM Giang-Cảnh.

Sáng 1 tháng 5, HQ 615 bị hết dầu trong hải phận Vũng-Tàu. Lúc này Hạm-Đội đă đi xa. HQ 615 kêu cứu bằng bạch văn chứ không bằng ám từ truyền tin nữa! Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận hoàn toàn mất b́nh tĩnh, cứ ôm con khóc và tỏ ư muốn tự tử!

HQ 17 vừa mới đến nhập đoàn với Hạm-Đội lại được lệnh quay lui cứu HQ 615. Đến nơi, HQ 17 vớt khoảng 300 người từ HQ 615 và hơn 200 người trên HQ 470. Sau đó, cả HQ 470 và HQ 615 đều bị đánh ch́m!

Khi đến Côn-Sơn, từ hệ thống truyền tin của HQ 1, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh t́m Hải-Quân Đại-Tá Phan Phi Phụng và chỉ định Đại-Tá Phụng làm Hạm-Trưởng HQ 1.

Lúc này HQ 801 cũng vừa đến Côn-Sơn. Vợ của Hạm-Trưởng HQ 801 không muốn di tản. Hạm-Trưởng HQ 801 muốn đem chiến hạm trở về Saigon. Nhưng nhờ sự giàn xếp của nhiều người, Hạm-Trưởng HQ 801, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, nhận HQ 471 để đưa vợ con và những người không muốn ra đi, trở về Saigon. Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 801.

Riêng HQ 505 - sau khi vớt thêm hơn 200 người và giàn xếp cho số nhân viên muốn trở về được xuống ghe về - quay lại Côn-Sơn. Vô t́nh, Hạm-Trưởng HQ 505 bắt được liên lạc vô tuyến trên đài siêu tần số của những người vừa tiếp thu Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon. Nhóm người này bảo Hạm-Trưởng HQ 505 đem Chiến hạm về. Nhưng Hạm-Trưởng HQ 505 đă liên lạc được với Tiếp-Liệu-Hạm Vega, thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ, và được Vega tiếp tế nước ngọt, thực phẩm. Sau đó, một Chiến hạm khác, cũng thuộc Đệ Thất Hạm-Đội, hộ tống HQ 505 đi Subic Bay.



Điệp Mỹ Linh

hoanglan22 11-29-2018 15:00

Cao Nguyên: Sương Mù Hay Khói Súng?
 
4 Attachment(s)
Phóng sự chiến trường của nữ kư giả Kiều Mỹ Duyên

Lời mở đầu

Trước năm 1975, là một phóng viên chiến trường, tôi có dịp theo bước chân hành quân của các chiến sĩ miền Nam Việt Nam khắp bốn vùng chiến thuật. Hơn mười lăm năm làm báo, tôi đă viết nhiều về sự can đảm và hào hùng của người lính miền Nam, những kẻ đă hy sinh quá nhiều cho người khác được ấm no, hạnh phúc. Dù hôm nay, chung cuộc như thế nào, trong ḷng tôi, những h́nh ảnh oai hùng và sự hy sinh cao cả của các anh, vẫn không bao giờ phai lạt. Cuốn sách này như một đóa hồng nhỏ gửi đến tất cả chiến sĩ QLVNCH để tri ân và để tưởng niệm những chiến sĩ đă đi vào ḷng đất mẹ.

Kiều Mỹ Duyên

Cuốn sách này hoàn tất với sự giúp đở của thầy Trần Bích Lan, anh Tạ Tỵ, anh Nguyễn Ḥa, chuyên viên về Đông Dương tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, cùng tất cả quư vị quen biết, bạn bè, những nhân vật trong truyện, đă bổ túc nhiều dữ kiện và cho mượn h́nh ảnh. Đặc biệt, nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh cho phép dùng những bức ảnh nghệ thuật của anh. Xin cám ơn tất cả với ḷng chân thành.

Kiều Mỹ Duyên


Chinh Chiến Điêu Linh



Ngày 15 tháng giêng năm 1972, tại băi đáp trực thăng Ba Gi, cách thị xă Qui Nhơn 12 cây số về hướng Tây Bắc, Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II, Trung Tướng Ngô Dzu trả lời cuộc phỏng vấn của báo chí trong và ngoài nước một cách khẳng định là Cộng quân sẽ đánh lớn tại Quân Khu II.

Tướng Ngô Dzu cũng cho biết, hiện nay Trung Đoàn 21 thuộc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của Bắc Việt đang thiết lập các căn cứ trong vùng thung lũng An Lăo, nằm về phía Bắc của Qui Nhơn. Và cũng theo tin t́nh báo mới đây th́ Bộ Chỉ Huy Quân Khu 5 của Cộng quân được ghi nhận đă xuất hiện trong quận Hoài An, tỉnh B́nh Định, làm cho t́nh h́nh của vùng này trở nên nghiêm trọng.

Trung Tướng Ngô Dzu c̣n cho biết thêm, quân số của Cộng quân xâm nhập vào Quân Khu II đă lên đến 60 ngàn người, ông cũng tiên đoán chừng một tháng nữa, địch quân sẽ di chuyển các cơ sở đến vùng Tam Biên, sẽ dùng chiến thuật "công đồn đả viện" để đánh Cao Nguyên và biến Kontum thành một Điện Biên Phủ.

Một cố vấn dân sự cao cấp Mỹ của Quân Khu II, ông John Paul Vann tin rằng Cộng quân sẵn sàng hy sinh 10 ngàn quân để chiếm cho được vùng Cao Nguyên. Cuộc chiến sẽ trải rộng từ thành phố Kontum đến Pleiku và B́nh Định. Ông cũng tiên đoán là chiến xa của Cộng quân sẽ tấn công vào Benhet và Tân Cảnh đầu tiên.

Cùng lúc với Tướng Trần Nam Trung của Bắc Việt đọc nhật lệnh kêu gọi Cộng quân đánh lớn, đánh mạnh khắp nơi, th́ báo Washington Star của Mỹ, số ra ngày 10 tháng 4 năm 1972 loan tin sư đoàn cuối cùng của Bắc Việt đă lên đường tiến vào miền Nam để tăng cường cho 120 ngàn Cộng quân đang rải dọc theo đường ṃn Hồ Chí Minh.

Những tin tức chiến sự như vậy là một hứa hẹn những tháng ngày đầy máu và nước mắt cho cuộc sống đang yên vui b́nh lặng của người dân miền Nam.
Rồi những ǵ mọi người chờ đợi cũng sẽ đến. Mùa xuân đến và mùa xuân đă qua. Khi những tia nắng của một sớm mai hè vừa đủ ấm để ửng hồng đôi má của người con gái Cao Nguyên th́ tiếng súng bắt đầu nổ.

Theo tài liệu bắt được trong ḿnh của một Chuẩn Úy Việt Cộng tên Khổng Thanh Hiền th́ lệnh tấn công tại mặt trận Tam Biên được ấn định vào ngày 13 tháng 3 năm 1972. Đó cũng là ngày mà lực lượng Dù đụng độ ác liệt với các đơn vị của Sư Đoàn Thép 320 Cộng quân chung quanh căn cứ hỏa lực 5. Sư Đoàn Thép là sư đoàn đă từng chiến thắng tại Điện Biên Phủ trước đây và hiện là một trong những đơn vị ṇng cốt của Bắc Việt. Lần ra quân này, chỉ sau 3 ngày đụng trận với một vài đơn vị của Lữ Đoàn II Dù, Sư Đoàn Thép đă phải để lại nhiều tổn thất. Một trong những xác Cộng quân bỏ lại chiến trường, có xác của Chuẩn Úy Khổng Thanh Hiền thuộc Tiểu Đoàn Pḥng Không của Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320. Những tài liệu tịch thu được trên ḿnh của sĩ quan này là do Tướng Phạm Ngọc Mậu kư ngày 20 tháng 10 năm 1971. Các nguồn tin t́nh báo của Quân Khu II cho rằng Tướng Phạm Ngọc Mậu đă thay thế Tướng Hoàng Minh Thảo, chỉ huy mặt trận Cao Nguyên Trung Phần mà Hà Nội gọi là Mặt Trận B3.

Đúng như sự dự đoán của những giới chức thẩm quyền của Quân Khu II, Tân Cảnh là nơi đầu tiên mà chiến trận bùng nổ. Cuộc chiến diễn ra khốc liệt không thua ǵ cuộc chiến tại vùng Trị Thiên, chỉ khác nhau về mặt địa thế: một bên là đồng bằng, một bên là rừng núi, và điều này ảnh hưởng phần nào đến sự yểm trợ của chiến xa và không lực.

Vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 23 tháng 4 năm 1972, Nông Trường 2 Cộng quân được yểm trợ bởi nhiều chiến xa T54 đă ào ạt tấn công vào căn cứ hỏa lực Tân Cảnh, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh do Đại Tá Lê Đức Đạt làm Tư Lệnh, và đây cũng là bản doanh của Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Thông làm Trung Đoàn Trưởng. Thoạt tiên Cộng quân dội xuống Tân Cảnh cả ngàn quả đạn đại bác 82 ly và hỏa tiễn 122 ly. Trận mưa pháo kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ.

Lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, Trung Tâm Hành Quân của căn cứ Tân Cảnh bị hư hại hoàn toàn v́ một hỏa tiễn điều khiển chống chiến xa của Cộng quân chui ngay vào cửa hầm. Hầu hết những người trong Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và trong Ban Chỉ Huy của Trung Tá Thông đều bị thương. Chỉ có Đại Tá Đạt và Trung Tá Thông là thoát nạn v́ đă rời hầm chỉ huy trước đó để đi đôn đốc binh sĩ của ḿnh. Trung Tâm Hành Quân phải dời qua một hầm kế bên.

Đến 23 giờ, cánh quân tiền phương của Cộng quân được phát hiện cách quận Dakto chừng một cây số về hướng Tây với sự yểm trợ của 3 chiếc T54. Lập tức phi cơ AC130 cất cánh từ phi trường Nha Trang bay đến oanh kích và bắn cháy ngay 3 chiến xa này khi c̣n cách Dakto chừng 500 mét, nhưng không ngăn được bước tiến của toán tiền phương địch. Đúng nửa đêm, Cộng quân ào ạt tấn công tiền đồn Tân Cảnh.



Sau khi đạo quân tiền phương với quân số chừng một trung đoàn tấn công vào Tân Cảnh, một trung đoàn Cộng quân thứ hai xuất hiện cách Tân Cảnh 3 cây số về hướng Tây Bắc, kéo ra Quốc Lộ 14 và cắt đoạn đường Dakto-Tân Cảnh ra làm bốn đoạn, khiến cho sự liên lạc giữa hai nơi chỉ c̣n qua máy vô tuyến mà thôi.

Ngay sau khi phát giác sự xuất hiện của cánh quân thứ hai này, mặc dầu thời tiết được loan báo là xấu, các toán Skyraider thuộc Phi Đoàn 530 của Không Đoàn 72 Chiến Thuật và các khu trục A37 của Không Đoàn 62 Chiến Thuật biệt phái cho Pleiku đă nhất loạt cất cánh từ phi trường Cù Hanh để bay lên oanh kích cánh quân này.

Khoảng 2 giờ 30 sáng, vừa pháo kích vừa xung phong, hai trung đoàn Cộng quân cố gắng tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, nhưng gặp phải sự kháng cự quá ư mănh liệt của các chiến sĩ Trung Đoàn 42, nên trận chiến kéo dài cho đến lúc trời sáng, Tân Cảnh vẫn c̣n đứng vững. Trời vừa sáng th́ thời tiết trở thành bất lợi cho những người đang tử thủ trong Tân Cảnh. Sương mù xuống thấp làm cho Không Quân bị bó tay, không thể yểm trợ được.

Vào lúc 7 giờ sáng ngày 24 tháng 3, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II hoàn toàn mất liên lạc vô tuyến với căn cứ hỏa lực Tân Cảnh. Cả Bộ Tham Mưu của Tướng Ngô Dzu như ngồi trên lửa. Không ai dám mở lời tiên đoán số phận của Tân Cảnh như thế nào. Đích thân Tướng Dzu gọi cho các đơn vị yểm trợ như Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh... để hỏi, không ai biết số phận của Tân Cảnh bây giờ ra sao.

Cho đến 10 giờ sáng, một sĩ quan Truyền Tin la lên: "Liên lạc được rồi". Tướng Dzu chụp lấy máy hỏi dồn. Đại Tá Đạt báo cáo đă đẩy lui được địch quân. Mọi người trong Trung Tâm Hành Quân đều thở phào và nét mặt người nào cũng lộ vẻ phấn khởi. Cũng vào lúc này, thời tiết đă trở nên quang đăng hơn, các phi cơ chiến đấu của Không Đoàn 72 Chiến Thuật bắt đầu cất cánh và mấy chiếc trực thăng tiếp tế đạn dược đă lọt được màn lưới lửa pḥng không của địch, đáp an toàn xuống căn cứ Tân Cảnh.

Mặc dù vẫn c̣n đứng vững trước đợt tấn công thứ nhất, nhưng với sự tăng cường thêm một sư đoàn thứ hai của địch quân từ căn cứ hậu cần 609 nằm bên kia biên giới tiến qua, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đă cho căn cứ Tân Cảnh và một số các căn cứ hỏa lực khác dọc theo ḍng sông Poko ở phía Tây Quốc Lộ 14 di tản chiến thuật, rút về lập một pḥng tuyến mới ở ngang căn cứ Bravo, cách Kontum 20 cây số về phía Bắc.

Cùng với kế hoạch di tản chiến thuật một số các căn cứ hỏa lực ở mạn Bắc thành phố Kontum, Tướng Ngô Dzu đă thành lập một ủy ban có tên là Ủy Ban Di Tản Đồng Bào Kontum và Pleiku. Ủy ban này do Đại Tá Hồ Hồng Nam, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn II làm chủ tịch. Phương tiện di tản sẽ bằng máy bay C130 của Hoa Kỳ và C123 của Việt Nam Cộng Hoà. Một nguồn tin cho biết bệnh tim của Tướng Ngô Dzu bị tái phát, nhưng ông bất chấp, dồn nỗ lực vào hai việc là di tản đồng bào ra khỏi vùng lửa đạn và tái chiếm các căn cứ mà quân ta đă di tản chiến thuật trong những ngày vừa qua.
Người dân của hai thành phố Pleiku và Kontum đă sống trong lo sợ phập phồng từ những ngày trước Tết Nguyên Đán v́ những tin tức chiến sự ngày càng nặng nề. Cơn ác mộng đó cứ chập chờn trong mọi sinh hoạt của người dân Tây Nguyên cho đến hôm nay, chiến trận đă thực sự bùng nổ.

Tôi đến Pleiku trong những ngày thành phố này đang di tản. Thành phố có lệnh giới nghiêm lúc 7 giờ tối, nhưng mới 5 giờ chiều trên các đường phố đă không thấy bóng dáng một người dân. Chỉ có những chiếc xe nhà binh chạy hết tốc lực. Những người ngồi trên xe, ai cũng mặc áo giáp, đội nón sắt cẩn thận. Trong thành phố, nhà nào cũng làm hầm nấp pháo kích. Đa số đều làm hầm nổi. Gia đ́nh của các quân nhân, công chức được lệnh di tản khỏi Pleiku để cho người chiến sĩ rảnh tay chiến đấu. Các công chức chuẩn bị nhận súng khi có lệnh.

Vẻ kinh hoàng hiện trên nét mặt mọi người. Nỗi lo âu chồng chất bởi nhiều vấn đề. Di tản: đến đâu, ăn đâu, ở đâu? Nhà cửa, tài sản để lại, ai trông coi? Lâu mau mới về? Bà vợ của một giáo sư buồn rầu tâm sự với tôi:
- Tôi bụng mang dạ chửa. Cả tuần lễ nay tôi lo quá, chẳng ăn uống ǵ được. Nhà nào cũng làm hầm, nhưng ăn thua ǵ cô. Chồng tôi nhất định ở lại đây. Tôi và các cháu tính về Sài G̣n, nhưng giá máy bay đắt quá, cả gia đ́nh phải mấy chục ngàn tiền vé, tiền đâu mà đi!
Giá vé máy bay Pleiku-Sài G̣n ngày thường là 3,800 đồng. Nhưng lúc này giá chợ đen khoảng 10 ngàn một vé. Nếu muốn mua giá chính thức th́ phải chờ hơn nửa tháng. Súng đạn đă nổ sát một bên rồi, có ai kiên nhẫn chờ hơn nửa tháng nữa mới rời thành phố?

Một khu chợ trời thành h́nh dọc theo đường Hoàng Diệu. Đồ đạc bán rất nhiều và rất rẻ. Người bán nhiều hơn người mua. Những nhu yếu phẩm như gạo, nước mắm, dầu hôi... giá tăng lên vùn vụt. Những người nghèo dành dụm được ít vàng phải đem bán để lấy tiền di chuyển. Vàng xuống giá rất nhanh. Các tiệm vàng đều bán ra mà không mua vào. Vàng y giá 20 ngàn đồng một lượng, trong khi gạo 20 ngàn một tạ. Ai cũng cố bán ti vi, tủ lạnh, radio... để bọc tiền mà chạy. Nhưng ai dám bỏ tiền ra mua mấy thứ đó lúc này. Có người treo bảng bán cả nhà, bán thật rẻ mà đă 3 tuần nay không có một người nào hỏi đến.

Lệnh di tản được ban ra. Dân Kontum di tản về Pleiku. Các trường học ở Pleiku được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Trong khi đó, gia đ́nh quân nhân, công chức ở Pleiku lại di tản đi nơi khác. Tôi nêu lên sự thắc mắc này, một giới chức thẩm quyền ở Pleiku giải thích: dân Kontum tạm thời di tản về đây để chờ lập cầu không vận chuyển đi các nơi khác như Nha Trang, Sài G̣n...

Hôm qua, ngày 27 tháng 4, quân đội của ta tiếp tế từ Qui Nhơn lên Pleiku 400 tấn gạo. Người dân Pleiku mỗi ngày tiêu thụ 30 ngàn tấn. Tỉnh Pleiku chưa có kế hoạch nào về việc phân phối số gạo nói trên. Cho tới hôm nay, kho gạo an toàn của Pleiku chưa hề đụng tới. Kho gạo này có thể nuôi toàn thể dân Pleiku trong ṿng một tháng.

Gạo và những nhu yếu phẩm khác vẫn tăng giá vùn vụt. Mua được một kư gạo là một chuyện rất khó khăn, v́ trong hoàn cảnh này, có tiền chưa chắc đă mua được. Tất cả tiệm ăn trong thành phố đều đóng cửa. Khoảng 50 phóng viên Việt Nam và ngoại quốc đang có mặt ở đây phải ăn hủ tiếu hoặc phở thay cơm và bánh ḿ.

Những gia đ́nh giàu có vội vàng ra đi. Những người khác lần lượt tiếp nối. Và thành phố Pleiku ngày càng hoang vắng.

Sau khi bắt lại liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, suốt ngày hôm đó tại căn cứ Tân Cảnh, các chiến sĩ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh đă anh dũng đẩy lui nhiều đợt xung phong mănh liệt của Cộng quân có quân số đông gấp ba lần và được yểm trợ bởi 60 chiến xa T54 cùng với một trung đoàn pháo. Cuộc chiến đấu hào hùng này đă kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng một giây phút. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II theo dơi những diễn tiến tại Tân Cảnh cho đến 19 giờ 45 phút ngày 24 tháng 4 th́ một lần nữa mất liên lạc với căn cứ này. Và theo tin của một số binh sĩ và đồng bào vừa thoát khỏi quận Dakto th́ Cộng quân đă tràn vào căn cứ Tân Cảnh vào lúc tối ngày 24.

Trong lúc đó, tại quận Dakto, Trung Tá Ḷ Văn Bảo chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân vẫn tiếp tục kháng cự với Cộng quân, mặc dù đă có lệnh di tản chiến thuật khỏi nơi này. Trung Tá Bảo gốc người Thái vùng Bắc Việt, ông gọi máy vô tuyến về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nói rằng ông sẽ quyết chiến với địch quân, chết chứ không lùi bước. Rồi sau đó cũng như Đại Tá Đạt, người ta không biết số phận của Trung Tá Bảo như thế nào v́ mọi liên lạc đều bị gián đoạn.

Chờ hai ngày ở phi trường Pleiku dưới trời nắng cháy và cát bụi, đến ngày thứ ba tôi mới được theo máy bay quan sát lên Kontum. Máy bay bay giữa những cụm mây trắng, bên dưới là núi rừng trùng trùng điệp điệp. Pleiku cách Kontum chừng 45 cây số đường bộ.
Sau khi Tân Cảnh và Dakto di tản chiến thuật, thành phố Kontum ngày càng chịu áp lực nặng nề của Cộng quân. Con đường duy nhất nối liền Kontum và Pleiku đă bị cắt đứt. Phi trường Kontum bị pháo kích vào mỗi ngày. Phương tiện c̣n lại duy nhất là máy bay quân sự.
Hôm trước đến Pḥng Báo Chí của Quân Đoàn để xin phương tiện, gặp mấy người từ Kontum về, một anh nói với tôi:
- Cô nên mặc áo giáp, đội nón sắt v́ trên Kontum Việt Cộng pháo kích dữ lắm, pháo như mưa. Xuống máy bay là phải chạy t́m chỗ nấp liền. Nên kiếm cái ba lô để mang theo thức ăn. Các tiệm ăn trên Kontum đều đóng cửa hết.

Tôi nghĩ chết sống có số. Với tôi, nhiều khi mang áo giáp, đội nón sắt rồi nặng quá chạy không nổi th́ cũng chết. Ngày đầu chờ máy bay, tôi c̣n mang theo bánh ḿ và một bộ quần áo. Nhưng chờ đợi măi, đến ngày thứ ba, khi leo lên máy bay, tôi chỉ mang cái máy ảnh, ít thuốc cần thiết và băng cá nhân. Người nữ phóng viên chiến trường không cần mang son phấn nên hành trang cũng nhẹ bớt phần nào.
Có những đoạn máy bay bay thật thấp. Tiếng người phi công nói qua ống nghe:
- Cô nh́n xuống mặt đường, có mấy chiếc xe đ̣ bị Việt Cộng giựt ḿn c̣n xác nằm bên đường đó.

Con đường ngoằn ngoèo bên dưới thật vắng, không có bóng một chiếc xe nào đang di chuyển. Thỉnh thoảng thấy một vài chiếc xe hàng bị lật. Trước đây vài ngày, nghe nói có nhiều xe hàng liều mạng chở người tị nạn từ Kontum về Pleiku, giữa đường bị Việt Cộng giựt ḿn hoặc từ trên núi bắn B40 xuống.

Máy bay bay ngang một làng nào đó. Khắp làng không thấy bóng dáng một người dân. Tôi hỏi người phi công:
- Sao không thấy một người dân nào cả? Đây cách Kontum chừng bao nhiêu cây số và đang ở về hướng nào?
Người phi công chấm một dấu đỏ trên bản đồ ghi dấu vị trí hiện tại của máy bay và đưa tấm bản đồ về phía tôi:
- Dân đă được di tản rồi. Cô không nh́n thấy những hố bom B52 dưới kia sao? C̣n cách Kontum 20 cây số về hướng Nam.
Hai người xạ thủ đại liên nói đùa với tôi:
- Nếu thấy Việt Cộng, tụi tôi nhường súng cho cô bắn.

Tôi nh́n xuống bên dưới, có 3 chiếc xe mang cờ Công giáo, chiếc đi giữa chở một cái ḥm, h́nh như là một đám tang. Về sau tôi được biết người chết là một thanh niên, một trong những người đang ngồi ở phi trường đợi máy bay để rời Kontum, rồi bị pháo kích mà chết.

Hôm đến Pḥng Báo Chí của Quân Đoàn II, gặp Đại Úy Vượng, ông khuyên:
- Cô lên Kontum th́ nên chuẩn bị sẵn cho một cuộc chạy bộ. Hăy mang giày nào cho dễ chạy. Trên đó không có xe cho cô di chuyển. Có mượn được xe cũng không có xăng. Xuống phi trường, cô phải chạy bộ vào thành phố, chỉ chừng 3 cây số thôi. Tại Kontum, bây giờ, một giọt xăng quư như một giọt máu.
Vậy là tối hôm đó tôi t́m mua một đôi giày ba ta để chuẩn bị cho một cuộc chạy bộ từ phi trường vào thành phố. Nhưng rồi cũng may, trực thăng hạ cánh cách toà hành chánh tỉnh chừng một cây số. Thế là tôi chỉ đi bộ vào phố chứ khỏi chạy bộ. Lúc đó Việt Cộng đang pháo vào phi trường. Những đoàn người trên đường ra phi trường phải dừng lại. Một người trong nhóm đó thở dài:
- Trời ơi, Việt Cộng pháo vào phi trường măi. Không biết bà con của ḿnh đợi ở đó có sao không!

Tôi đến đây nhằm ngày Chủ Nhật, chỉ có con đường ra phi trường là c̣n có người di chuyển. Hằng ngàn người, đa số là vợ con của quân nhân và công chức tụ tập trước MACV để xin máy bay di chuyển. Phải có giấy của Đại Tá Tỉnh Trưởng kư trước, rồi đến xin giấy của Đại Tá Mỹ ở MACV. Bao giờ cầm được giấy lên máy bay mới biết chắc ḿnh được đi. Giấy được đi phải là giấy ưu tiên một. Đối với máy bay Mỹ, mọi người giữ được kỷ luật như vậy, c̣n với máy bay Việt Nam, dân cứ ào lên, ào lên. Không có cách ǵ để giữ cho được trật tự.

Cách đây vài hôm ở phi trường Cù Hanh, hơn 10 ngàn người tràn lên một chiếc máy bay. An Ninh, Quân Cảnh không thể nào ngăn cản được. Một ông Trung Tá rút súng bắn dọa một phát, viên đạn vô t́nh lại trúng vào cánh máy bay sao đó mà máy bay không cất cánh được. Và người ta lại kiên nhẫn ăn, ngủ ngay tại phi trường để chờ. Tội nhất là những đứa bé sơ sanh, phải dầm mưa dăi nắng và chịu đói khát, đau ốm đă bao nhiêu lâu rồi. Vấn đề tiếp tế cho Kontum ngày càng trở nên khó khăn, tất cả chỉ c̣n trông chờ vào Chinook. Những nhu yếu phẩm cần thiết làm sao có đủ cho đồng bào tị nạn chạy về từ Dakto, Tân Cảnh



Tôi đến toà hành chánh tỉnh Kontum vào lúc 10 giờ sáng. Quân nhân, công chức tụ họp từ từng dưới lên cả trên lầu. Họ chia ra từng nhóm, người nào cũng nói về chuyện di tản. Họ đến đây để xin giấy di chuyển cho gia đ́nh. Tôi đang đứng ở cầu thang hỏi thăm mấy người ở đây th́ Đại Tá Nguyễn Bá Th́n, Tỉnh Trưởng Kontum đi ra, thấy tôi ông chào hỏi và nói:
- Bây giờ tôi đi thăm các trại tạm cư, cô có đi không? Cô nên viết để kêu gọi giúp đở cho hoàn cảnh này.

Tôi lên xe của Trung Tá Đổ, Tiểu Khu Phó, hướng về các trại tạm cư. Trường học và các cô nhi viện được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Chúng tôi ghé lại một trường học. Trên sân trường, người Thượng nằm, ngồi dưới các gốc cây, họ vừa chạy về từ Dakto, Tân Cảnh. Nét mặt người nào cũng có vẻ ngơ ngác trông thật tội nghiệp.

Trong khi Đại Tá Th́n hỏi thăm những cán bộ B́nh Định Nông Thôn về vấn đề phân phát gạo cho đồng bào tị nạn, th́ tôi đi chụp h́nh và t́m những người Thượng biết nói tiếng Việt để hỏi thăm. Mấy người này đến từ làng Konkring. Tôi nghe tiếng Đại Tá Th́n hỏi:
- Ty Y Tế có rắc thuốc không?

Gần 10 năm làm báo, đây là lần đầu tiên tôi thấy một ông Đại Tá Tỉnh Trưởng đi kiểm soát nhà cầu của một trại tị nạn. Vấn đề giữ được vệ sinh ở trại này thật là khó khăn. Cán bộ th́ ít, người tị nạn th́ đông. Tất cả nhân lực đang dồn vào chiến trận, vào việc di tản dân Kontum đi nơi khác và tiếp cư dân nơi khác về Kontum. Mỗi người được lănh 500 gram gạo một ngày, nhưng không dám ăn hết, để dành lại một ít pḥng hờ ngày mai không được phát gạo nữa. Thời chiến chinh, ai mà biết được những ǵ sẽ đến trong ngày mai.
Vào lúc 16 giờ ngày 29 tháng 4, một phi cơ quan sát trong lúc bay trên không phận Dakto, bỗng nhiên thấy ánh sáng của một tấm kiếng từ dưới đất chiếu lên. Phi công liền xuống thấp để quan sát th́ thấy một đám đông đang tụ họp quanh khu chợ Dakto và ra dấu hiệu cấp cứu. Khi phi cơ xuống thấp hơn nữa, thấy đám đông đó là khoảng 200 binh sĩ của ta.


Những người này đang làm dấu hiệu cho phi cơ đáp xuống. Phi công định đáp xuống một băi trống phía Tây của chợ, nhưng địch biết được ư định đó nên bắn lên máy bay như mưa và đồng thời mở đợt tấn công vào đám binh sĩ của ta đang bị vây.
Được tin báo của máy bay quan sát, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tin rằng nhóm 200 binh sĩ đang bị vây khổn ở chợ Dakto gồm có Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và binh sĩ của Trung
Đoàn 42 Bộ Binh trên đường di tản khỏi căn cứ Tân Cảnh. V́ vậy, cuộc giải vây cho nhóm 200 người đang cầm cự với địch đă được thực hiện với ưu tiên một.

Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đưa được Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh cùng với 200 binh sĩ từ chợ Dakto về căn cứ của Quân Đoàn. Cùng đi với Đại Tá Đạt, có Trung Tá Nghiêm Kế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 22 Công Binh Chiến Đấu, một đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn 22.

Kư nhi viện Vincent cũng là một trong những trại tạm cư. Chúng tôi đến thăm vào buổi trưa, các d́ phước đều mặc áo màu xanh, lúp màu xanh và đang làm việc rất bận rộn. Có mấy d́ phước ngồi ghi tên những người mới đến vào danh sách. Người tị nạn ở đây đa số là người Thượng từ các buôn ở mạn Bắc của Kontum chạy về.

Tôi ngồi xuống bên cạnh một d́ phước rất trẻ, nói được tiếng Barna. Sinh hoạt chung với họ rồi nói được tiếng của họ. Kư nhi viện này ở bên cạnh trường trung học Quenot của cha Trường. Trường học thật khang trang đẹp đẽ. Những cây phượng trong sân nở hoa đỏ rực. Xác hoa phượng phủ đầy các lối đi.
Đại Tá Th́n hỏi các d́ phước:
- Vấn đề vệ sinh ở đây làm cho các sơ vất vả lắm phải không?
Một d́ phước trả lời:
- Người Thượng họ tắm cả ngày, tắm nhiều hơn ḿnh nữa, nhưng họ không có quần áo để thay. Có một bộ đồ là họ mặc cho đến khi rách, chứ không giặt giũ ǵ cả. Mà muốn giặt cũng không có đồ để thay.
Tôi hỏi d́ phước:
- Thưa sơ, trại này hiện có bao nhiêu người?
- Đă tiếp nhận hai ngày nay là 950 người. Số người mới đến c̣n đang lập danh sách.
Một d́ phước quay lại hỏi tôi:
- Cô có nghe tin ǵ về Konkring không? Có mấy sơ ở Konkring cũng thuộc về Vincent de Paul, ở đây chúng tôi không được tin tức ǵ hết, chắc bị Việt Cộng bắt giữ lại hết rồi.
Các d́ phước ở đây nhắc đến những người ở Konkring một cách quan tâm và thương mến.

Buổi loạn ly bom đạn đâu có tránh ai, Việt Cộng đâu có chừa ai.
Rời trại tạm cư ở kư nhi viện Vincent, chúng tôi đến thăm một trại tạm cư khác tại một trường trung học. Chúng tôi đến lúc đồng bào đang ăn cơm. Thức ăn thật đơn giản: rau luộc và một món mặn. Vợ chồng, con cái ngồi bẹp xuống nền của lớp học. Họ ăn một cách ngon lành, nhưng trên mặt vẫn c̣n những nét sợ hăi v́ đoạn đường họ đă vượt qua và những hiểm nguy họ đă gặp.
Tôi hỏi một người đàn bà ngồi gần cửa:
- Chị chạy mấy ngày mới tới đây?
Người đàn bà đặt chén cơm xuống, nh́n tôi rồi trả lời:
- Đi 4 ngày trong rừng, mới ló đầu ra là gặp ngay Việt Cộng. Chạy đến chảy máu chân cũng không hay. Về tới đây mới biết ḿnh c̣n sống.
Một ông cụ ngồi nh́n chén cơm mà không ăn, nước mắt rưng rưng:
- Mấy đứa con tôi thất lạc hết rồi. Không biết chúng c̣n sống hay đă chết. Ngày nào tôi cũng đi t́m chúng nó. Có ai thấy chỉ dùm tôi.

Tỉnh Kontum có khoảng 50 ngàn dân, gồm 30 ngàn người ở thành phố và 20 ngàn người rải rác các quận chung quanh. Người Thượng ở trong những làng mạc xa xôi hẻo lánh. Trong khi dân Kontum di tản về Pleiku hoặc Sài G̣n, dân ở các làng, các quận lại đổ về Kontum tị nạn. Những gia đ́nh giàu có đă đi hết rồi, bây giờ c̣n lại đa số là gia đ́nh của quân nhân và công chức. Phía bên Mỹ thông báo rằng, đến ngày 1 tháng 5, họ không cấp phương tiện để di tản đồng bào nữa.

Ngày 29 tháng 4, một vị thượng tọa dẫn 5 ngàn tín đồ đi bộ từ Kontum về Pleiku. Đoàn người ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng cũng về tới Biển Hồ. Nhà cầm quyền Kontum lo lắng rất nhiều về việc di tản, nhưng không đủ phương tiện. Tướng Ngô Dzu cũng rất khổ tâm về việc này. Một ngày chỉ có 4 chiếc Chinook tiếp tế.

Sự tiếp tế nhỏ giọt nên cũng đến ngày thành phố Kontum không có điện v́ thiếu dầu, một số dân trong các làng đói v́ thiếu gạo. Bây giờ Kontum đă bị cô lập, cuộc sống của những người c̣n lại ở đây chỉ mong vào sự tiếp tế của máy bay mỗi ngày.
Thành phố Kontum chỉ mới hoang vắng, nhưng vẫn c̣n nguyên vẹn. Nguyên vẹn với nét đẹp của một thành phố miền Cao Nguyên. Ḍng sông Dabla vẫn lặng lờ uốn khúc quanh co, và trên bờ, màu hoa phượng vĩ vẫn rực rỡ trong khói lửa chiến tranh đang bao trùm thành phố.

Buổi sáng tôi ra phi trường để gửi bài về toà soạn th́ chợt bắt gặp một tà áo xanh, màu áo xanh đồng phục của những nữ tiếp viên hàng không Air Việt Nam. Người con gái có đôi mắt to và đen, nét mặt buồn như muốn khóc. Nàng có vẻ lạc lơng giữa một rừng người đang chờ di tản ở phi trường và h́nh như đang t́m kiếm một người nào đó. Khi đi ngang qua chỗ Đại Úy Hoà và tôi đang đứng nói chuyện với nhau, người con gái dừng lại ấp úng hỏi vị sĩ quan:
- Thưa Đại Úy, Đại Úy có thể cho tôi biết trong số thương binh mà Đại Úy đă di tản về các bệnh viện có Thiếu Úy Nguyễn... không?
Đại Úy Hoà, Quân Y, nh́n người con gái một lát rồi chậm răi trả lời:
- Tôi làm sao nhớ hết được. Nếu cô cho tôi thêm số quân, đơn vị của người đó, tôi sẽ t́m dùm cho cô. Chừng nào cô mới có chuyến bay trở lại đây?
Người nữ tiếp viên có vẻ mừng rỡ:
- Thiếu Úy Nguyễn..., thuộc Trung Đoàn 42, tôi không nhớ số quân của anh ấy. Sau khi Tân

Cảnh di tản, tôi không được tin tức ǵ của anh ấy nữa. Tôi t́nh nguyện bay đường Sài G̣n-Kontum mỗi ngày hai chuyến, sáng và chiều, để lên đây mong kiếm được tin tức của anh. Nhưng mỗi lần máy bay hạ cánh có một tiếng đồng hồ, nên tôi chỉ luẩn quẩn hỏi thăm ở trong phi trường này mà thôi.

Đại Úy Hoà hứa với người nữ tiếp viên hàng không:
- Tôi sẽ hỏi pḥng hành quân dùm cô. Đồng thời tôi sẽ ḍ xem danh sách của thương binh. Trưa nay, lúc máy bay của cô đáp xuống, tôi sẽ ra đây trả lời cho cô. Hiện nay, những người sống sót của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 và Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 42 đóng ở Tân Cảnh đă về đây hết, tôi cũng sẽ hỏi thăm dùm cô.

Sau khi người nữ tiếp viên trở lại máy bay về Sài G̣n, Đại Úy Hoà làm đúng lời hứa, đă đi nhiều nơi để ḍ thăm tin tức. Nhưng tên của người sĩ quan này không có trong danh sách những thương binh, cũng không có mặt trong số những người về từ Tân Cảnh. Vậy chỉ c̣n một là thất lạc trong rừng, hai là bị lọt vào tay địch, ba là đă chết mất xác.

Tôi thấy Đại Úy Ḥa có vẻ ái ngại khi đến giờ phải ra phi trường gặp lại người nữ tiếp viên hồi sáng. Các phi trường Kontum và Pleiku bị pháo mỗi ngày, nhưng nàng vẫn t́nh nguyện bay lên đây ngày hai chuyến, với hy vọng có chút tin tức hay được gặp lại người yêu.

Buổi trưa tôi từ chối không đi cùng Đại Úy Hoà ra phi trường. Tôi sợ phải nh́n thấy những giọt nước mắt và nét tuyệt vọng trên khuôn mặt hiền lành của người con gái đó. Tôi sợ một câu trả lời từ miệng ḿnh thốt ra là một sự thật phũ phàng dập tắt hết mọi niềm hy vọng. T́nh yêu của người con gái đó quá đẹp và quá hiếm trong những ngày ly loạn như hôm nay.

cha12 ba 11-29-2018 17:30

2 Attachment(s)
Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 3549708)
Chú đoán ông ấy ở khoảng 18 hay 20 . Theo chú nhớ mang mang là có 22 hoặc 27 khóa . Sau năm 1968 th́ được gọi khóa 1/ 68 ...2/ 68 cứ thế liên tục đến năm 75 . Mỗi khóa đều có tên riêng sau này . Khóa của chú đeo khăn vàng . khóa kiến thiết 9/73 . Dân Thủ đức đa số là Tổng động viên nhiều hơn là T́nh nguyện như vơ bị đà lạt . Chương tŕnh học kém hơn đà lạt ( đa lạt học 4 năm ) gái mê nhiều hơn :hafppy::hafppy::haf ppy:

Mấy năm trước chú có về họp mặt khóa này Bolsa nhưng người c̣n người mất ( chung tiểu đoàn 4 phân chia làm 4 đại đội , lâu quá rồi cũng chẳng nhận ra ai chỉ có nhớ kỷ niệm phần nào ở lquân trường rồi đường ai nấy đi làm nhiệm vụ đời trai trong thời chinh chiến

:hafppy::hafppy::haf ppy:
Khóa 23 trở về trước Đại Lễ trắng, các khóa sau màu kem


hoanglan22 11-30-2018 04:06

Quote:

Originally Posted by cha12 ba (Post 3550622)
:hafppy::hafppy::haf ppy:
Khóa 23 trở về trước Đại Lễ trắng, các khóa sau màu kem


Cái này về đại lễ của si quan trừ bị có 27 khóa . Khóa cuối cùng đứt bóng

C̣n khóa học theo năm th́ khác .Cuối năm 73 Số SVSQ quá đông nên chuyển qua long thành .Khóa tổng cộng có 4 tiểu đoàn hoặc là 5 . mang khăn theo nhiều màu khác nhau để phân biệt chứ không phải đại lễ:hafppy::hafppy::h afppy:

hoanglan22 11-30-2018 04:36

Bay Trên Lửa Đạn
 
3 Attachment(s)


Thường thường những chiến trường càng sôi động, càng có một hấp lực lôi cuốn tôi phải đến, phải ghi nhận và phải viết. Tôi đến chiến trường bằng mọi phương tiện: máy bay, tàu thủy, xe và cả đi bộ. Nhưng thường là đi bằng đường bộ, từ phía sau trận tuyến để tiến dần vào vùng giao tranh theo những hướng tiến quân của các đơn vị đang tham chiến. Như vậy, cái nh́n của người phóng viên chiến trường bị giới hạn bởi những điều kiện tương đối an toàn nên sự ghi nhận sẽ thiếu phần trung thực. Và tôi tâm niệm ḿnh phải có một cái nh́n khái quát hơn, những cảm xúc mạnh mẽ và sống động hơn, từ một độ cao, ngay trên lằn đạn, để ng̣i bút mô tả thật đúng với những trận đánh đang ở mức khốc liệt nhất của một vùng được mệnh danh là Vùng Hỏa Tuyến. Tôi cố gắng thực hiện điều đó để đạt được cái nh́n cần thiết của một người viết phóng sự chiến trường, và đồng thời mới có cơ hội trực tiếp nh́n thấy sinh mạng của những chiến sĩ Không Quân thật như treo trên sợi chỉ trong những lần đùa với tử thần, bay trên lửa đạn.

Năm 1970, nh́n t́nh h́nh chiến sự ngày càng sôi động, tôi nghĩ đến lúc muốn có mặt tại chiến trường để viết, e rằng những phương tiện như xe cộ không c̣n tiện dụng. Hơn nữa, một phóng viên chiến trường mà không có mặt tại chiến địa cùng lúc với những đơn vị đang hành quân, th́ những bài viết nếu không phải là sản phẩm của tưởng tượng, th́ cũng chỉ là nghe kể lại hoặc dự những buổi thuyết tŕnh của pḥng hành quân mà thôi. Do đó, tôi nạp đơn xin phép Bộ Tổng Tham Mưu theo học một khóa Nhảy Dù. Đơn xin của tôi được chấp thuận th́ không may, một tai nạn xe cộ khiến t́nh trạng sức khỏe của tôi không thể theo học được. Cách c̣n lại duy nhất là bay trên chiến địa để trực tiếp ghi nhận những diễn biến của chiến trường và những đơn vị đang chiến đấu bên dưới.

Từ mặt trận Cao Nguyên vừa về tới Saigon, tôi trở ra lại miền Trung để tiếp tục tham dự chiến trường Trị Thiên. Tôi chọn Huế để viết phóng sự, một phần v́ mặt trận phía Bắc của thành phố này đang tới hồi nóng bỏng, một như bị quyến rũ bởi những lời mời mọc âm thầm của đất Thần Kinh, sự cảm phục sức phấn đấu của người dân miền Trung, và cũng tựa hồ như định mệnh.




Pilot Phi Đoàn 516 "Phi Hổ" & A-37 Dragonfly

Với miền Nam và Gia Định, nơi tôi sinh trưởng, th́ Huế là một vùng đất xa xôi với nhiều huyền thoại lịch sử. Huế của cung miếu, đền đài. Huế như người t́nh vừa kiêu sa vừa lăng mạn. Huế như đấng quân vương đến hồi sa cơ thất thế, vẫn kiêu ngạo với một thời vàng son dĩ văng, và cả những khổ đau mà hiện ḿnh đang gánh chịu.

Vào những ngày đầu của tháng 7, thành phố Huế đă nằm trong tầm pháo của Cộng quân. Mọi đơn vị và kể cả dân chúng đang nỗ lực pḥng thủ. Cái nóng của mùa hè ở Huế thật oi nồng. Gió Hạ Lào luồn qua những khe núi của rặng Trường Sơn đưa mùi khói súng về tận sông Hương. Huế đang ở trong vùng hành quân. Xe nhà binh di chuyển vội vàng. Đủ mặt quân binh chủng trên đường phố. Hàng ăn, quán uống rộn ràng với những đoàn xe chuyển quân tạm dừng chân giây lát. Người dân đào hầm trú ẩn ngay trong nhà. Bao cát ở chợ trời Đông Ba bán chạy như tôm tươi.

Sau khi đi thăm những đơn vị có nhiệm vụ giữ ṿng đai của Huế, tôi liên lạc với Biệt Đoàn Tiền Phương đóng ở phi trường Phú Bài để xin được tháp tùng theo những phi vụ mà Biệt Đoàn này đang yểm trợ cho mặt trận phía Bắc của Huế. Đó là cách duy nhất mà tôi có thể dự phần và hiểu một cách rơ ràng những giây phút hào hùng và thập phần nguy hiểm của những người đấu từ trên không, của những cánh chim bằng vào ra chiến trận như tṛ đùa, đem mạng sống của ḿnh treo trên lửa đạn. Những cuộc sống hào hùng đó, tôi đă được nghe nhắc đến trong lần đầu gặp Thiếu Tá Diệm, Biệt Đoàn Trưởng Biệt Đoàn Tiền Phương, một người trầm lặng, ít nói, thường vẫn ngậm ngùi nhắc đến những người bạn, những huynh đệ đă vĩnh viễn ra đi và những người đang làm rạng danh cho binh chủng như Thiếu Úy Nguyễn Xuân Chi của Không Đoàn 41, Thiếu Úy Tạ Nhất Chí của Không Đoàn 5...

Buổi sáng, nắng hè đang c̣n dịu, tôi ngồi nghe vị Sĩ Quan Trưởng Pḥng Hành Quân của Biệt Đoàn Tiền Phương tại Phú Bài thuyết tŕnh về t́nh h́nh chiến trường và các nhiệm vụ yểm trợ của Biệt Đoàn. Những dặn ḍ và quy luật mà tôi phải tuân theo, đồng thời phải để lại địa chỉ, điện thoại những nơi sẽ được cấp báo nếu có ǵ không may xảy ra cho chuyến bay này. Tôi để lại số điện thoại của người chị bà con ở Saigon và của một người mới quen ở Huế.

Người phi công mà tôi tháp tùng là Đại Úy Trần Ngọc Hoàng. Phi cơ L-19 có hai chỗ ngồi, tôi ngồi phía sau với mũ nghe và một chiếc ống ḍm. Phi cơ cất cánh rời phi trường Phú Bài lúc 10 giờ 24 phút, Đại Úy Hoàng nhắc nhở tôi:

- Đây không phải là một chuyến bay quan sát khơi khơi trên cao, mà là một phi vụ yểm trợ thực sự trong vùng giao tranh.

Tôi hiểu ư người phi công. Không có một sự an toàn nào cho tôi, dù là tối thiểu như những lần quan sát chiến trường từ sau lưng những đơn vị Bộ Binh. Tôi nhủ thầm, con người sống chết có số và chuyện sinh nghề tử nghiệp cũng là chuyện thường t́nh mà thôi. Cũng có thể v́ tôi là phái nữ và ở từ một nơi yên ổn như Saigon mới ra đây xa lạ nên được căn dặn kỹ càng.

Như hai hôm trước, tôi xin trực thăng đi từ Đà Nẵng ra Huế, nơi đáp sẽ là băi đáp trực thăng trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh tại Mang Cá, Huế. Khi trực thăng gần đến Huế, người phi công cũng dặn ḍ tôi:

- Máy bay đáp xuống là chị phải chạy ngay vào giao thông hào bên cạnh, kiếm một chiếc nón sắt đội lên đầu cho chắc ăn rồi mới di chuyển vào trong doanh trại. Tôi hồi hộp chờ đợi, và có cảm tưởng những khẩu pháo của Việt Cộng đang im lặng như một cái bẫy chờ đợi con mồi... Nhưng khi trực thăng vừa đáp xuống, tôi thấy người đón tôi vẫn chiếc mũ lưỡi trai trên đầu và điếu thuốc cố hữu trên môi, đứng dựa lưng vào xe Jeep, rất thản nhiên, cái thản nhiên của những người đă quen sống trong vùng lửa đạn.

Hôm nay là ngày 5 tháng 7, năm 1972. Một ngày nắng thật đẹp. Những người phi công không thích sương mù. Bây giờ đang ngồi trên máy bay, tôi mới hiểu điều đó. Trời trong sáng giúp sự quan sát dễ dàng hơn. Dưới chân tôi là núi rừng, đồng ruộng. Trên đầu tôi từng đám mây trắng bay ngược chiều. Chợt nhớ lời một người phi công trẻ nào đó:

- Mỗi ngày chúng tôi bay đi trước khi mặt trời mọc, và trở về sau khi mặt trời đă lặn.

Nhiệm vụ của những người phi công lái L-19 là nhiệm vụ có tầm quan trọng trong một cuộc hành quân: hướng dẫn hành quân, quan sát mục tiêu, quan sát những biến chuyển của trận đánh, phối hợp hỏa lực... Nhưng những phi công lái L-19 lại là những cánh chim đơn độc, đi một ḿnh, về một ḿnh và đến trận địa th́ cũng tự lo lấy thân ḿnh. Nhiệm vụ muốn lo cho hoàn hảo phải bay thật thấp, dưới 2000 bộ, để quan sát cho chính xác, mà hỏa tiển SA-7 của Việt Cộng rất nhẹ, như vơ khí cá nhân, có thể mang trên vai, bắn cao đến 9,000 bộ. Như B-40 biến cải cũng có thể bắn lên tới 4000 bộ rồi...





Đến 11 giờ, ḍng sông Mỹ Chánh hiện ra trước mắt. Đây là một con sông nhỏ, như một lằn ranh giữa hai thành phố Huế và Quảng Trị. Bên kia bờ phía Bắc sông Mỹ Chánh không thấy bóng dáng một người dân. Đại Úy Hoàng chỉ cho tôi các vị trí của quân bạn bên dưới và một đoàn công voa của ḿnh đang di chuyển. Tôi nh́n thấy rơ những đám bụi đỏ bốc lên mù mịt đằng sau mỗi chiếc xe. Chúng tôi đang cách cầu Mỹ Chánh khoảng 4 cây số về hướng Đông. Tôi biết chỉ trong chốc lát chúng tôi sẽ đến quận Hải Lăng. Hải Lăng đằng trước mặt. Chiếc L-19 nhẹ nhàng bay vào vùng đang giao tranh bên dưới.

Tiếng của Đại Úy Hoàng trong mũ nghe:

- Chị nghe tôi rơ không?

- Rơ.

- Chị nh́n qua phía bên phải, bên trong Quốc Lộ 1, xe tăng của Việt Cộng đó, chụp h́nh đi.

Người phi công cho máy bay đảo nhiều ṿng trên cao để quan sát tổng quát t́nh h́nh bạn và địch, đồng thời liên lạc với những đơn vị bên dưới để biết yêu cầu của họ. Tôi vừa quan sát, vừa chụp h́nh, vừa lắng nghe cuộc đối thoại của những đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến với máy bay của tôi:

- Hotel, Hotel, đây Sóng Thần, nghe rơ không, trả lờị

- Tôi nhận bạn 5 trên 5. Có ǵ cho đi.

- Việt Cộng đang nằm trên g̣ mả, xem dùm tôi, trả lời.

- Chờ một chút.

- Nhờ bạn quan sát chính về hướng Đông, Tây Bắc điểm đă chọn.

- Bảo Phong, đây Chung Sơn gọi.

- Tôi đưa nón sắt đến cho bạn đó. Bạn hướng dẫn tôi, trả lời.

- Tôi đă tới ngay nhà thờ mà chưa thấy bạn.

- Hoa Đào, đây Tiêu Lương gọi.

- Đánh dùm tôi cách 100 mét, nghe rơ không, trả lời.

Nhiệm vụ của Đại Úy Hoàng thật đơn giản nhưng thập phần nguy hiểm. Nguy hiểm là v́ bên dưới gặp khó khăn, mới nhờ trên không giải quyết dùm, và nơi nào mà Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến gặp khó khăn, là nơi đó đang đong đưa một lưỡi hái của tử thần.

Qua ống ḍm, tôi thấy một ngôi nhà thờ nhỏ nằm trong vùng giao tranh, trên gác chuông và những cao điểm khác, những ổ súng của Cộng quân đă cầm chân các đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến một cách hữu hiệu. L-19 phải dùng trái khói để đánh dấu những vị trí đó cho phản lực cơ đánh.

Đại Úy Hoàng ra hiệu cho tôi biết phi cơ sẽ xuống thấp để làm nhiệm vụ. Tôi thật sự hồi hộp trong giây phút này, v́ đây là lần đầu tiên tôi theo máy bay ra tận giữa hai lằn đạn của một cuộc giao tranh mà hai bên đang cố gắng đẩy lui đối thủ và giữ từng tấc đất.

Chiếc L-19 xuống thấp rất nhanh bên phần đất của các đơn vị bạn rồi bay thẳng về phía địch. Tôi nh́n rơ bằng mắt những chiến sĩ Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đang tiến công bên dưới như xem phim trên màn ảnh. Họ tiến tới chậm và khó khăn v́ hỏa lực của Cộng quân từ các cao điểm. Chậm nhưng vẫn anh dũng tiến và tiến tới không ngừng. Đại Úy Hoàng đă cho máy bay vào phần đất của địch. Máy bay bay sát trên ngọn cây và những họng súng pḥng không bắt đầu chuyển hướng nhắm vào chiếc L-19.

Chiếc máy bay nhỏ bé khi th́ lượn lờ trên cao như đùa giỡn, khi th́ để thả trái khói cho thật chính xác, đă phải lao xuống thật thấp, xuyên qua những lằn đạn, rồi phóng lên cao và lại nhào xuống như vậy nhiều lần. Những giây phút đó mới thấy sự phối hợp nhịp nhàng, hữu hiệu của Không Quân. Trong khi chiếc L-19 cố gắng xuống thấp, đến gần để ghi dấu vị trí địch bằng trái khói, th́ đằng xa, những chiếc phản lực đang đảo ṿng, gầm thét thị uy. Và khi chiếc L-19 vừa cất ḿnh lên cao nhường chỗ, th́ những chiếc phản lực như những con diều hâu đă thấy mồi, lao xuống mục tiêu như một mũi tên. Địch thừa hiểu L-19 chỉ đâu, phản lực đánh đó, nên hầu hết các ổ súng đă châu lại nhả đạn vào chúng tôi cùng một lần.

Đại Úy Hoàng đang cố gắng xuống thấp hơn để ghi dấu một ổ súng pḥng không của địch. Đă bao lần tôi thấy rơ là phi cơ sẽ trúng đạn, nhưng rồi vẫn tránh được. Vừa bị một tai nạn xe trầm trọng năm ngoái, sức khỏe của tôi chưa được b́nh phục, nên sau một hồi phi cơ bay lên, nhào xuống, gan ruột tôi cảm thấy nhộn nhạo. Và lần này, khi tôi vừa kịp thấy một màn lưới lửa từ dưới đất xẹt lên hướng máy bay chúng tôi, Đại Úy Hoàng đă nhanh nhẹn đưa phi cơ ngược lên trời như một mũi tên để tránh. Sự thay đổi độ cao và áp suất bất ngờ đó làm cho tôi không c̣n cố gắng hơn được nữa.

Trước khi ngất đi, tôi c̣n nghe văng vẳng tiếng của người phi công hỏi tôi:

- Chị Duyên, chị Duyên, nghe tôi rơ không, trả lời.

Tôi muốn nói, "Đại Úy cứ tiếp tục phi vụ," nhưng h́nh như tôi không nói được. Tôi biết lúc đó máy bay của tôi chỉ mới thực hiện được 48 phút bay, và t́nh h́nh bên dưới làm cho Đại Úy Hoàng trong một lúc h́nh như quên mất sự hiện diện của tôi trên máy bay.

Khoảng 15 phút sau, tôi có cảm giác như máy bay đang ở trên một mặt phẳng, không c̣n nhào xuống rồi vút lên như trước nữa và tiếng người phi công lại vang lên trong mũ nghe:

- Chị Duyên, chị Duyên, chị tỉnh lại rồi phải không? Ngả về đằng sau, nhắm mắt một lát cho khỏe.

Tôi dùng ngón chân ấn nhẹ lên chiếc nút dưới sàn tàu:

- Cứ bay hết giờ nghe Đại Úy.

Tuy nói vậy, nhưng bay đến phút thứ 150 th́ tôi lại muốn ngất đi như trước. Chiếc mũ bay vẫn chụp trên đầu, nên trong trạng thái mơ màng, tôi c̣n nghe những lệnh lạc, những lời gọi khẩn cấp, những câu cự nự nhau và cả những tiếng chửi thề. Có những câu nói chưa trọn đă im bặt, có lẽ bởi một viên đạn nào đó... Tôi biết ḿnh đă phí mất những giây phút quư báu này. Sau một phi vụ dài hai tiếng rưỡi với L-19, những dự tính tháp tùng bay theo khu trục A-37 và phản lực F-5 của tôi đă tan theo mây khói v́ tự hiểu sức khỏe của ḿnh không thể nào theo được.

Phi cơ trở về lại phi trường Phú Bài, một số những người quen biết trong Biệt Đoàn đến chúc mừng tôi b́nh yên sau những giờ bay nguy hiểm trên chiến trận. Đại Úy Hoàng vừa rời pḥng lái là vội vă đi ăn cơm trưa. Ăn xong lại lên máy bay bay tiếp. Một phản lực cơ của ta bắn cháy 3 chiến xa của địch, Đại Úy Hoàng được lệnh bay đến chụp h́nh. Người phi công lần này vai mang máy ảnh có gắn telé, ông vẫy tay chào và nói:

- Bắn cháy chiến xa th́ phải chụp h́nh chứ để người ta không tin.

Từ phi trường Phú Bài, tôi xin vào Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương Huế nằm tĩnh dưỡng một vài hôm trước khi tiếp tục loạt phóng sự cho chiến trường Trị Thiên. Trong quân y viện, đêm đêm không ngủ được, tôi nằm lắng nghe và đếm từng chuyến trực thăng tải thương về. Cứ mỗi giây, mỗi phút, bao nhiêu người đă hy sinh cho đất nước?

Làm một việc ǵ với tất cả nhiệt t́nh của ḿnh, th́ cuối cùng cũng có một phần thưởng, dưới bất cứ một h́nh thức nào đó. Với những loạt phóng sự và h́nh ảnh sống động trong chuyến đi này, tôi được sự tán thưởng của độc giả. Điều đó xem như là một khích lệ đối với cá nhân tôi, một nữ phóng viên chiến trường đă đi và viết ngay trên chiến địa như vậy. Những khen tặng chút can đảm đó của tôi thật chẳng xứng đáng ǵ so với sự quả cảm và hào hùng của những chiến sĩ đang mặt đối mặt với quân thù bên dưới, và của những người vẫn vào sinh ra tử trên ngàn bộ cao với đôi cánh chim bằng mà một lần tôi đă trực tiếp chi xẻ từng cảm xúc.


Kiều Mỹ Duyên

hoanglan22 11-30-2018 04:46

LỜI THỀ bên bờ sông Mỹ Chánh
 
1 Attachment(s)
Khoảng lúc 12 giờ trưa ngày 30 tháng 3 năm 1972, những đơn vị tiền phương của Cộng quân tràn qua sông Bến Hải, vượt vùng phi quân sự, tấn công quy mô vào miền Nam, mục tiêu đầu tiên là tỉnh Quảng Trị. Lực lượng gồm hai sư đoàn chính quy là Sư Đoàn 304, Sư Đoàn 308 và 4 trung đoàn bộ binh biệt lập, hai trung đoàn chiến xa, gồm hơn 400 chiếc, là Trung Đoàn 203 và Trung Đoàn 204; hai trung đoàn pháo binh, Trung Đoàn 38 Pháo và Trung Đoàn 84 Tên Lửacùng với nhiều đơn vị yểm trợ khác.

Ngay giây phút đầu, các căn cứ hỏa lực của Sư Đoàn 3 Bộ Binh và của các đơn vị tăng phái Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến ở Camp Caroll, Mai Lộc, Sarge, Núi Bá Hô, căn cứ Alpha 2 và Alpha 4, Charlie 1 và Charlie 2 cũng như thị trấn Đông Hà và thành phố Quảng Trị đều bị những trận pháo phủ đầu rất khốc liệt. Sư Đoàn 308 của Cộng quân sau khi vượt qua sông Bến Hải, tiến thẳng vào các căn cứ hỏa lực Fuller, Alpha 2, Charlie 1 và Charlie 2, rồi vượt qua sông Cam Lộ để tiến về Đông Hà, Ái Tử, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai chỉ huy. Sư Đoàn 304 của Cộng quân sau khi qua sông Bến Hải, đánh bọc từ hướng Tây vào các căn cứ hỏa lực Sarge, Núi Bá Hô, Mai Lộc, Thung Lũng Ba Ḷng để tiến về thành phố Quảng Trị.

Những loạt pháo kích đầu tiên của Cộng quân vào thành phố Quảng Trị khiến cho dân ở đây bàng hoàng khiếp sợ. Không phải như những đợt pháo kích lẻ tẻ dăm ba chục trái mà trước đây vẫn thường như cơm bữa. Lần này th́ không ai c̣n đủ b́nh tĩnh để đếm là bao nhiêu trái đạn và hỏa tiễn đă trút lên thành phố thân yêu của ḿnh. Họ linh cảm được sự chết chóc và tang thương đang kề cận.

Những ngày đầu của tháng 4, nếu đứng ở trạm kiểm soát An Hoà, cửa vào mặt Bắc của thành phố Huế, người ta thấy đă có những gia đ́nh từ Quảng Trị di chuyển về Huế, và mức độ này ngày càng tăng lên. Kể từ giữa tháng 4 trở về sau, những chuyến xe đ̣ từ Quảng Trị vào, trên xe đều có một số gia đ́nh di tản. Thỉnh thoảng mới thấy một gia đ́nh di tản bằng xe nhà, họ thuộc vào những gia đ́nh khá giả. Những người di tản sớm, mang theo được nhiều của cải cùng những đồ dùng cho gia đ́nh giống như dọn nhà chứ không phải là chạy giặc.



H́nh chụp một đơn vị Cọp Biển VNCH tại Cổ Thành Quảng Trị, 1972

Đại Úy Ripley kể lại trong hồi kư của ông, những điều mà chính ông đă nh́n thấy, đă làm cho ông thật sự cảm phục và ông cho rằng chưa chắc cả một đời binh nghiệp của một quân nhân nào có dịp chứng kiến được sự dũng cảm của một người lính chiến như vậy: "Anh ta chính là người lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam mà tôi đă gặp hai ngày trước. Lúc đó anh lính trẻ này đă bị thương 7 lần trong ṿng bốn ngày. Vết thương nặng nhất là vết thương sau lưng, phía gần trên cổ. Vậy mà bây giờ anh đă trở lại đây, tại chiến tuyến này, súng trong tay và đang chiến đấu bên các đồng đội của anh."
(tài liệu: Chinh Chiến Điêu Linh)
Vào những ngày cuối tháng 4, trận chiến đă đến hồi đẫm máu. Cộng quân pháo đạn đại bác 130 ly vào các căn cứ Ái Tử, Đông Hà và thành phố Quảng Trị như mưa trút nước. Những người di tản trong lúc này ngay cả sinh mạng cũng khó giữ toàn vẹn, chứ đừng nói đến của cải. Địch quân đă nỗ lực cắt Quốc Lộ 1 để cô lập Quảng Trị. Bởi vậy, càng thấy Quảng Trị sắp bị cô lập, người dân Quảng Trị bằng mọi giá cố gắng chạy thoát về Huế. Họ bỏ nhà cửa, ruộng vườn, của cải, chỉ mong chạy thoát thân được là phước đức.

Buổi sáng, sau khi gửi bài về toà soạn, tôi đến thăm đồng bào từ Quảng Trị chạy về Huế. Họ mới về đây đêm qua và hiện đang tạm trú ở trường trung học quận Hương Trà và ở các trường tiểu học quận Phú Vang. Ông già, bà già và trẻ con ngồi bẹp giữa sân trường, trên các băi cỏ v́ quá mệt mỏi.

Tiếng loa phóng thanh vang lên không ngừng, những lời kêu gọi, những thông cáo, nhắn tin... Trường trung học Hương Trà bỗng chốc đă biến thành trại tị nạn Cộng Sản, tiếp nhận những người mới thoát về được đêm hôm qua và một số mới đến sáng nay. Trên một khoảng sân gần cổng trường, các sơ và sư cô đang phát quà không ngừng tay. Quà này do cơ quan Caritas mang đến, mỗi phần là một gói áo quần nhỏ. Các sơ cho biết, đây là áo quần cho trẻ em. Các sơ đại diện cho Caritas, các sư cô đại diện cho Hội Phật Giáo Thừa Thiên, tặng mỗi người $50. Kế bên là Chi Y Tế quận Hương Trà cũng đang phát thuốc cho đồng bào. Không thấy bóng dáng của Hội Hồng Thập Tự Việt Nam đâu cả, mặc dầu hội này có trụ sở tại Huế.

Một người đàn bà tóc tai rũ rượi, nét mặt hốc hác v́ quá mệt mỏi, bế một đứa bé đang khóc ngất, đến trước mặt tôi xin tiền mua sữa:

- Cô ơi, cha của cháu chết trận rồi. Mẹ th́ mới chết v́ đạn Việt Cộng pháo kích trên đường chạy vào đâỵ Bây giờ tôi phải lănh nuôi nó...

Tôi dúi nhanh những tờ giấy bạc vào tay người đàn bà để cho chị khỏi kể lể nữa. Hoàn cảnh của chị ngay trong giây phút này, không cần phải kể lể để được một sự giúp đỡ nhỏ nhặt như vậy, mà cũng như những đồng bào đang có mặt ở đây, họ phải được sự thông cảm và chia xẻ của những người đang sống an lành.

Cuộc chiến tại các căn cứ hỏa lực bảo vệ cho Quảng Trị vẫn diễn ra rất tàn khốc. Một trong các căn cứ hỏa lực đó như căn cứ Pedro, nằm về phía Tây của thành phố Quảng Trị và bên bờ Bắc của sông Thạch Hăn, được trấn giữ bởi khoảng 200 Thủy Quân Lục Chiến, đă chiến đấu anh dũng đến độ những quân nhân Mỹ ở đây đă chứng kiến và mệnh danh cho trận đánh tại căn cứ này là "Vietnamese Alamo."

Đại Úy Ripley kể lại trong hồi kư của ông, những điều mà chính ông đă nh́n thấy, đă làm cho ông thật sự cảm phục và ông cho rằng chưa chắc cả một đời binh nghiệp của một quân nhân nào có dịp chứng kiến được sự dũng cảm của một người lính chiến như vậy:

"Anh ta chính là người lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam mà tôi đă gặp hai ngày trước. Lúc đó anh lính trẻ này đă bị thương 7 lần trong ṿng bốn ngày. Vết thương nặng nhất là vết thương sau lưng, phía gần trên cổ. Vậy mà bây giờ anh đă trở lại đây, tại chiến tuyến này, súng trong tay và đang chiến đấu bên các đồng đội của anh."

Trận chiến không phải một hai ngày là dứt. Trận chiến kéo dài. Địch tấn công như vũ băo. Các binh sĩ Việt Nam Cộng Ḥa chống trả bằng mọi giá, một chống bốn, có nơi địch gấp mười. Những người lính của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, Biệt Động Quân và Thủy Quân Lục Chiến chiến đấu trong các hố cá nhân, ăn, ngủ ngay trong giao thông hàọ Những chiếc ponchos căng trên đầu che mưa, che nắng. Họ sống giữa bom đạn, cát bụi và bùn lầy. Họ sống trong những giây phút chờ đợi, căng thẳng và ḷng quyết chiến.

Những trường học của thành phố Huế và các quận ven biên đă thành những trại tị nạn tạm thời. Chỉ trong một thời gian ngắn, các trung tâm này đă đầy nghẹt đồng bào từ vùng bom đạn chạy về. Sự cứu trợ của chính quyền và các cơ quan từ thiện không thể nào đáp ứng nổi với t́nh h́nh. Người lớn và trẻ con ăn gạo sấy không cần nước, cứ xé bịch ni lông xong là đổ gạo ra ḷng bàn tay, cho vào miệng nhai một cách ngon lành v́ họ đă quá đói sau bao nhiêu ngày gian khổ, thoát chết biết bao nhiêu lần mới đem được cái mạng về đây.

Tôi thật xúc động khi nh́n một em bé chừng ba tuổi vừa ch́a tay nhận hộp sữa là đưa lên miệng nút, mà không biết rằng hộp sữa chưa khui. Cái cử chỉ vô thức đó biểu lộ sự đói khát đă lâu của đứa bé.

Những người mới đến, đàn bà th́ ống quần xắn cao lên quá đầu gối, trên vai mỗi người một gánh nhỏ gồm áo quần và những thứ cần thiết. Có người gánh theo được mấy lít gạo. Có người chẳng có ǵ trong gánh, chỉ mỗi đầu là một đứa con nhỏ. Những đứa bé ngồi gọn lỏn trong thúng, nước mắt nước mũi chảy dài, lem luốc cát bụi, hai tay giăng ra vịn chặt vào vành thúng để khỏi văng ra ngoài mỗi khi người mẹ di chuyển, hoặc qua những đoạn đường mà người mẹ phải vừa gánh vừa chạy cho kịp với đoàn người tị nạn, hoặc là những đoạn đường gặp Việt Cộng, chúng châu súng lại pháo ngay trên đầu. Có đứa bé chẳng cần biết trời trăng ǵ, hoặc có thể là đă lả người v́ mệt và đói khát, nằm khoanh tṛn trong thúng mà ngủ.


Nhưng đă hàng trăm, hàng ngàn người bỏ xác lại bên đường hoặc vẫn cố lết đi với những vết thương không được băng bó v́ đạn pháo kích của Cộng quân bắn như mưa vào đám người đang cố chạy vào phương Nam. Họ chỉ thấy được t́nh người khi đi qua chỗ những đơn vị của Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân. Những người lính Thủy Quân Lục Chiến trút hết tiền bạc, lương thực và cả nước uống cho những nhóm nào đi ngang qua gần họ. Những người chiến sĩ này không cầm ḷng được trước cảnh đau thương đó. Họ muốn trao hết những ǵ sở hữu mà họ đang mang trên người cho đồng bào khốn khổ của ḿnh, trước khi trao mạng sống của họ cho Tổ Quốc trên chiến địa.


Tôi ngạc nhiên khi thấy một số các người lớn tuổi đều mặc áo quần màu trắng. Hỏi mới biết là họ đă kinh nghiệm mấy lần chạy giặc trong đời rồi, nên cẩn thận, mặc như vậy máy bay của ta khỏi oanh tạc lầm.

Khi những người dân Quảng Trị đầu tiên chạy vào Huế, th́ người dân Huế bắt đầu theo dơi t́nh h́nh chiến sự từng giây, từng phút. Và những người lo xa đă sớm bỏ Huế chạy vào Đà Nẵng. Rồi Huế bị pháo kích. Thoạt đầu, Cộng quân pháo vào đồn Mang Cá, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh và sân bay Thành Nội. Sau đó pháo bừa cả vào phố xá và nhà của dân. Cánh cửa mặt Nam của thành phố Huế tức là ngơ vào Đà Nẵng, như bỗng nhiên mở toang ra. Từng đoàn xe của người đi lánh bom đạn nối đuôi nhau trên Quốc Lộ 1, hướng vào Đà Nẵng. Và đă có nhiều người không chết v́ bom đạn, nhưng chết v́ xe lật nhào xuống đèo Hải Vân. Người ta kể rằng, có ngày chiếc xe đầu đoàn mới vào thành phố Đà Nẵng, th́ chiếc cuối c̣n ở tận Lăng Cô, và măi tới ngày sau mới vào Đà Nẵng được, v́ phải qua những trạm kiểm soát để thanh lọc đặc công Việt Cộng trà trộn với dân. Chừng nửa tháng sau, khi thấy Huế vẫn b́nh yên, những người đi tị nạn lại kéo nhau trở về để làm ăn sinh hoạt như trước. Có gia đ́nh khi trở về, đă bị trộm dọn sạch sẽ, không c̣n một đôi đũa để ăn cơm.

Trong lúc đó, cũng trên Quốc Lộ 1, đoạn đường từ Quảng Trị vào Huế vẫn c̣n hàng ngàn, hàng ngàn người, di chuyển thành một đoàn dài cả mấy cây số, toàn là ông già, bà già, đàn bà và trẻ con, họ đang cố gắng bỏ xa vùng trận chiến. Nhưng đă hàng trăm, hàng ngàn người bỏ xác lại bên đường hoặc vẫn cố lết đi với những vết thương không được băng bó v́ đạn pháo kích của Cộng quân bắn như mưa vào đám người đang cố chạy vào phương Nam. Họ chỉ thấy được t́nh người khi đi qua chỗ những đơn vị của Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân. Những người lính Thủy Quân Lục Chiến trút hết tiền bạc, lương thực và cả nước uống cho những nhóm nào đi ngang qua gần họ. Những người chiến sĩ này không cầm ḷng được trước cảnh đau thương đó. Họ muốn trao hết những ǵ sở hữu mà họ đang mang trên người cho đồng bào khốn khổ của ḿnh, trước khi trao mạng sống của họ cho Tổ Quốc trên chiến địa.

Đó là ngày thứ 35, kể từ ngày 30 tháng 3, ngày đầu tiên tràn qua sông Bến Hải, Cộng quân đă chiếm được thành phố Quảng Trị bởi một lực lượng gấp ba lần lực lượng trấn đóng của quân đội miền Nam. Thoạt đầu, Cộng quân tung vào hai sư đoàn chính quy: Sư Đoàn 304 và Sư Đoàn 308 với sự yểm trợ của hai trung đoàn pháo binh nặng và hai trung đoàn chiến xa để thực hiện giai đoạn một là đánh bật các căn cứ hỏa lực đang làm thành một hàng rào dọc vùng phi quân sự. Vào khoảng gần cuối tháng 4, Sư Đoàn 320 của Cộng quân mới đến thay thế cho hai sư đoàn kia nghỉ mệt, và đánh chiếm Cam Lộ, La Vang, Hải Lăng, hoàn tất giai đoạn hai. Cuối tháng 4, Sư Đoàn 325 của Cộng quân tiến vào, bắt đầu giai đoạn 3, đánh chiếm Quảng Trị.

Trong lúc đó, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa chỉ có Sư Đoàn 3 Bộ Binh với các đơn vị yểm trợ gồm có Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Địa Phương Quân, tổng cộng khoảng hai sư đoàn. Hai chống với năm và phải chiến đấu liên tục cả tháng trời, chứ không được thay chân theo chiến thuật "lấy khoẻ đánh mệt" như địch quân. Vậy mà những chiến sĩ trấn đóng tại ải địa đầu đă anh dũng giao chiến, cầm cự suốt cả tháng dưới những trận mưa pháo tưởng chừng như không cất đầu lên được.

Đại Tá Gerald H. Turley, Cố Vấn Trưởng của Sư Đoàn 3 Bộ Binh đă viết lại trong cuốn The Easter Offensive những giây phút cảm khái của Thiếu Tá Bob Sheridan, một cố vấn quân sự của Thủy Quân Lục Chiến, những giây phút mà ông nhớ măi bên bờ sông Mỹ Chánh:

Buổi trưa ngày 2 tháng 5, Đại Tá Phạm Văn Chung, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến và những sĩ quan tham mưu của ông dừng lại bên bờ phía Nam sông Mỹ Chánh. Đại Tá Chung đứng yên lặng buồn bă nh́n đoàn người tị nạn đang chen nhau vượt qua cầu Mỹ Chánh, đổ vào thành phố Huế. Cây cầu nhỏ chỉ dài chừng vài chục thước. Qua khỏi cây cầu đó là đă vào vùng an toàn. Chừng một giờ sau, khi đoàn người đă qua sông và xuôi về phương Nam, Thiếu Tá Bob Sheridan quay lại hỏi Đại Tá Chung:

- Đại Tá, mọi người đă đi hết rồi. Bây giờ chúng ta làm ǵ đây? Có lui vào trong đó không?

Đại Tá Chung quay lại nh́n người sĩ quan Hoa Kỳ và nói với một giọng cương quyết:

- Không, không. Chúng ta không lui nữa. Chúng ta là những chiến sĩ, chúng ta ở lại đây, bên bờ sông này để chận địch. Sẽ không có một tên Việt Cộng nào có thể vượt qua sông Mỹ Chánh mà c̣n mạng sống trở về.

Lời nói sắt đá của Đại Tá Chung y như một lời thề. Cộng quân bằng mọi nỗ lực cũng không vượt qua được pḥng tuyến trấn giữ bởi Lữ Đoàn 258 và Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến. Và đúng như lời của người quân nhân hơn nửa đời trải qua bao trận mạc, những ngày sau đó khi các đơn vị Dù và Thủy Quân Lục Chiến mở những đợt phản công, máu quân thù đă đổ xuống bên bờ sông Mỹ Chánh.

Quảng Trị mất, cả miền Trung bàng hoàng, rúng động. Ngày 3 tháng 5 năm 1972, Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm đương kim Tư Lệnh Quân Đoàn 1/Quân Khu 1 được lệnh bàn giao chức vụ lại cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, đương kim tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu 4 để vào Saigon giữ một chức vụ không quan trọng.

Tin Trung Tướng Ngô Quang Trưởng về chỉ huy Vùng 1 như một luồng sinh khí thổi vào miền Trung. Quân và dân đều một ḷng tin tưởng. Họ tin cậy vị tướng này không phải chỉ bằng vào những bài báo trong và ngoài nước đă từng ca ngợi và đánh giá ông như một danh tướng, hoặc qua những lời truyền tụng trong quân đội miền Nam, mà chính người dân và những người lính trú đóng tại Miền Hoả Tuyến này đă chính mắt nh́n thấy những khả năng và đức độ của ông, khi ông c̣n là Tư Lệnh của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đánh bại Cộng quân trong lần Tết Mậu Thân để chiếm lại Kinh Đô Huế.

Người ta cho rằng Tướng Ngô Quang Trưởng trở lại Huế hôm nay, cũng như Tướng De Lattre De Tassigny của Pháp đến Hà Nội năm 1950 để cứu nguy Hà Nội khi t́nh h́nh của thành phố này đang bị Việt Minh đe dọa trầm trọng.

Vừa đặt chân đến Đà Nẵng, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, việc đầu tiên của Tướng Trưởng không phải là chuyện phản công đánh địch ngay, mà là vấn đề được ông coi như hàng đầu, đó là củng cố tinh thần binh sĩ. Tướng Trưởng làm việc gần như 24/24 giờ mỗi ngàỵ Không có đơn vị nào mà ông không đến thăm. Cho đến một trạm kiểm soát ở Lăng Cô, dưới chân đèo Hải Vân, chỉ có hai nhân viên Quân Cảnh và một nhân viên Cảnh Sát, mà Tướng Trưởng cũng đáp trực thăng xuống bên đường và bước vào hỏi han công việc. Những chuyện đó được loan truyền rất nhanh trong các đơn vị, ngoài dân chúng và tạo thành niềm tin.

Cả thành phố Huế kinh hoàng chờ chạy giặc, bỗng như quên mất địch quân đang tập trung lực lượng để chuẩn bị đánh thốc vào pḥng tuyến Mỹ Chánh. Quân nhân thuộc mọi binh chủng quân phục tươm tất, tóc hớt ngắn như thời b́nh. Đơn vị trưởng th́ luôn luôn có mặt tại đơn vị, v́ không biết ông Tướng bất thần ghé thăm vào bất cứ lúc nào. Và tinh thần quân dân cán chính lên cao, bừng bừng một ư chí đẩy lui địch quân, lấy lại những vùng đất đă mất.

Ngày 13 tháng 5 năm 1972, một lực lượng gồm có Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng vận đă bất thần đổ xuống ngay trên đầu địch quân tại quận Hải Lăng, một quận về phía Nam của thành phố Quảng Trị. Đây là cuộc phản công đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa từ bên này pḥng tuyến sông Mỹ Chánh. Cuộc phản công bất ngờ và sấm sét đó đă tiêu diệt gần trọn đơn vị của Cộng quân đang chiếm đóng quận này. Một số đồng bào c̣n kẹt trong quận Hải Lăng, nay được giải thoát đă vội vă t́m đường chạy ra khỏi vùng lửa đạn.

Rồi những đợt tấn công khác do các đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến từ sau pḥng tuyến Mỹ Chánh tung ra. Một kế hoạch phản công toàn diện đă được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh chiến trường, soạn thảo. Và ngày 28 tháng 6 năm 1972, cuộc Hành Quân Lam Sơn 72 bắt đầu. Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến có nhiệm vụ càn quét địch quân dọc Quốc Lộ 1 ra tận ven biển, "đóng nút" Cửa Việt không cho địch tiếp tế vào Quảng Trị bằng đường biển. Lực lượng Nhảy Dù càn quét theo Quốc Lộ 1 vào tận chân núi của rặng Trường Sơn, ngăn chận viện quân của địch từ Lào kéo qua. Và cuối cùng mục tiêu của hai lực lượng là thành phố Quảng Trị. Những chiến sĩ Dù và Thủy Quân Lục Chiến khi vượt qua ḍng sông Mỹ Chánh, mặc dù không ai nói với ai, nhưng trong ḷng tựa hồ như đă có một lời thề, thề phải dựng lại lá cờ vàng ba sọc đỏ trên Cổ Thành Quảng Trị với bất cứ giá nào!

Trận chiến lần này khốc liệt đến mức những phóng viên chiến trường, kể cả các phóng viên ngoại quốc đều được lệnh phải ở xa các đơn vị đang giao tranh. Nhanh chân nhất là Barney Seibert, phóng viên chiến trường của UPI, đă bám theo các đơn vị Dù, nhưng khi c̣n cách Quảng Trị 6 cây số nữa th́ các sĩ quan chỉ huy đă bắt ông phải dừng chân, và đó là lệnh chung cho tất cả phóng viên báo chí và truyền h́nh. Bởi vậy, những ngày đầu cuộc phản công của quân ta, những tin tức chi tiết về chiến trường, giới truyền thông trong và ngoài nước không thu nhận được bao nhiêu.

Các phóng viên chiến trường mỗi người tự ḿnh t́m lấy phương cách riêng để đến sát nơi giao tranh hơn. Anh Nguyễn Tú, phóng viên của báo Chính Luận, quá giang xe jeep của Bác Sĩ Bùi Thế Cầu, Y Sĩ Trưởng của Tiểu Đoàn 5 Dù và Trung Tá Lê Thành Điểm từ Mỹ Chánh đến La Vang. Khi đến cầu Trường Phước, nơi bị pháo kích nhiều nhất, cách La Vang chừng 500 thước, xe jeep bị trúng một quả đại bác 130 ly của Cộng quân. Xe nổ tung, tài xế chết ngay, những người trên xe đều bị thương nặng.

Đồng bào về đây đa số ở xă Lăm Thúy thuộc quận Hải Lăng. Họ họp nhau từng toán, đi bộ suốt đêm, sáng hôm sau mới t́m đến chỗ của Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân. Những chiến sĩ Cọp Biển này dang tay đón đồng bào vừa thoát khỏi vùng địch đóng. Tôi hỏi một ông cụ tóc đă bạc phơ, trên khuôn mặt nhăn nheo c̣n đầy những nét đau đớn xúc động bởi những cảnh tang thương bỗng đâu xảy đến trong những ngày vừa qua, cụ đứng ngơ ngác một ḿnh giữa đám đông:

- Thưa cụ, sao măi đến bây giờ cụ mới về đây?

- Việt Cộng không cho dân đi. Bỏ đi th́ chúng pháo ngay trên đầu, bởi vậy nhiều người chết lắm, cô ơi! Sợ pháo, sợ chết, nhưng không muốn sống trong vùng của chúng, nên nhiều lúc dẫm lên xác chết mà chạy.

- Gia đ́nh, con cháu của cụ có ở đây không?

- Thằng con trai lớn của tôi đi lính, không biết bây giờ đang đánh trận ở đâu. Con dâu và hai cháu bị lạc mất giữa đường, không biết c̣n sống hay chết.

Và cách chỗ tôi đứng chừng 10 mét, hai người lính Thủy Quân Lục Chiến đang thuyết phục một người đàn bà đưa đứa con nhỏ đă chết từ đêm hôm qua v́ trúng mảnh đạn pháo cho họ chôn cất. Người đàn bà ngồi bẹp dưới gốc cây, hai tay ôm chặt xác đứa con trong ḷng, hai mắt thất thần nh́n thẳng vào khoảng không, như chẳng nghe ai đang nói ǵ với ḿnh.

Mấy hôm nay, những đoàn quân Dù và Thủy Quân Lục Chiến đang trên đường tiến về thành phố Quảng Trị. Những người dân ở Huế có bà con c̣n kẹt lại trong vùng địch đóng theo dơi tin tức chiến sự hằng ngày với hy vọng sớm liên lạc với bà con của ḿnh. Huế và Đà Nẵng đang bị pháo kích dữ dội. Ngày 2 tháng 7, mới sáng hừng đông, Cộng quân đă pháo 20 trái đạn đủ loại vào Huế, ngay đường Tăng Bạt Hổ, là một khu toàn dân cư. Ngày hôm sau lại chịu thêm một trận pháo kích liên tục trong 25 phút làm cho 50 người dân thiệt mạng, hàng chục người bị thương. Ngày 14, Đại Nội lại bị 43 trái hỏa tiễn 122 ly vào buổi sáng. Buổi trưa bị một đợt pháo khác trên đường Lê Văn Duyệt và buổi chiều, trường Nông Lâm Súc bị đạn sơn pháo 130 ly.

Một số dân lại bỏ Huế chạy vào Đà Nẵng. Trong lúc đó, đồng bào ở trong các vùng bị địch chiếm phía Bắc sông Mỹ Chánh, thấy quân ta tiến ra đánh lui Cộng quân, đă từng đoàn chạy vào Huế. Lại một lần nữa, họ làm bia cho Cộng quân nhả đạn. Sự tàn nhẫn và vô nhân đạo của bộ đội Cộng Sản đă được Thiếu Tá Bob Sheridan, cố vấn quân sự của Thủy Quân Lục Chiến viết lại trong tờ tŕnh của ông:

"Đoàn người chạy loạn dài hàng cây số, gồm phần lớn là người già, trẻ em và đàn bà đang t́m cách tránh xa vùng giao tranh để xuôi về hướng Nam, thành phố Huế. Vào khoảng buổi trưa, pháo binh của quân Bắc Việt đă tập trung đủ hỏa lực và bắt đầu pháo như mưa vào đoàn người đang di chuyển. Hàng trăm, hàng trăm người chết và bị thương. Nhưng quân Bắc Việt không thể nào ngăn chặn được, đoàn người vẫn tiếp tục tiến vào phương Nam."

Và Thiếu Tá Sheridan ghi nhận những cảm nghĩ riêng của ông, là nếu trước đây, ông có một chút nào đánh giá người lính Bắc Việt, th́ nay sự đánh giá đó đă mất hết.

Áp lực của Cộng quân đang đè nặng trên thung lũng Ashau, phía Tây của thành phố Huế. Điều lo sợ là trong khi đại quân của ta kéo ra Quảng Trị, th́ Cộng quân có thể mưu đồ đánh úp thành phố Huế. Nhưng Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh tuyên bố với các phóng viên tại mặt trận là Sư Đoàn 1 đă bẻ găy toàn bộ kế hoạch đánh chiếm thành phố Huế từ mặt Tây Nam, vùng thung lũng Ashau.

Tướng Phú cho biết, Cộng quân đă tung vào mặt trận Tây Nam Huế hai sư đoàn bộ binh ṇng cốt với một trung đoàn pháo nặng yểm trợ, đó là Sư Đoàn 324B và Sư Đoàn "Quân Khu Trị Thiên." Riêng Sư Đoàn 324B được tăng cường thêm Trung Đoàn 812 là đơn vị mới, chưa hề tham chiến kể từ ngày Cộng quân tràn qua Bến Hải. Theo Tướng Phú, hai sư đoàn này dự mưu đánh Huế bằng một mũi nhọn chọc thủng phía Tây Nam thành phố. Kế hoạch tấn công Huế đă được Hà Nội toan tính từ trước tháng 7. Tuy nhiên, theo Tướng Phú th́ Sư Đoàn 1 đă bẻ găy toàn bộ kế hoạch này. Cộng quân chỉ c̣n thực hiện được các cuộc quấy phá bên ngoài ṿng đai và pháo kích vào Huế cũng như các vị trí pḥng thủ của quân ta mỗi ngày từ 500 đến 1,000 quả đạn và hỏa tiễn mà thôi.

Pḥng tuyến Tây Nam Huế dài khoảng 30 cây số. Các chiến sĩ của Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong thời gian này đă tái chiếm lại tất cả các vị trí chiến lược chung quanh Huế. Ngày 15 và 16 tháng 5, quân ta chiếm lại hai căn cứ Bastogne và Checkmate.

Buổi chiều trời đột nhiên đổ xuống một cơn mưa hè. Chúng tôi được tin một số đồng bào từ Quảng Trị mới chạy vào, hiện đang tạm trú tại trường học của quận Hương Điền mà chưa được một cơ quan công hoặc thiện nguyện nào đến giúp đỡ cả. Tôi cùng với người bạn mượn được chiếc xe cũ. Xe không đèn, lái đi trong đêm mưa. Những con đường của thành phố Huế cũng thiếu ánh đèn, may nhờ xe nổ lớn nên người đi đường nghe mà tránh ra.

Đầu tiên chúng tôi đến gơ cửa trụ sở Hồng Thập Tự, nhưng văn pḥng đóng cửa, tắt đèn, có lẽ những người làm ở đây đă bỏ vào Đà Nẵng rồi chăng? Lái xe qua gơ cửa Hội Thương Phế Binh, gặp Thiếu Tá Mai đương là Chủ Tịch của Hội. Thiếu Tá Mai sốt sắng gọi điện thoại hỏi nhiều nơi, nhưng chẳng ai chịu bán sữa và thuốc tây vào lúc này, v́ lúc đó cũng đă hơn 10 giờ tối Chủ Nhật. Chúng tôi đành trở về.

Sáng hôm sau, mới 6 giờ 30 sáng, chúng tôi vào chùa t́m anh Nguyễn Kinh Châu, đại diện báo Sóng Thần ở Huế. Anh Châu xin vợ 20 ngàn, tôi bỏ thêm 30 ngàn tiền túi cũng mua được một ít sữa hộp. Đến lều báo chí, tôi đă thấy xe của ông Trần Sum, Giám Đốc Đài Truyền H́nh Huế. Ông Sum tiễn anh Nguyễn Thanh Liêm, đang làm cho đài này, và chúng tôi ra tận máy baỵ Ông Sum cũng chính tay vác dùm một thùng sữa đưa lên sàn máy bay rồi mới trở về.

Trời mưa từ đêm hôm qua, nay vẫn c̣n mưa và gió lớn. Trực thăng bay thật thấp khi qua phá Tam Giang. Bên dưới nước sông dậy sóng, và trên bờ, những cồn cát trắng xoá chạy dài trông thật đẹp. Máy bay đáp xuống một băi cỏ hoang gần nơi đồng bào đang tạm trú. Chúng tôi trao sữa tận tay cho những người già, trẻ con và những người bệnh. Các anh Thủy Quân Lục Chiến th́ phát lương khô. Chúng tôi muốn ở lại lâu hơn để hỏi han và nghe kể lể những hoàn cảnh đau thương của những người vừa thoát khỏi vùng địch đóng, nhưng đành từ giă v́ phải quá giang với trực thăng đón Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến về họp ở Bộ Tư Lệnh.

Người ta c̣n nhớ, ngày 1 tháng 5 vừa qua, khi tất cả lực lượng pḥng thủ Quảng Trị rút lui cùng với đồng bào trên Quốc Lộ 1 về Huế, địch quân đă truy kích, bám theo sát để đánh thẳng vào Huế. Trong t́nh huống nguy hiểm đó, Tiểu Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến đă chờ cho quân ta và đồng bào vượt qua, rồi đóng cổng Mỹ Chánh bằng tất cả nỗ lực, quần thảo với Cộng quân suốt một ngày hôm đó, đập tan cái khí thế thừa thắng xông lên của địch và chặn địch ngay bên kia bờ sông Mỹ Chánh.

Khách sạn Hương Giang là khách sạn thanh lịch nhất của thành phố Huế, nằm sát bên bờ sông Hương. Kể từ lúc t́nh h́nh chiến sự của Vùng 1 trở nên sôi động, th́ khách sạn này là nơi họp mặt hầu hết những phóng viên của các báo Việt Nam và ngoại quốc. Buổi sáng, tôi ngồi uống cà phê tại khách sạn Hương Giang với một số anh em các báo khác. Sau khi trao đổi những tin tức chiến sự mới mẻ nhất, chúng tôi chia tay nhau lên đường theo chân các đơn vị đang hành quân ngoài Quảng Trị. Tôi đi theo Tiểu Đoàn 6 Dù đang tiến quân qua sông Thạch Hăn. Anh Nguyễn Thanh Liêm đi theo một cánh quân của Thủy Quân Lục Chiến.

Khi tôi đến, Tiểu Đoàn 6 Dù đang giao tranh với địch bên bờ sông Thạch Hăn. Tiếng súng nổ ḍn khắp nơi. Pháo của địch dội lên đầu như mưa. Đạn 130 ly và hỏa tiễn nổ lùng bùng cả hai tai. Khói súng như một màn sương mỏng ban mai quyện trên mặt nước của ḍng sông Thạch Hăn.

Tôi len lỏi theo các giao thông hào để quan sát chiến trường. Vừa dứt một đợt pháo, tôi ló đầu nh́n lên, phía bên kia giao thông hào, anh Trần Khiêm, nhiếp ảnh viên của CBS cũng vừa nhảy lên khỏi hố, quay lại bấm liền cho tôi một tấm h́nh. Anh Khiêm hiện nay là chủ nhân của Khiêm Photo tại Little Saigon. Cũng lúc đó, một loạt đạn pháo khác đang rít gió bay đến. Anh Khiêm vừa nhảy xuống hố vừa la:

- Kiều Mỹ Duyên, pháo đó, đừng nhô đầu lên nữa!

Hết pháo, tôi lại nhô đầu lên quan sát. Những chiến sĩ Dù đang tiến về phía quân địch. Tiến rất khó và chậm v́ hỏa lực của địch quá mạnh. Tiếng la hét, những lệnh lạc qua máy truyền tin, cùng với tiếng súng nổ không dứt từ hai bên bờ vang vọng suốt một quăng sông dài. Bên bờ phía Nam là quân ta, những chiến sĩ Dù. Bên bờ phía Bắc là quân địch đang bám chặt. Trên trời, máy bay L-19 bay lượn và khu trục A-37 đang gầm thét, thả từng loạt bom xuống, nhiều lúc thật mạo hiểm, v́ giữa ta và địch, một khoảng cách chẳng có bao nhiêu.

Tôi chưa thấy một chiến sĩ Dù nào lui khỏi vị trí của ḿnh. Người trước ngă, người sau tiến lên. Tất cả những thương binh đều được tải thương bằng mọi cách, không bỏ ai ở lại, đó vẫn là một niềm hănh diện của binh chủng này từ trước đến naỵ Nói đến binh chủng Dù, tôi chợt nhớ đến phóng viên chiến trường Gerald Hebert, ông là người Canada gốc Pháp đă từng có mặt tại nhiều cuộc chiến khắp nơi trên thế giới và ông thường nói:

- Tôi thích nhất và cảm phục nhất là binh chủng Nhảy Dù của Việt Nam Cộng Hoà, họ chiến đấu như sư tử.

Khi trận chiến sắp kết thúc th́ trời đă hoàng hôn. Tôi đứng bên bờ sông Thạch Hăn nh́n bao quát khung cảnh của băi chiến trường. Chiến cụ và xác người vương văi khắp nơi. Ḍng sông Thạch Hăn vẫn lặng lờ, không biết có phải máu đă đổ xuống hay là những tia nắng quái của lúc hoàng hôn chiếu hắt lên khiến cho mặt nước có màu đỏ thẫm. Những chiến sĩ Dù c̣n truy kích địch.

Buổi tối trở về Huế, tôi được tin anh Nguyễn Thanh Liêm cùng với hai phóng viên ngoại quốc đă chết khi theo chân một cánh quân của Thủy Quân Lục Chiến đụng trận ở quận Phong Điền. Mới cùng ngồi uống cà phê hồi sáng ở Hương Giang. Mới chia tay và chúc lành cho nhau trước khi đị Buổi tối trở về đă thiếu ba người. Ba người đă bỏ gia đ́nh, bỏ bạn bè, bỏ nghề và cả cái nghiệp của ḿnh, vĩnh viễn ra đi...

Ngày hôm sau tôi lại được tin có thêm 3 phóng viên chiến trường vừa gục ngă trên mặt trận Hải Lăng. Tin điện của các phóng viên bạn gửi về toà soạn: Lúc 15 giờ chiều qua, một phóng viên chiến trường Việt Nam và 2 phóng viên của hệ thống truyền h́nh ABC Hoa Kỳ đă tử thương v́ một loạt đạn AK-47 của quân Bắc Việt tại khu vực ranh giới quận Hải Lăng và quận Phong Điền. Phóng viên Việt Nam là anh Trần Văn Nghĩa của Đài Truyền H́nh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà và hai phóng viên ngoại quốc khi đứng quan sát chiến trường tại ranh giới hai quận này cách Quốc Lộ 1 chỉ có 800 thước, th́ bị một bộ đội Bắc Việt núp gần đó bắn một loạt AK khiến anh Nghĩa gục xuống bên hố cá nhân của tên bộ đội Bắc Việt vừa bắn anh chỉ cách có 2 thước.

Hai phóng viên ngoại quốc cũng chết v́ loạt đạn AK của Cộng quân. Phóng viên Trần Văn Nghĩa năm nay 37 tuổi, một vợ 8 con và mang cấp bậc Trung Sĩ 1 phục vụ cho đài Truyền H́nh Quân Đội từ mấy năm naỵ Hai phóng viên hăng ABC tử thương là Sam Kai Faye và Tonykhool. Phóng viên Sam Kai Faye, có quốc tịch Tân Gia Ba, bị trúng đạn khi anh tiến đến để cứu phóng viên Trần Văn Nghĩa.

Chúng tôi đến bệnh xá của Thủy Quân Lục Chiến để thăm anh Liêm. Anh Liêm nằm đó, trong bọc nylon màu trắng. Người lính làm ở chung sự vụ kéo tấm nylon trên đầu anh xuống. Khuôn mặt anh thật thản nhiên. Tóc anh c̣n ướt và dính cát. Trung Tá Khẩn, Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị nói với chúng tôi:

- Theo lời của một người lính Thủy Quân Lục Chiến kể lại, anh Liêm đang quay cảnh Thủy Quân Lục Chiến vượt sông tiến về phía Bắc. Anh không mặc áo giáp, không đội nón sắt. Một viên đạn ghim vào ngực và anh gục xuống.

Trên đường về mọi người đều im lặng. Anh Nguyễn Thanh Liêm người quận Quế Sơn, Quảng Nam. Anh Liêm nằm xuống gây xúc động trong ḷng những người đă quen biết anh hoặc cùng chung những công việc với anh. Điện thoại gọi đến đài truyền h́nh để chia buồn suốt ngày. Người nhiệt t́nh nhất là Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến.

Xác anh Liêm được mang về an táng tại Đà Nẵng. Chị Liêm ngồi bên quan tài của anh nghẹn ngào nói với tôi:

- Anh vẫn muốn khi đứa con út của chúng tôi được 15 tuổi th́ anh vào chùa xuất gia. Tôi đồng ư với ước nguyện của anh. Nhưng năm nay cháu nó mới có mười hai tuổi th́ anh đă bỏ mẹ con tôi mà đi rồi.

Tôi ngỏ ư xin chị một tấm h́nh của anh để in trên báo. Chị Liêm lắc đầu:

- Mẹ con tôi chạy giặc từ Quảng Trị vào, đâu có mang được cái ǵ.

Tôi nhớ lại một vài lần đi chung trong toán với anh Liêm đến giúp đồng bào tại các trung tâm tị nạn. Trên đường đi, anh ngồi yên lặng. H́nh như từ lúc gặp tôi cho đến khi lên máy bay, anh chưa nói với tôi một lời nào, ngoại trừ cái gật đầu chào khi mới gặp. Dáng người anh cao gầy, có vẻ khắc khổ. Về sau tôi mới biết anh ăn chay trường đă hơn mười năm nay.

Hai hôm sau, ngày 22 tháng 7 năm 1972, phóng viên Gerald Hebert bị một quả đạn pháo của Cộng quân và chết tại Hải Lăng. C̣n nhớ ba tháng trước đây, khi trận chiến B́nh Long mới khởi đầu, ông đă theo Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân nhảy vào thành phố An Lộc. Buổi trưa ngày 13 tháng 4, ông đang đứng giữa đường để chụp h́nh xe tăng Cộng quân tiến vào thành phố th́ bị trúng đạn vào vai. Ông phải trở về Saigon dưỡng thương và tháng 6, khi vết thương đă bớt, ông lại t́m cách trở vào An Lộc lần nữạ Lần này, trước mắt ông, An Lộc đă là những đống gạch vụn, những người ông gặp lần trước đa số đă chết và cả một thành phố, chỉ sau một thời gian ngắn, đă thành địa ngục ở trần gian.

Ông ăn nói từ tốn và tính t́nh rất khiêm nhượng, có vẻ là một giáo sư triết hơn là một phóng viên chiến trường. Ông thường nói với những người quen biết:

- Tôi không sợ nguy hiểm khi làm phóng sự chiến trường, chỉ mong những bài viết và những h́nh ảnh của tôi thu thập được phổ biến đến những người ngoài nước Việt Nam, cho họ thấy sự phi lư và bi thảm của cuộc chiến này. Mấy ai thấy được những sợi dây xích 6 ly đă xích chân người lính Cộng Sản vào những vũ khí nặng hoặc xe tăng của họ? Cuộc chiến tranh nào cũng có sự tàn phá. Nhưng sự tàn phá như ở thành phố An Lộc này là giữa những người cùng dân tộc, khác với sự tàn phá ở thành phố Hiroshima.

cha12 ba 11-30-2018 05:11

Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 3550839)
Cái này về đại lễ của si quan trừ bị có 27 khóa . Khóa cuối cùng đứt bóng

C̣n khóa học theo năm th́ khác .Cuối năm 73 Số SVSQ quá đông nên chuyển qua long thành .Khóa tổng cộng có 4 tiểu đoàn hoặc là 5 . mang khăn theo nhiều màu khác nhau để phân biệt chứ không phải đại lễ:hafppy::hafppy::h afppy:

trật rồi ông bạn,
từ Khóa 23 hay 24 ǵ trở đi xài bộ đồ Kem, Khóa 27 không phải đứt bóng mà chuyễn qua Huấn Luyện theo Mỹ tính Khóa theo năm.
C̣n mấy Khóa sau này đeo khăn ở đâu xin nói rơ...tôi nhiều ban lắm nha...kể cả khóa Bất Khuất....chú Thắng biết tôi đó.
Muốn tham khảo thêm xin vào trang:
www.kbc4100.com
http://kbc4100.com/

hoanglan22 11-30-2018 05:29

Quote:

Originally Posted by cha12 ba (Post 3550889)
trật rồi ông bạn,
từ Khóa 23 hay 24 ǵ trở đi xài bộ đồ Kem, Khóa 27 không phải đứt bóng mà chuyễn qua Huấn Luyện theo Mỹ tính Khóa theo năm.
C̣n mấy Khóa sau này đeo khăn ở đâu xin nói rơ...tôi nhiều ban lắm nha...kể cả khóa Bất Khuất....chú Thắng biết tôi đó.
Muốn tham khảo thêm xin vào trang:
www.kbc4100.com
http://kbc4100.com/

Cha 12 ba ơi hiểu lầm cái tui post rồi .... khóa bất khuất khóa 8 / 72 ... đàn anh trong đó có ông tên dương hay cương ǵ đó đậu thủ khoa ở khóa này

C̣n Ông Thắng có phải là ông Nguyễn hữu Thắng đúng không ..có lẽ quen với ông già vợ tôi khóa 22


Khóa 27 là theo tui nghĩ khóa cuối cùng đứt bóng , năm 68 đă bắt đầu đổi thành số theo số năm và mỗi năm có bao nhiêu khóa học etc ...đó là theo trí nhớ c̣n sót lại , ngay cả bảng tên đeo cũng khác màu để phân biệt khóa đàn anh , khóa đàn em

C̣n đeo khăn làm đại lễ là đúng , đeo khăn phân biệt trong khóa học có mấy tiểu đoàn . Thí dụ như tiểu đoàn 1 , 2 , 3 , 4 xanh vàng tím đỏ đại khái là như vậy chứ không phải đại lễ .

Đeo khăn trắng trên đầu cho ông già vợ tui hơn năm nay rồi . ( h́nh chụp cái đồng hồ và có ảnh ông già vợ tui ) c̣n hỏi đeo ở chỗ nào th́ hơi ngược đời . Bấm vào youtube hay vào trang của Thủ Đức sẽ thấy rơ ngay
Cho nên tui đă post 2 cái khác biệt Đại lễ và các khóa đeo khăn để phân biệt từng tiểu đoàn

COPY : C̣n mấy Khóa sau này đeo khăn ở đâu xin nói rơ...tôi nhiều ban lắm nha...kể cả khóa Bất Khuất....chú Thắng biết tôi đó.

H́nh như ông bạn cho tui là người nói xạo ...Cũng được đi có vào trong Thủ đức mới biết được , Bên binh chủng của ông bạn tui không biết nên không dám nói chỉ POST để vinh danh những người chiến sĩ .

Những huynh trưởng khóa đàn anh viết cho khóa đàn em hiểu thêm về tiểu sử

****

Từ năm 1951 đến năm 1967 mổi năm trường chỉ đào tạo được một khóa và được đánh số từ 1 đến 27. Từ năm trở đi mổi năm phải đào tạo từ 6 đến 8 khóa vá được đánh số thứ tự kèm niên hiệu, ví dụ như 1/68, 2/68, 3/68 v..v... đến khóa 1/75 là khóa tốt nghiệp cuối cùng. Riêng khoóa 2/75 và 3/75 th́ Viên c̣n đang thụ huấn tại trường.
đoạn này v́ số lương SVSQ quá lớn trường thiếu pḥng ốc, sĩ quan cán bộ và huấn luyện viên nên một vài khóa, viên được gọi đến huấn luyên đoạn đầu tại Tâm Huấn Luyện và trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế .
Thời này Trường Bộ Thủ Đức c̣n có nhiệm vụ đào tạo thêm các khóa sau đây:
Khóa Đại đội trưởng
Khóa Bộ cấp
Khóa Huấn luyện viên
Khóa Ḥan hảo Sỉ quan: (Dành cho Sỉ quan có chiến công, nhưng chưa thụ huấn và xuất thân các trường Sỉ quan).
Khóa Sĩ quan Quân y trưng tập: ( Dành cho Bác sĩ, Dược sĩ, Nha sĩ được huấn luyện căn bản quân sự để vào phục vụ trong Quân Đội).
Ngoài ra Trường Bộ Binh Thủ Đuc c̣n đào tạo căn bản quân sự cho các Sinh viên từ Bộ Tư Lênh Không quân, Hải quân và Cảnh sát Quốc gia gởi đến thụ huấn.
Kết quả tổng quát từ ngày thành lập, trường đă đào tạo được 85 khóa gồm: 71 khóa Sĩ quan Trừ Bị thường xuyên và 14 khóa đặc biệt.
Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức đă cung cấp cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa 2/3 Sĩ quan Bộ binh, 80% cán bộ nghành Quân nhu, 89% cán bộ nghành Quân cụ, 95% cán bộ nghành Thiết giáp, 97% cán bộ nghành Pháo binh, 90% cán bộ nghành Công binh.
Đến cuối năm 1973, Truờng Bộ Binh Thủ Đức được chuyển đến căn cứ Long Thành. công tác được hoàn tất vào đầu năm 1974. Đến tháng 4/1975, v́ chiến sự, các sĩ quan đang thụ huấn tại Long Thành lại phải chuyển về trường cũ tại đồi Tăng Nhơn Phú.
Khi Cộng quân tấn công vào trường bằng chiến xa, Sinh viên Pháo binh đă bắn trực xạ làm cháy 2 thiết giáp T54 của Việt Cộng và hai Sinh viên khác dùng lựu đạn lân tinh đốt cháy chiếc thứ 3.
Ngày 1 tháng 5, 1975, lực lượng pḥng thủ của Trường mới chịu buông súng theo lệnh của tướng Dương Văn Minh.

*****

Vả lại Trang Lính mở ra không phải tranh luận , muốn t́m hiểu th́ vào Google gơ vài cái là biết ngay đâu cần nêu danh tánh ra quen người này người kia phải không ông bạn . Hôi thủ đức ở chô tôi ơ vào nhà thờ gặp nhau thường xuyên , khóa đàn anh có khóa đàn em có khóa đồng đế đủ hết

Tui c̣n nhớ ông Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 trong khóa học của tui là Thiếu Tá Tùng ( ông này là Vơ bị đà lạt khóa 20 ) qua dạy ( hiện giờ không biết c̣n hay mất , ông ta ở TX )

Trong năm 73 có tất cả 11 khóa ,Khóa cuối cùng 9/73 của năm để bắt đầu đến khóa 1/ 74 .Tuổi lính của tui chỉ có 1 năm vài tháng th́ đứt bóng luôn cho nên kiến thức hạn hẹp xin đừng chê cười:thankyou:


:hafppy::hafppy::haf ppy:

hoanglan22 11-30-2018 14:46

Trên Vùng Trời TRỊ THIÊN
 
1 Attachment(s)


Những năm trước Tết Mậu Thân, khi dấu binh lửa chưa tràn vào đất Thần Kinh, th́ phi trường Phú Bài nằm về phía Nam của thành phố Huế độ 10 cây số là một phi trường dân sự nhỏ và có một khung cảnh trầm buồn như phi trường Liên Khương của Đà Lạt vậy. Rồi theo nhịp độ của cuộc chiến, khi mà hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên trở thành miền Hoả Tuyến, làng Phú Bài trở thành một căn cứ quân sự lớn của Mỹ và phi trường Phú Bài được tu bổ thêm để có khả năng cung ứng như một phi trường quân sự. Một số dân làng chung quanh, xưa nay vẫn sống bằng nghề chằm nón, chiếc nón bài thơ của người gái Huế, nay bỏ khung, bỏ chỉ, chạy theo mua bán đồ Mỹ từ PX, đổi đô la xanh, đô la đỏ, đổi luôn cả cuộc sống b́nh lặng của một làng quê thuở thanh b́nh của những người dân hiền hoà.

Biệt Đoàn Tiền Phương đóng ở Phú Bài. Cái tên của đơn vị Không Quân này nghe thật xa lạ với người dân Saigon, nhưng lại rất quen thuộc với những đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân... Trên chiến trường Trị Thiên, Biệt Đoàn Tiền Phương là đơn vị yểm trợ phương tiện chuyển vận cho tất cả các đơn vị đang hành quân tại đây. Biệt Đoàn gồm có phi cơ quan sát L-19 và trực thăng. Tôi đă có dịp đi theo một chiếc L-19 đến tận vùng giao tranh để hiểu rơ nhiệm vụ, thấy rơ những hiểm nguy của họ. Cũng như phía trực thăng, có trực thăng vơ trang, trực thăng tải thương, trực thăng đổ quân v.v... và thường họ là những anh hùng bị lăng quên.

Biệt Đoàn Tiền Phương do Thiếu Tá Diệm chỉ huy. Trực thuộc Biệt Đoàn của Không Đoàn 51 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 1 Không Quân, do Trung Tá Đặng Văn Phước làm Không Đoàn Trưởng. Nhớ một lần đă lâu lắm rồi, tôi có hẹn đến thăm Không Đoàn 51. Đúng giờ hẹn, tôi đến pḥng hành quân đợi một hồi lâu mới thấy Trung Tá Phước đáp trực thăng xuống, tay xách nón bay đi vào. Trung Tá Phước dáng người cao lớn, tính vui vẻ, bộc trực. Vừa gặp tôi, ông nói:
- Tôi vừa bay tải thương về. Hôm nay đánh nhau cả ngày. Mấy em út của tôi vừa mới ra phố ăn cơm th́ lại gọi tải thương nữa, tôi phải đi thay. Phải chi cô đến sớm tôi cho cô theo cho biết.
Tôi hiểu ông muốn nói ǵ. Người ta thường ca tụng những chàng phi công của khu trục A-37 hoặc phản lực F-5, oai hùng từ trên cao phóng xuống, trút những loạt bom nổ long trời lở đất trên đầu địch, chứ mấy ai nhắc nhở đến những phi công có nhiệm vụ tải thương, mặc dù họ vẫn hằng ngày bay trên những lằn đạn của quân ta và quân địch, cố gắng t́m một "lỗ hổng" giữa màn lưới lửa đó để lao xuống, giựt lại mạng sống của những thương binh trong tay tử thần.

Tôi nhớ một lần, Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng Chinook bốc từ căn cứ và đổ xuống Triệu Phong, một quận nằm về phía Đông Bắc của thành phố Quảng Trị. Theo tin tức t́nh báo, dân c̣n kẹt ở đây rất nhiều, và ngay ở quận Triệu Phong này, Cộng quân có lập một bệnh viện dă chiến lớn để chữa trị cho các thương bệnh binh của chúng trong cuộc tiến chiếm Quảng Trị.

Giờ xuất quân, đích thân Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, đến tận nơi tiễn đưa những chiến sĩ Cọp Biển lên đường. Hơn 10 chiếc trực thăng đổ quân hôm đó bay vào vùng đất Quảng Trị. Pḥng không của địch tại nơi đổ quân bắn rớt ngay 2 chiếc. Một trong hai chiếc bị bắn rơi đó, có bác sĩ Hoàn, mới ra trường không lâu, t́nh nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến. Hai ngày sau, bác sĩ Hoàn được tải thương về quân y viện, cả người và mặt đều bị cháy. Một cánh tay không cử động được nữa. Lúc tỉnh dậy, bác sĩ Hoàn kể lại, khi trực thăng bốc cháy, mọi người theo cửa nhảy ra, ông thấy phi hành đoàn vẫn c̣n ngồi yên trên ghế lái. Và trong một cuộc hành quân như vậy, nếu một chiến thắng vẻ vang nào đó đạt được, th́ h́nh như những người chiến sĩ của Không Đoàn 51 này, có dự phần xương xương máu, mà ít được chia phần vinh quang.

Lần này trở lại Vùng 1, những ngày tạm rời chiến trường Trị Thiên để vào thăm Tổng Y Viện Duy Tân và các trại tị nạn Cộng Sản ở Đà Nẵng, t́nh cờ gặp lại Trung Tá Phước. Ông nói:
- Tôi vừa ở Huế về. Có một chiếc trực thăng của Không Đoàn tôi đi đổ quân, bị bắn rớt, phi hành đoàn lội trong rừng mấy ngày đêm và mới về được b́nh yên.
Tôi ngỏ ư muốn gặp những người mới về. Trung Tá Phước gật đầu:
- Tôi sẽ cho người đưa cô đi gặp một xạ thủ và một cơ khí viên của phi hành đoàn, hai sĩ quan th́ đang nằm trong bệnh viện Mỹ, chúng ta sẽ đến thăm.

Buổi chiều tôi được anh em trong Không Đoàn 51 mời ăn cơm ở câu lạc bộ Trần Văn Thọ. Tại đây tôi sẽ được gặp hai người c̣n sống sót sau khi máy bay bị bắn rơi. Câu lạc bộ Trần Văn Thọ trang hoàng khá đẹp. Trung Úy Bút đưa tôi vào ngồi một bàn gần cửa sổ. Vừa ngồi một lát, Trung Sĩ Vơ Ngọc Trác, người cơ khí viên của máy bay bị bắn rớt đến. Trung Sĩ Trác khoảng chừng 20 tuổi, mặc bộ áo bay màu đen đă bạc trông có vẻ phong trần. Trên mặt và tay của Trác đầy những vết trầy trụa do lúc máy bay bị bắn rơi và trong những ngày vượt rừng trở về. Khu rừng mà phi hành đoàn phải vượt qua là khu rừng sâu về phía Tây của căn cứ Bastogne.
Trung Úy Bút nói:
- Chúng ta đợi thêm hai người nữa. Trung Sĩ Thanh, xạ thủ đại liên và Trung Tá Phước. Không biết Trung Tá Phước có đến được không, v́ chiều nay ông có buổi họp.

Trong lúc chờ đợi, tôi ngồi lắng nghe Trung Sĩ Trác kể lại chuyện những ngày qua:
- Buổi sáng, tàu đổ quân từ căn cứ Sally đến. Khoảng 9 giờ 5 phút th́ chúng tôi đến ngọn núi BG. Chiếc tàu của tôi dẫn đầu. Lệnh của Trung Úy Hiếu trên tàu chỉ huy bay trên cao, "An toàn th́ đáp." Nh́n xuống băi đáp thấy im ĺm, không có triệu chứng ǵ có địch. Đó là căn cứ Rạng Đông, căn cứ này trước của Mỹ, nay bỏ hoang. Tàu vừa đáp xuống th́ nghe nổ cái ầm, cách tàu chừng 3 mét. Phi công cố gắng cho tàu bay lên lại, nhưng bị mất tua, tàu nghiêng về tay trái. Hai chiếc trực thăng vơ trang liền nhào xuống bắn phá chung quanh để yểm trợ. Tàu của tôi bay thêm chừng được 5 mét th́ đâm đầu xuống rừng. Hai chiếc vơ trang bắn chung quanh chúng tôi để bảo vệ và định xuống cứu, nhưng địch bắn lên rát quá không xuống được. Bắn che cho chúng tôi chừng 15 phút th́ hai chiếc vơ trang bay về căn cứ để kêu tàu khác đến cứu.
Khi tàu nghiêng rồi đâm xuống đất, một số lính chở trên tàu bị trúng đạn mà chết. Những người c̣n sống nhảy ra khỏi tàu t́m nơi ẩn nấp. Địch ở trong những lô cốt cũ bắn B-40 về phía chúng tôi. Khi tàu rơi xuống, tôi bị ngất đi một lát, tỉnh dậy thấy tàu vẫn c̣n nổ máy. Thiếu Úy Nguyễn Thanh Hồng c̣n bị ngất trên ghế lái. Thiếu Úy Bành Khắc Đông bị găy xương sống.

Lúc đó Trung Sĩ Thanh bước vào, một con mắt bị băng lại, một cánh tay bó bột. Trác nói tiếp:
- Anh Thanh đi lính lâu, có kinh nghiệm hơn anh em. Anh lo đi làm dấu hiệu cho máy bay thấy mà đến cứu. Nhưng giữa rừng, máy bay không thấy được. Tất cả chúng tôi đều tuyệt vọng.
Trung Úy Bút ngắt lời:
- Đến giờ rồi, vào thăm không th́ bệnh viện Hoa Kỳ khó lắm đó, thăm phải đúng giờ.
Chúng tôi đứng chung quanh giường bệnh của Thiếu Úy Hồng. Một tay của anh đang vào nước biển. Hai chân sưng to và bầm đen từ đầu gối xuống. Anh nghe có tiếng người, cựa ḿnh rên khe khẽ và mở mắt nh́n chúng tôi. Thiếu Úy Hồng ra trường Khoá 27 Thủ Đức và t́nh nguyện vào Không Quân. Nét mặt anh vẫn c̣n thần sắc, mặc dù vừa trải qua 3 ngày 4 đêm đói khát và vừa phải trốn tránh địch quân, vừa t́m đường thoát hiểm trong rừng sâu trở về. Anh vui vẻ kể chuyện cho chúng tôi nghe:
- Khi tôi tỉnh dậy th́ tàu vẫn c̣n nổ máy. Tôi lôi thằng Đông ra khỏi tàu. Đạn bay vèo vèo trên đầu. Đông bị găy xương sống và kiệt lực, hai tay không c̣n đủ sức để ôm lấy cổ tôi nữa. Đi được một đoạn, tôi cũng mệt quá, đặt Đông xuống và cho nó uống nước. Nó bảo tôi, "Mày phải bỏ tao lại, không th́ hai đứa cùng chết. Mày nên thoát nơi này rồi đem tàu đến cứu tao."
Đến 11 giờ, ḍng sông Mỹ Chánh hiện ra trước mắt. Đây là một con sông nhỏ, như một lằn ranh giữa hai thành phố Huế và Quảng Trị. Bên kia bờ phía Bắc sông Mỹ Chánh không thấy bóng dáng một người dân. Đại Úy Hoàng chỉ cho tôi các vị trí của quân bạn bên dưới và một đoàn công voa của ḿnh đang di chuyển. Tôi nh́n thấy rơ những đám bụi đỏ bốc lên mù mịt đằng sau mỗi chiếc xe. Chúng tôi đang cách cầu Mỹ Chánh khoảng 4 cây số về hướng Đông. Tôi biết chỉ trong chốc lát chúng tôi sẽ đến quận Hải Lăng. Hải Lăng đằng trước mặt. Chiếc L-19 nhẹ nhàng bay vào vùng đang giao tranh bên dưới."

Tôi nh́n nó, tôi không nỡ bỏ nó. Việt Cộng bắn vào chỗ chúng tôi không ngừng. Đông cứ nói hoài, bắt tôi phải thoát trước, không th́ hai đứa cùng chết. Tôi trở lại tàu gỡ cái đồng hồ đặt trên ngực của Đông, hy vọng tàu t́m đến, thấy ánh dạ quang của đồng hồ mà cứu nó. Rồi tôi ứa nước mắt, quay lưng đi vào rừng.

Thiếu Úy Hồng im lặng một lát v́ xúc động. Tôi hỏi:
- Sau đó bao lâu th́ Thiếu Úy Đông được cứu?
Đại Úy Banh cùng đi trong nhóm đáp thay Thiếu Úy Hồng:
- Chừng một giờ sau, máy bay Mỹ đến, nh́n thấy ánh dạ quang của đồng hồ nên cứu được. Việt Cộng vẫn ở trong các lô cốt bắn lên máy bay như mưa nên máy bay không đáp xuống được. Trên tàu tḥng xuống một sợi dây, nhưng Thiếu Úy Đông không c̣n đủ sức để nắm vào. Một người lính Mỹ phải leo xuống bồng Thiếu Úy Đông đưa lên tàu. Đông đă bị ngất đi. Lên đến khung cửa của tàu th́ sợi dây bị bắn trúng, suưt chút nữa là hai người rơi xuống. May mấy người trên tàu kéo lên kịp.

Thấy Thiếu Úy Hồng có vẻ mệt, Trung Sĩ Trác thay lời:
- Chúng tôi vội vă rời xa vị trí của địch quân, len lỏi trong rừng để tránh bị vây bắt. Đi đến chiều th́ anh em chúng tôi bắt đầu thấy đói khát. Chúng tôi ráng nhịn, không dám ăn những trái cây lạ v́ sợ trúng độc. Đêm đến, nằm bên khe suối mà ngủ v́ đă quá mệt mỏi. Nửa đêm thức giấc, cả người lạnh cóng. Tôi van vái vong linh ông nội tôi, hồi c̣n sống, ông thương tôi lắm. Không phải tôi nhát, từ ngày đi theo Thiếu Úy Hồng, tôi đă quen rồi, v́ Thiếu Úy Hồng ĺ lắm. Có lần anh đáp ngay giữa vùng đất của địch để cứu một phi công L-19 bị bắn rớt, và nhiều lần khác tưởng đi luôn rồi.

Cuối cùng, chúng tôi gặp được may mắn. Khi ḅ lên núi, chúng tôi gặp được đơn vị bạn. Toán đi trước định bắn nhưng tôi la lên kịp. Họ cho bố trí rồi tước lấy súng của chúng tôi, gặn hỏi đủ thứ v́ sợ Việt Cộng giả dạng, sau đó báo lên cấp chỉ huy. Th́ ra chúng tôi gặp được đơn vị Trinh Sát của Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Đơn vị của chúng tôi được báo, liền cho trực thăng đến bốc liền. Ghé qua căn cứ Sally, gặp nhóm anh em trực thăng ai nấy đều mừng cho chúng tôi. Về Phú Bài, gặp Thiếu Tá Chỉnh, Đại Úy Thanh, Trung Tá Phước, ai cũng tỏ vẻ thương mến, nên chúng tôi rất được an ủi.

Những chàng Không Quân lái trực thăng đổ quân hay tải thương đúng là những chiến sĩ âm thầm. Họ cũng dự trận, cũng lăn vào đầu tên mũi đạn, cũng đổ máu trên chiến trường, cũng tan xxc giữa không trung, nhưng ít ai nhắc đến họ, lại c̣n bị nhiều thiệt tḥi nữa. Một vài người trong Biệt Đoàn Tiền Phương than với tôi:
- Làm phi công chết cũng nhanh lắm chị Duyên à. Nếu chết mất xác vậy mà hay, v́ nếu bị thương, không đi bay được nữa, sẽ bị trừ tiền bằng bay. Có chán không?
Một thiếu úy trẻ lắc đầu cười có vẻ chua chát:
- Chúng tôi cũng ra trận, cũng chịu nguy hiểm như các binh chủng khác, vậy mà đâu có được lănh 4,500 đồng tiền tác chiến. Họ cho rằng chúng tôi chỉ yểm trợ hành quân. Yểm trợ mà bay trên đầu súng của địch!
Trung Úy Kim, một phi công trực thăng chuyên tải thương nói với tôi:
- Sau khi cô đi bay L-19 rồi, cô đi tải thương với chúng tôi cho biết. Đi tải thương ban đêm, tắt đèn, nhào xuống bốc thương binh rồi vọt lên lẹ. Hoặc ban ngày th́ đang bay, tắt máy rồi hạ cánh... Cũng có nhiều cảm giác mạnh lắm đó.
Trung Úy Kim có thành tích đáng kể nhất ở Biệt Đoàn này, có đêm tải thương được 62 người. Chỉ trong 3 tháng tham dự chiến trường Trị Thiên, Trung Úy Kim được 12 huy chương và được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận.

Người phi công tải thương không những chỉ đối diện với súng đạn của địch quân, mà c̣n nhiều sự chịu đựng khác trong nghề nghiệp. Như chiến trường Trị Thiên hôm nay đang xảy ra giữa mùa hè nắng cháy. Có những xác không thể bốc ngay được v́ đang giao tranh. Mấy ngày sau đă śnh thúi và bắt đầu có gịi. Xác chỉ được bọc trong ponchos, cột hai đầu lại. Đang bay, nhiều khi ponchos bung ra, mùi hôi bốc lên và gịi ḅ ra lổm ngổm. Nhiều lúc gặp gió lớn thổi gịi bay cả vào pḥng lái, vào cả mặt của phi hành đoàn.

Bởi vậy, có một điều ít ai biết, là xe chữa lửa của phi trường Phú Bài hiếm có dịp chữa cháy, nhưng thường xuyên được Không Đoàn 51 nhờ xịt rửa dùm mấy chiếc trực thăng tải thương.

hoanglan22 11-30-2018 15:41

Vết thương 43 năm
 
1 Attachment(s)
Hồi kư của một y tá TQLC.

43 năm qua, lần đầu tiên tôi được đọc bài viết của một người lính. Mà lại của một y tá MX. Lời văn mộc mạc và chân t́nh, nói lại những giây phút cuối của đời lính.

Được vào danh sách thương binh của TQLC năm 2017, nhờ anh em TPB cùng hoàn cảnh giới thiệu. Trong niềm vui đồng đội, anh đă viết lại những giây phút tưởng chừng đă mất.
Nh́n lại h́nh xưa, anh em quê nhà đặt lại là Thế nhí - v́ quá nhỏ.
Hiện tại gia đ́nh đang ngụ một lều nát ở Cần Giờ. Vợ bán vé số, chồng bị tay và chân nên làm lặt vặt. Con gái đang học lớp 9, đi bộ hằng ngày - khoảng 1 giờ đến trường
Hôm nay với cánh tay và chân tật. Anh ghi lại ....

Lạt Ma



Trước ngày diễn ra trận đánh tại Căn cứ Phượng Hoàng, Tiểu Đoàn 6 – TQLC di chuyển từ căn cứ Barbara đến căn cứ Ái Tử rạng sáng ngày 08/04/1972. H́nh như quân địch biết được các chiến sĩ Thần Ưng đến, chúng chào đón chúng tôi bằng những tràng pháo 130 ly và 122 ly được rót vào Căn cứ Ái Tử. Đại Bàng Thái Dương (Thiếu Tá Đỗ Hữu Tùng) Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 – TQLC điều động các Đại đội phân tán ra ngoài vành đai Căn cứ Phượng Hoàng. Riêng Trung đội Quân y được bố trí căn hầm gần hàng rào pḥng thủ. Căn cư Ái Tử đang nằm trong tầm tác xạ của pháo binh địch. Tiếng nổ khắp nơi trong Căn cứ, khói lửa mịt trời và mọi người đều biết chuyện ǵ sẽ xảy ra trong trận pháo kích!

Đến khoảng 9 giờ sáng, Y tá Đại đội chỉ huy Hạ sĩ Nguyễn Hải Hà đến bên tôi và nói:

- Anh nhận lệnh của Y tá Trưởng, Trung Sĩ Tuấn Phát đều phải về Đại đội 4 chứ không về Căn cứ Phượng Hoàng.

Vào lúc này Căn cứ Ái Tử bị phóa kích dữ dội. Tôi thoáng nghe có tiếng rít trên đầu, với phản xạ của người lính tôi vội nhảy xuống hố cá nhân, may mắn cho tôi quả đạn nổ cách tôi khoảng hơn chục mét, toán Quân y b́nh an vô sự. Đến trưa tiếng pháo thưa dần rồi im hẳn, t́nh h́nh tạm thời im lặng, lúc này tôi cảm thấy đói v́ trên đường di chuyển tôi chưa ăn uống ǵ, khui hộp trái cây nuốt vội cho đỡ đói.

T́nh h́nh trong Căn cứ, các Chiến sĩ TQLC đang sửa chữa lại công sự sau khi bị pháo kích, riêng Toán Quân y không có việc ǵ làm, tôi chợt nghĩ: “Tại sao ḿnh không xin Y tá Trưởng cho ḿnh vào căn cứ Phượng Hoàng chơi sáng mai về? ”

Tôi trở lại hầm Quân y xin y tá Trưởng Trung sĩ Tuấn Phát giận dữ nói với tôi:

- Mày có bị điên không? Tụi nó đang pháo kích, mày vô đó làm ǵ? Bộ muốn chết hả?

Ông Thiếu Úy Long đang hợp trên BC Tiểu đoàn chưa về nên chưa biết t́nh h́nh thế nào! Thiếu Úy Long là Sĩ quan trợ y, chỉ huy trực tiếp Trung đội Quân y Tiểu đoàn. Tôi tiếp tục nan nỉ, cuối cùng Y tá Trưởng cũng đồng ư và phán một câu:

- Ừ mày muốn chết th́ cứ đi, ngày mai khi có lệnh là phải về tŕnh diện liền!.

Tôi vác ba lô và túi thuốc lên vai rồi chạy ra ngoài t́m phương tiện để đi, nếu không có th́ phải cuốc bộ vào Căn cứ Phượng Hoàng. Đường dẫn vào căn cứ là con đường rất nhỏ, tôi c̣n nhớ rất rơ. May mắn cho tôi, lúc này có một xe GMC chở ḿn chống tank cho căn cứ Phượng Hoàng. Tôi xin mấy anh Công binh cho tôi quá giang vào Căn cứ. Trên đường đi tôi thấy có một số quân nhân BĐQ đang di chuyển ngược hướng chúng tôi, với gương mặt hóc hác mệt mỏi.

Khi xe vừa vào Căn cứ tôi đă thấy Y tá Hà và Trung sĩ Vinh, Quân Y cánh B đang đứng trong hầm gần cổng trước. Không để hai người hỏi, tôi nói luôn:

- Em có xin phép anh Phát vào đây chơi với mấy anh, sáng mai em về.

Anh Hà trả lời:

- Tụi anh biết rồi. Trung sĩ Phát có báo cho tụi anh lúc em đang trên đường vào đây.

Anh cũng cho tôi biết có một bác sĩ mới về thay cho Thiếu úy Long Sĩ quan trợ y. Bác sĩ mới là Y sĩ Trung úy Huỳnh Văn Chỉnh, sau này tôi mới biết là Ca sĩ Trung Chỉnh! Bác sĩ Chỉnh cho tập hợp các anh em Quân y về tŕnh diện để ông biết mặt. Như vậy tôi ở đây đến sáng mai về luôn, lúc này anh Hà nói:

- Có đói không? Cơm vắt đó ăn đi.

- Cám ơn anh, em không đói. tôi trả lời.

Thấy cái hầm trước mặt khá kiên cố, ṭ ṃ tôi hỏi:

- Hầm phía trước là của ai thế anh?

Anh Hà chỉ tay về hướng hầm trả lời:

- Hầm đó của hai cố vấn Mỹ và Ông Sữ Tiểu đoàn phó, c̣n hầm phía bên kia là của Ông Tài, Đại đội Trưởng đại đội 4.

Chúng tôi tṛ chuyện rôm rả. Khoảng 3 giờ sáng, địch quân bắt đầu pháo kích vào Căn cứ với cường độ vừa phải, tôi và các anh c̣n nhận ra đạn nổ nơi nào trong Căn cứ. Đến 5 giờ sáng địch ngưng pháo kích, tôi nói với anh Hà và anh Vinh tôi sẽ sang hầm của Đại úy Tài, nói xong tôi chồm tay lấy túi thuốc và sang hầm Đại úy Tài và Cố vấn Mỹ. Xuống đến hầm, dưới hầm bầu không khí im lặng, vẻ mặt mọi người hiện rơ nét lo lắng, không ai nói với tôi câu nào, lúc này địch quân bắt đầu pháo kích trở lại với cường độ dữ dội hơn lúc trước. Trong lúc Đại úy Tài liên lạc với các trung đội tiền đồn, ngoài hầm đạn pháo nổ vang trời. Trong hầm anh em chúng tôi thưởng thức những tách trà nóng, đạn pháo càng lúc càng dồn dập hơn. Vậy là tôi phải ở lại hầm của Ông Đại úy Tài.

Màn đêm buông xuống, ngoài trời tối đen như mực, rồi những tia chớp, những tiếng nổ đinh tai nhức óc như xé tạc màn đêm. Mệt mỏi tôi ngồi dựa vào vách hầm định chợp mắt một tí nhưng không tài nào ngủ được, chỉ mong cho trời mau sáng, nhưng thời gian như dài vô tận, chầm chậm trôi qua. Tất cả mọi người đều thức, nh́n nhau im lặng và chờ đợi. Ngoài kia vẫn c̣n những âm thanh của hỏa tiển 122 ly vang dội núi rừng.

Qua lỗ châu mai trời tối đen, hỏa tiển của địch vẫn tiếp tục rơi vào Căn cứ. Lúc này trên máy truyền tin của Đại đội, cánh tiền đồn báo về cho Đại úy Tài, Đại đội 4 là đă trong thấy chiến xa T54 đang dàn đội h́nh cùng bộ binh tùng thiết đang tiến về căn cứ Phượng Hoàng. Đại úy Tài xin Đại bàng Thái Dương cho pháo binh yểm trợ và soi sáng v́ trời vẫn c̣n tối và sương mù dày đặc bao phủ các ngọn đồi nên hạn chế tầm quan sát. Hỏa châu soi sáng cả một vùng trời, chúng tôi ngồi dưới hầm mà đă nghe tiếng gầm gú của Tank T54 của địch. Toán tiền đoàn báo về là đă chạm súng với cánh quân đầu tiên của địch, tank T54 đang tiến thẳng vào vị trí pḥng thủ của ta, cuối cùng toán tiến đồn xin rút lui và mất liên lạc. Khoảng 5 giờ sáng th́ tank T54 đă xuất hiện bên kia đồi, mặt sau của căn cứ, T54 bắn trực xạ vào vị trí pḥng thủ của ta và tiến thẳng vào hàng rào căn cứ. Quân pḥng thủ chống trả mănh liệt, buộc chúng rút lui xuống chân đồi chổ con suối. Trong hầm mọi người chuẩn bị tư thế chiến đấu, bỗng liên tiếp có nhiều tiếng nổ gần căn hầm, có nhiều tiếng la, có một binh sĩ chạy xuống hầm với cánh tây đầy máu, lập tức tôi băng bó vết thương cho anh ta, và anh ta cho biết là tank T54 của địch đă vào đến hàng rào, và sắp vào đến đây. Tôi tiếp tục công việc cuối cùng là chích cầm máu và ngừa ATS cho anh.

Lúc này tuyến pḥng thủ đă bị chọc thủng, tiếng gầm rú của tank T54 càng lúc nghe càng gần, nh́n qua lỗ châu mai thấy rơ bánh xích chạy qua. Mọi người trong hầm đều di chuyển ra khỏi hầm, riêng tôi đi sau cùng. Khi vừa ra đến cửa hầm th́ chiếc tank T54 thứ hai chồm tới, tôi vọi vàng trở lại xuống và núp lại trong hầm, định chờ cho chiếc tank T54 đi qua rồi chạy len, nhưng định mệnh đă an bài cho số phận của tôi, chiếc tank T54 không chạy qua mà tiến thẳng vào cửa hầm ngay chổ tôi núp khoảng 5 mét, đầu nó hướng thẳng vào cổng trước Căn cứ, nơi có một toán quân cố gắng rút lui làm sao bây giờ? Tôi tự hỏi. Trong tay tôi không có một thứ vũ khí ǵ ngoài túi thuốc và hai trái lựu đạn M67 đeo trên áo giáp. Tôi lục lọi và t́m kiếm hy vọng c̣n sót lại vài khẩu chống chiến xa M72. Tôi thực sự thất vọng khi không t́m thấy một thứ ǵ. Dựa vào vách hầm, tay tháo trái lựu đạn M67 bẻ ngay chổ an toàn, quan sát và suy nghĩ t́m cách vượt thoát. Trước mặt tôi là chiếc tank T54 đang nằm một đống, cũng may cho tôi là nó măi mê nh́n về phía cổng nên không nh́n thấy tôi. Tôi lúc này trong t́nh trạng dở khóc dở cười tiến thoái lưỡng nan. Cuối cùng lợi dụng tên xạ thủ công 12 ly 8 đang măi mê đàn nh́n ra hướng nơi mà toán quân trong căn cứ đang cố gắng rút lui về hướng Căn cứ Ái Tử. Tôi men theo vách hầm, tránh xa dần chiếc T54 của địch, 5 mét, 10 mét rồi 20m. Bây giờ nó không c̣n nh́n thấy tôi. Trên tay của tôi vẫn c̣n trái lựu đạn M67 nhưng không biết phải làm ǵ trong t́nh huống này. Nh́n sang phía bên kia đồi, thấy lố nhố bộ binh của địch đang di chuyển tiến về hướng Căn cứ. Phía Bắc Căn cứ một chiếc T54 đang ủi và phá các ụ lô cốt, phía con đường phía tây th́ có tổng cộng 8 chiếc tank đang dàn đội h́nh lù lù tiến ngay cổng Căn cứ. Tại cổng có một chiếc tank đang T54 đang án ngự tại đó. Tôi hiểu bây giờ ḿnh đă vào tử lộ, không c̣n đường thoát, có lẽ số phận ḿnh đến đây là kết thúc. Cầm quả lựu đạn trên tay tôi thầm nhủ: “Nếu có chết th́ phải chết cho xứng đáng của một chiến sĩ TQLC vậy là tôi ở yên vị trí và chờ đợi.”

Lúc này tôi chợt nhớ về Phương Nam, nơi tôi được sinh ra và lớn lên, nhớ cha mẹ, anh em, bạn bè, mắt tôi cay xè, đôi ḍng lệ lăn trào trên khóe mắt. Ở ngoài tôi nghe có tiếng la hàng sống chống chết vang khắp nơi, tôi lăn người xuống hố cá nhân và sẳn sàng cho ḿnh một cái chết đúng nghĩa của một người chiến binh. Trên miệng hố tôi thấy có một tấm ván ép nên tiện tay kéo đậy miệng hố và hy vọng địch quân không phát giác ra ḿnh, nếu nó gở tấm ván ra là cưa hai với tụi nó, ngón tay trỏ tôi thủ sẳn trong khóa an toàn của quả lựu đạn. Trên miệng hầm tiếng hàng sống chống chết vang lên khắp nơi. Tôi chợt nghe có tiếng bước chân đang tiến gần về phái hố của tôi, ngồi dưới hố tôi xoay người thủ thế. Bổng trên đầu tôi vang lên hai tiếng nổ của súng AK47. Sau khi bắn xong tên vc bỏ đi, ngước nh́n lên tôi thấy ánh sáng xuyên lỗ thủng qua hai lỗ đạn. tôi cảm thấy đau nhói, tôi biết rằng tôi đă trúng đạn nhưng không biết ở đâu? Sự việc diễn ra quá nhanh, tôi cảm thấy tay phải của tôi tê dại và không theo sự điều khiển của tôi, tay trái tôi lấy trái lựu đạn khóa chốt an toàn và để xuống chân, tiếp đến là lấy tay trái nắm chặt tay phải cho nó đừng lắc lực, lúc này tôi nhận ra là ḿnh đă bị thương ở tay phải và c̣n một viên nữa không biết trúng ở đâu? Tôi thấy đau nhói và tê chổ đùi trái, tôi cố gắng cử động chân trái để biết vết thương có nặng không? Tôi lấy tay sờ vết thương ở đùi trái, máu ước đẫm quần, tay phải của tôi lúc này đau nhức khủng khiếp, không thể làm ǵ với hai vết thương trong cái hố chật chội, tối ôm này tôi thầm nghĩ trước sau ǵ ḿnh cũng chết, thôi cho mày thấy luôn, nghĩ xong tay trái tôi đẩy tấm ván ép qua một bên, lập tức bên tay tôi văng văng tiếng la: “ngụy, ngụy” và có hàng chục họng súng AK chĩa vào tôi, một tên trong bọn nó kêu tôi đứng lên vào leo lên hố. Tôi ngồi im và trả lời là không thể leo lên được v́ tôi bị thương ở chân. Từ xa có tiếng hỏi lớn:

- Đâu, ngụy đâu?, tên chỉ huy tay lăm lăm khẩu súng K54, tên này quát lớn

- Đứng dậy.

Vẫn câu trả lời tôi không thể v́ chân và tay của tôi bị găy rồi, tên chỉ huy tiếp tục hỏi tôi:

- Súng mày đâu? Tao thấy trong này tụi bây ngoan cố chống trả mănh liệt lắm mà!

Tôi trả lời rằng tôi không có được trang bị súng v́ tôi là Y tá Quân y.

- Vậy túi cứu thương của mày đâu, tên chỉ huy tiếp tục hỏi.

Tôi nói là tôi để trong hầm đằng kia, nó cho người xuống lấy và ra lệnh cho tên y tá của nó xem vết thương của tôi đúng như tôi đă nói với nó không. Sau khi xem vết thương, tên y tá báo cáo là đúng như vậy, thằng này bị găy tay và chân, vào lúc này pháo binh ta bắt đầu phản công, những quả lựu đạn từ trên cao nổ chụp xuống. Đây là lần đầu tiên tôi mới thấy loại đạn này. Bọn địch chạy toán loạn t́m chổ ản nấp, tên y tá chạy không kịp, liền ngồi xuống hố với tôi, nó run lập cập. Tôi bảo tên y tá địch:

- Mày leo lên hố là chết liền, tên y tá ngồi im không nói một lời nào.

Tôi hỏi nó:

- Trong túi cứu thương của mày có kéo không?

- Có, nó trả lời tôi.

Tôi liền bảo nó lấy kéo rọc tay áo chổ vết thương, tôi chỉ chổ lấy thuốc sát trùng trong dây ba chạc của tôi ra sát trùng và băng vết thương cho tôi! Tên y tá làm theo hướng dẫn của tôi. Máu từ cánh tay không ngừng chảy, ướt cả hai băng cá nhân, tôi liền bảo nó lấy băng có tẩm thuốc, băng chặc bên ngoài và treo cánh tay bịt thương lên.

Pháo binh của ta tiếp tục rót vào Căn cứ, thoáng nghe tiếng gọi:

- Y tá đâu? Y tá đâu? nó liền đứng dậy chào tôi và chạy biến ra ngoài.

Tôi ngồi im tại hố cá nhân, nghe ngóng t́nh h́nh. Bây giờ trước mắt phải tránh xa tụi vc cái đă, rồi tính sau. Tôi liền chồm người và leo lên miệng hố. Đầu óc quay cuồng, choáng váng tôi ngă ập xuống đất, không thể đi được, tôi nghĩ có lẽ tôi mất máu nhiều nên mới bị như vậy. Tôi nằm ngửa và quan sát t́m hướng về hầm chỉ huy, nơi đó an toàn để tránh miếng pháo chụp của phe ta. Hầm chỉ huy cách chổ của tôi khoảng 15 mét. T́nh cảnh lúc này khó khăn cho tôi, miểng đạn, cát đất bay mù trời, tôi nghĩ nằm ở đây không ổn. Trong thấy có cái thùng conex gần đó, tôi liền trườn vào, nằm thở hổn hển mệt và khát vô cùng. Máu từ hai vết thương tiếp tục rĩ làm thấm ước áo quần.bổng tôi thấy có tia chớp lóe sáng, sau đó là tiếng nổ đinh tay nhứt óc, cái thùng conex lay động mạnh. Tiếng mănh đạn rít bên tai, một góc thùng bị bể và những tia nắng mặt trời chiếu qua những lỗ thủng xuống chổ tôi nằm, cái thùng conex trúng mảnh đạn chứ không phải tôi, vậy tôi vẫn chưa chết, may mắn thật. Một lúc sau không c̣n nghe tiếng pháo của ta nữa, mà chỉ c̣n nghe tiếng gọi nhau í ới của địch quân. Từ hướng đông có tiếng trực thăng bay tới rất gần và trời ơi nó bắn cái ǵ như ḅ rống, tụi vc ở ngoài hoảng loạn réo gọi la hét ầm ỉ, chắc có một số đi chầu diêm Chúa. Trực thăng bắn và đảo hai ṿng rồi biến mất. Trong cái thùng conex lỗ chổ lỗ thủng, tôi lại cảm thấy không an toàn, tôi cố gắng lết ra ngoài để trườn về hầm chỉ huy. Nhưng ác thay vừa lết ra khỏi thùng th́ tôi nghe tiếng máy bay khu trục cơ và đang lù lù bay tới, lần này nó bay tầm thấp, khi bay ngang chổ tôi nằm tôi c̣n thấy rơ viên phi công. Chắc người phi công cũng nh́n thấy tôi, tôi đưa tay chỉ về phía sau, ngụ ư hướng của địch quân, lúc đó tôi có nghe nhiều loạt đạn pḥng không bắn về chiếc khu trục, trúng đạn chiếc khu trục rơi về hướng địch. Bọn vc trong Căn cứ reo ḥ v́ đă hạ được chiếc phi cơ. Tôi vô cùng lo âu v́ không biết bao giờ mới kết thúc. Ḿnh đang trong t́nh cảnh bị thương, máu ra nhiều, không biết c̣n sống được bao lâu nữa! Tôi tiếp tục trườn về hướng hầm chỉ huy, cuối cùng th́ tôi cũng tới được cửa hầm. Sức cùng lực kiệt tôi không thể xuống hầm, nên tôi nằm tại chổ, phó mặc cho số phận, tới đâu th́ tới, quá mệt!

Pháo binh của ta lại tiếp tục nả và Căn cứ Phượng Hoàng, lần này dữ dội hơn. Đạn rơi đều khắp trong Căn cứ. Tôi nghĩ có lẽ bên ta muốn hủy diệt tất cả địch quân trong Căn cứ, không may cho tôi trong đó có người linh TQLC c̣n sót lại trong căn cứ. Những quả đạn pháo lại tiếp tục rơi. Tôi có gắng chui xuống hầm một cách khó nhọc. Hai vết thương đau nhức khi tôi va chạm với các bậc lên xuống. Xuống đến hầm thở hổn hển, tay chân gàn như bất động. Căn hầm rung chuyển v́ những quả đạn nổ trên nốc hầm, căn hầm như muốn sập. Nằm ở đây tôi nghe tiếng xích của xe tank T54 đều khắp nơi trong căn cứ. Nằm gần như bất động, máu chảy động vũng, mệt vô cùng, hơi thở yếu dần, khát khủng khiếp. “Hay là uống thử máu ḿnh cho đở khát”, tôi thầm nhủ, nếm thử một ít tôi thấy mặn và tanh quá nên đành thôi. Bỗng có tiếng nổ rất gần, một lúc sau có người chạy về phía căn hầm, tôi vội lếch vào chổ tối nơi góc hầm. Tụi nó không phát hiện ra tôi, trong bóng tối, tôi quan sát thấy tụi nó không đội nón cối mà đội nón của mấy tên trên xe tank. Tôi nghe chúng nó x́ xầm to nhỏ một lúc sau th́ bỏ đi. Có mấy quả đạn lại rơi lên nóc hầm, căn hầm sạc một góc, tôi nghĩ sớm muộn ǵ cũng sập, ở đây nó đè chết luôn! Tôi cố gắng lết ra khỏi hầm rồi ngă quỵ. Một trái đạn pháo rơi gần cửa hầm, mảnh đạn văng tung tóe, lúc đó nếu mà tôi lên sớm một tí chắc là ôm nguyên một trái. Số của tôi chắc có ông bà che chở cho nên bao lần thoát hiểm, nên tôi van vái cho tai qua nạn khỏi. Đợi trái thứ hai nổ cách xa cửa hầm, lấy hết sức lực tôi bung người nhảy ra khỏi hầm. Trời đất như quay cuồng, tôi ngă ập xuống mà mắt vẫ mở nh́n về phía hầm của hai cố vấn Mỹ, cách đó khoảng hơn chục mét có chiếc tank T54 nằm gần cái thùng conex h́nh như nó đang cháy, pháo của ta vẫn nả đều vào Căn cứ. Ở ngoài này không xong rồi. Bản năng sinh tồn của tôi trỗi dậy mănh liệt, một lần nữa tôi cố gắng lết xuống hầm. Ngồi dựa vào vách hầm, xem xét lại các vết thương, máu vẫn tiếp tục rỉ, miệng khô và đắng v́ khác, cơn khác hành hạn tôi, nên tôi quên nỗi đau của thể xác. Rồi tiếng pháo thưa dần rồi im hẳn. Một lúc sau có tiếng súng cá nhân, tiếng súng M16 vang lên ở phía ngoài cổng Căn cứ và tiếng la hét xung phong. Tôi vô cùng mừng rỡ là ḿnh sẽ được các đồng đội cứu ra khỏi chổ này. Nhưng lúc này tôi phải sáng suốt để nhận định t́nh t́nh. Khi quân ta tấn công và tái chiếm căn cứ. Không biết là cánh quân nào, nhưng chắc chắn có một điều là họ sẽ thanh toán các mục tiêu (như căn hầm) bằng lựu đạn. Khoảng cách từ cổng Căn cứ là vài chục mét, tôi nghe có tiếng chân người tiến đến cửa hầm. Tôi quyết định lên tiếng và la to lên:

- Tôi TQLC bị thương.

Đúng như tôi dự đoán, người trên hầm ra lệnh:

- Ra khỏi cửa hầm cho tôi thấy.

Nén đau tôi lết ra khỏi cửa hầm, tôi nh́n thấy hai người lính TQLC gương mặt họ ngụy trang một lớp màu đen, một người hỏi:

- Có vc ở dưới hầm không?

- Khôn. tôi trả lời.

Họ nhảy xuống hầm và lục soát, kế đến có hai người ĺnh nữa khiêng tôi ra khỏi Căn cứ. Có một vị sĩ quan của TĐ TQLC tôi không rơ là đại đội mấy! Ông nh́n tôi và nói:

- Tụi tao đă trả thù cho mày rồi đó. và chỉ về hướng chiếc xe tank T54 đang bốc cháy nằm la liệt.

Lúc này có một toán quân nữa của ta cũng vừa đến, họ đang truy kích địch. Trong toán quân này có 4 người cùng Trung đội Quân y TĐ với tôi. Vừa thấy tôi họ la lên:

- Thằng Thế đây!

Họ vui mừng không tả xiết. Trung đội báo cáo tôi mất tích rồi. Nh́n cảnh tôi bị thương ai cũng xót thương. Hạ sĩ Y tá Minh nói:

- Thằng Thế nó bị thương nặng lắm, bây giờ là phải tải thương nó về TĐ có Bác sĩ Chỉnh ở đó.

Lúc này tôi cảm thấy lạnh và hơi thở của tôi yếu dần, không có băng ca tải thương. Anh Minh lấy cái poncho quấn ngang người tôi và nói:

- Em ráng chịu đau để anh vát em về hầm Quân y nơi Bác sĩ Chỉnh.

Các anh đở tôi lên vai của anh Minh, tay của anh Minh ôm hai chân tôi , đầu tôi gục sau lưng anh, mắt tôi nhắm nghiền, rên khe khẻ. Lúc này tôi không c̣n cảm giác đau nữa, tôi liệm dần và không c̣n biết ǵ nữa. Trong trạng thái lơ mơ tôi có nghe tiếng anh Hà, có ai chích thuốc vào bụng tôi. Khi tỉnh dậy tôi mới biết ḿnh ở BV Quảng Trị. Tôi vừa trải qua một cuộc giải phẩu, anh Hà bước vào pḥng là tôi đă hiểu là anh đă tản thương tôi ra BV này. Tôi hỏi là các vết thương của tôi có nặng không, anh Hà trả lời:

- Bác sĩ vừa mổ xong, không có ǵ nghiêm trọng, sẽ mau b́nh phục thôi.

Anh Hà trấn an tôi:

- Sáng mai sẽ chuyển em ra BV Nguyễn Tri Phương – Huế. Anh ở đấy với em, chờ tán thương xong anh sẽ trở lại hành quân.

Hôm sau ngày 10-04-1972 tôi được tản thương ra Huế, xúc động, bùi ngùi, tôi chia tay Hạ sĩ Hải Hà từ ngày ấy….
Và bặt tin cho đến nay, dù tôi đă t́m mọi cách để gặp lại. Ngày 12-04-1972 tôi được chuyển ra phi trường Phú Bài di chuyển về phi trường Tân Sơn Nhất và chuyển tiếp về BV Lê Hữu Sanh của TĐ Quân y TQLC. Nơi tôi ra đi và ngày về không c̣n nguyên vẹn. Bây giờ tôi là một Thương phế binh ./.
​​​​

Cần giờ, Ngày 09 tháng 4 năm 2018
Y tá MX Hạ sĩ Trần Văn Thế
Quân y TDD. TQLC

hoanglan22 11-30-2018 15:51

Hăy Thắp Cho Anh Một Ngọn Đèn
 
3 Attachment(s)


Sau cùng, suốt 30 năm tạp ghi, viết về cựu chiến binh, viết về thuyền nhân, viết về nước Mỹ, viết về Việt Nam Cộng Ḥa, lần này tôi được yêu cầu viết về một mối t́nh. Nói cho chính xác, viết về chuyện t́nh của cô nữ quân nhân thuộc hàng thấp nhất của hạ sĩ quan.

Cô hạ sĩ nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa tên Lư thị Thương Uyên hiện cư ngụ tại Oklahoma City với Area code 405, giữa cơn giông băo mùa Xuân năm 2010 đă kể lại chuyện đời lính của phụ nữ Việt Nam. Cuộc đời của chính cô. Cô phàn nàn rằng sao không thấy bác viết về chuyện hạ sĩ quan binh sĩ. Không viết về người lính nữ quân nhân thực sự sống chết tại các đơn vị. Sao bác không viết về chuyện của em…

Cô Uyên gửi thư cho Dân sinh Radio sau khi nghe loạt bài về Thủy Quân lục chiến và trận Quảng Trị. Phải chăng cô biết ǵ về Quảng Trị. Không. Cô gái suốt đời là học sinh và suốt đời đi lính chỉ quanh quẩn ở hậu giang và miền Đông Nam Phần, chẳng biết ǵ về cao nguyên, duyên hải hay miền Trung Việt Nam.

Nhưng cô có liên hệ rất nhiều với người yêu Thủy Quân lục chiến, cô nghĩ rằng trận Quảng Trị là trận của người lính mũ xanh. Cô muốn gửi di vật của trung úy Thủy quân lục chiến Bùi Năng Vũ về cho viện Bảo Tàng tại San Jose. Lá thư viết như sau:

“Kính gởi bác Giao Chỉ.”
“Em tên thật là Lư thị Thương Uyên hiện ở Oklahoma, xin gởi một kỷ niệm nhỏ đến bác. Mong nó được lưu giữ. Đă 40 năm qua em giữ nó như báu vật. Qua bao nhiêu cuộc bể dâu nó vẫn ở bên ḿnh. Không biết bao lần em đă tự hỏi nếu một mai chết đi th́ nó sẽ ra sao? Có thể bảo con trai liệm chung trong quan tài cho mẹ. Khi sang thế giới bên kia em sẽ gặp Vũ để trả lại cho anh. Nhưng cuộc đời này làm sao biết được ngày mai. Vậy xin bác giữ lại và đặt vào chỗ nào đó cho em yên ḷng.”
“Kỷ vật nhỏ bé gửi kèm theo chỉ là bài thơ do trung úy Thủy quân lục chiến Bùi Năng Vũ tặng em cuối mùa thu 1970, lúc đó đơn vị gốc của anh Vũ ở căn cứ Sóng Thần, khu Rừng Cấm, thuộc Tiểu Đoàn Ó Biển. Vũ đă chết ở trại tập trung Đà Lạt năm 1978. Đây là số điện thoại của Uyên (405)…”

Đính kèm là bài thơ của anh Sĩ quan Thủy quân lục chiến viết chữ rất đẹp, trên những tờ giấy màu xám mỏng bỏ trong 1 bao thơ đơn sơ cũ kỹ. Góc bao thơ đề: “Vũ, thủy quân lục chiến. Gửi cho Thương Uyên.”
Phía dưới là hàng chữ: “Nhờ Chỉnh chuyển dùm trao. Cám ơn.”
Bài thơ mở đầu như sau:

Lời hứa buổi hoang sơ tương ngộ.
Chỉ một lần xin nhớ đến trăm năm…

Đọc xong lá thư của cô Uyên, đọc xong bài thơ của anh Vũ, tôi nghĩ đến người lính trẻ đă chết trong ngục tù. Nghĩ đến người nữ quân nhân c̣n sống ở miền giông băo Hoa Kỳ. Bèn quay số 405… hỏi thăm…

Câu chuyện t́nh được bắt đầu kể lại.

Uyên quê ở Tân Châu, Hồng Ngự thuộc miền quê Châu Đốc, chưa học hết trung học nhưng có tên thật đẹp như bút hiệu nên cuộc đời cũng gặp nhiều phiền phức. 16 tuổi lên Sài G̣n ở nhà cậu mợ. 18 tuổi ghi tên vào học lớp hạ sĩ quan nữ quân nhân. Năm 70 ra trường nhưng v́ thường cậy có chút nhan sắc lại ba gai nên không được mang cấp bậc trung sĩ. Cô chỉ tốt nghiệp hạ sĩ rồi được gửi đi Vũng Tàu học đánh máy ở trường Truyền Tin.



Lê Thị Thương Uyên ngồi hàng đầu mang kiến đen

Tại đây cô gặp thiếu úy Vũ, dân Bắc kỳ. Anh được Thủy quân lục chiến đưa về học lớp sĩ quan truyền tin. Mối t́nh kéo dài suốt thời gian cả 2 người theo học tại Vũng Tàu. Cô Uyên hỏi bác Giao chỉ có biết đại tá Tạo chỉ huy trưởng trường truyền tin không. Có, bác Tạo trước đây ở San Jose, nhưng bác đă chết rồi. Cô khóa sinh khoe rằng em được bác Tạo cho chụp h́nh nữ quân nhân truyền tin đang học đánh máy để treo trên tường. Như vậy chắc cô lính trẻ có nhan sắc ăn ảnh đáng được chụp h́nh quảng cáo cho binh chủng.

Cô kể tiếp rằng mối t́nh với Vũ là mối t́nh đầu đẹp đẽ nhất. Khi trung úy đi hành quân Cam bốt, cô Uyên đến thăm hậu cứ trại Cấm, Sóng Thần đă được các bạn đồng nghiệp cho vào pḥng truyền tin nói chuyện với người yêu qua siêu tần số hành quân.

Nhưng rồi những ngày vui qua mau. T́nh đầu không phải là t́nh cuối.

Một hôm Uyên khám phá ra rằng Vũ thực ra đă có người yêu. Đó là cô Sương quê Mỹ Tho, nữ điều dưỡng ở quân y viện Vũng Tàu. Sương quen Vũ từ khi anh nằm tại bệnh viện này. Uyên là người đến sau nên cô quyết định chia tay mối t́nh đầu đầy nước mắt. Vũ ra vùng hỏa tuyến. Uyên đổi về quân đoàn III. Rồi sau cùng cô đổi về tiểu khu Kiến Ḥa thuộc quân đoàn IV. Cô xin đi thật xa miền Đông, nhưng vẫn nhớ Vũ và giữ măi bài thơ tỏ t́nh năm 70.

Từ Hạ Lào trở về, Vũ lấy Sương, mối t́nh đầu của anh. Năm 1973 Uyên lấy thiếu úy Nhiều, một sĩ quan hải quân, phục vụ trên chiến hạm Trần Khánh Dư.

Từ đó Uyên yên phận làm vợ của người lính biển. Khi mang bầu đứa con đầu tiên, anh chồng sĩ quan hải quân lênh đênh trên biển Đông đă dặn vợ đẻ con gái đặt tên Cam Tuyền, con trai đặt tên Hoàng Sa. Cam Tuyền cũng là tên một ḥn đảo của Hoàng Sa. Và đứa con trai Hoàng Sa đă ra đời tại Mỹ Tho. Hai vợ chồng cùng khoác chiến y nhưng chiến tranh đă chia cắt gia đ́nh thành nhiều mảnh. Chồng hải quân sống trên đại dương. Vợ trực gác tổng đài tại mặt trận śnh lầy Bến Tre. Con trai Hoàng Sa gửi về cho bà nội nuôi ở Châu Đốc.

Cô Uyên tiếp tục hăng hái kể chuyện nhà binh.

Sau mối t́nh đầu dang dở, cô và chị Sương nay vợ của Vũ đă gặp nhau nối thành t́nh bạn gái. Cuộc đời nữ quân nhân, với cấp bậc hạ sĩ rồi vinh thăng hạ sĩ nhất đă dành cho cô Uyên những kỷ niệm không bao giờ quên được. Cô đă từng là hoa hậu của các chiến binh độc thân trong đơn vị từ binh sĩ đến hạ sỹ quan. V́ mang cấp hạ sĩ, cô cai Uyên gần gũi với đa số lính tráng hơn là các sĩ quan nữ quân nhân.

Những đêm hỏa châu làm việc dưới hầm truyền tin tiểu khu. Những anh lính ca vọng cổ tán tỉnh. Những lời ḥ t́nh tứ qua máy truyền tin lẫn trong tiếng pháo kích. Hỏa châu sáng rực chân trời. Chưa bao giờ cô lại thấy nhớ đời lính như vậy.

Nhưng rồi tháng 4-75 oan nghiệt chợt đến. Anh Vũ, Bắc Kỳ bỏ Sóng Thần từ biệt cô Sương đi tŕnh diện vào tù trên Đà Lạt. Anh Nhiều, Nam kỳ bỏ vợ con ở Châu Đốc đi tù trong Đồng Tháp. Bộ binh cũng vào tù, Hải quân cũng vào tù. Cô lính trẻ có tên như tài tử nhưng chỉ mang cấp bậc hạ sĩ nhất nên không phải đi tù. Dù vậy cô vẫn nhớ thương quân đội Cộng Ḥa. Một lần chị Sương ghé Mỹ Tho gặp Uyên báo tin anh Vũ đau nặng trong trại tù. Chị em cùng đi t́m mua thuốc tiếp tế. Mấy tháng sau, Sương ghé lại với ngón tay đeo 2 chiếc nhẫn cưới. Cô vừa đi chôn chồng sau khi nhận xác từ trại tập trung. Anh lính trẻ Bắc Kỳ chết đi để lại cho những cô gái miền Tây di vật cuối cùng. Cô Sương c̣n cặp nhẫn. Cô Uyên có lá thư t́nh. Anh Vũ chết rồi. Cô Sương trợ tá quân y không bao giờ lên Đà lạt nữa. Cô Uyên truyền tin c̣n đi thăm nuôi chồng 3 lần ở Đồng Tháp. Rồi anh Nhiều trở về. Thêm 1 đứa con trai ra đời, anh cựu sĩ quan hải quân tuy ra tù “cải tạo” nhưng vẫn c̣n nhớ măi biển Đông nên đặt tên con trai thứ hai là Trường Sa.

Năm 1992 gia đ́nh anh Nhiều và cô Uyên đem cả Hoàng Sa và Trường Sa qua Hoa Kỳ theo diện HO 9. Hai vợ chồng cùng đi làm và nuôi con ăn học.

Nhưng sao cuộc sống ḥa b́nh ở Hoa Kỳ không giống như thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam. Vợ chồng không c̣n ḥa thuận nên chỉ ở được với nhau thêm 4 năm tại Mỹ rồi chia tay. Lần lượt những đứa con trai trưởng thành đi theo bố về Texas làm ăn. Anh Nhiều có vợ mới. Cô Uyên c̣n lại ở Oklahoma một ḿnh.

Cháu Hoàng Sa lập gia đ́nh, có 2 đứa con nhưng rồi vợ chồng nó cũng chia tay. Lúc c̣n ở với nhau, vợ chồng con trai đưa cháu về thăm bà nội. Đó là những giây phút hạnh phúc nhất của cô hạ sĩ nhất Thương Uyên. Nhưng bây giờ chúng nó bỏ nhau. Vợ Hoàng Sa đưa con về bà ngoại. Cha con nó c̣n ít gặp nhau. Chẳng ai c̣n ngó ngàng ǵ đến bà nội trẻ cô đơn nhớ đám cháu quay quắt đêm ngày. Năm nay cô mới 60 tuổi. C̣n lâu mới lănh tiền già. Cô cựu chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa vẫn đi làm tự nuôi thân. Cuối năm 2009 cô bị té trong hăng nên phải nằm nhà, lănh tiền thương tật v́ tai nạn lao động. Suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà. Mùa Đông 2009 mưa băo triền miên chẳng ra khỏi nhà. Trải qua cái TẾT cô đơn, cô Uyên nghe đài Radio nói về Thủy quân lục chiến đánh trận Quảng Trị 38 năm về trước. Cô bèn đi t́m lá thư t́nh của Trung úy Vũ, cô nghĩ đến ngày mai rồi ḿnh cũng qua đời trong quạnh hiu giữa mùa tuyết phủ nơi xứ lạ quê người.

Những đứa con Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu của cô cũng đang bận rộn bươn trải với cuộc đời mới. Chỉ c̣n lại một ḿnh, chợt nhớ về mối t́nh ở trường truyền tin, những vần thơ rất lăng mạn và ngây thơ của người lính trẻ Bắc kỳ. Cô hỏi bác Giao Chỉ rằng nếu bây giờ, đă gần 40 năm rồi, cô vẫn c̣n thấy nhớ thương mối t́nh đầu th́ có phải tội lỗi không?

Không, cô cựu chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa của tôi, cô hạ sĩ quan truyền tin của tiểu khu Kiến Ḥa, nàng cai xếp của tiểu đoàn truyền tin diện địa quân đoàn IV, cô không làm điều ǵ sai quấy khi ngồi than khóc cho chuyện t́nh gần 40 năm về trước. Anh chàng Trung úy Bùi Năng Vũ rất xứng đáng để cô gái Tân Châu ngồi khóc ở Oklahoma, nhớ về những ngày hai đứa ngồi bên hàng dừa ở băi sau Vũng Tàu. Anh thấy h́nh em treo trên tường ở pḥng học đánh máy trong trường truyền tin. Trung úy thủy quân lục chiến Bắc Kỳ tạm quên cô Sương y tá bên quân y viện để gửi thư tán tỉnh cô khóa sinh truyền tin xinh đẹp. Chàng kư tên bút hiệu Châu Nguyên năm 1970 gửi bài thơ cho Lư thị Thương Uyên.

Lời hứa buổi hoang sơ tương ngộ.
Chỉ một lần xin nhớ đến trăm năm.

Đó là đoạn mở đầu. Và đây là những trích đoạn tiếp theo:

Bụi đường và tháng ngày c̣n đó.
Gởi cho Uyên làm kỷ niệm chia ly
Mai anh đi, nghe thời gian rũ cánh
Kiếp phong trần cháy đỏ trên tay
Đắng cay cho trọn tháng ngày
Cung thương một gánh, t́nh sầu chưa nguôi…
…………..
Đá trong ly, đá tan thành rượu
Rượu lên men, rượu ngọt lịm môi…
……………
Có một ngàn v́ sao
Nằm trong đáy mắt
Như một ngàn hỏa châu thắp sáng
Như một ngàn đóm thuốc trong đêm…
…………….
Em ơi! Thương Uyên! Anh là người lính
Mà số trời đă định, cho một cuộc sống
Với quá khứ là tủi nhục,
Hiện tại là đắng cay
Và tương lai chỉ là nấm mồ không tên nơi chiến địa…
Châu Nguyên, cuối thu 70.



Bút tích TQLC Bùi Năng Vũ

Với lá thư t́nh năo nuột như vậy, anh trung úy thủy quân lục chiến đă chiếm được trái tim cô gái Tân Châu. Và như chúng ta đă nghe cô hạ sĩ truyền tin kể lại, khi khám phá ra anh trung úy Bắc Kỳ bắt cá hai tay, cô đă bỏ đi để buộc anh phải trở lại với mối t́nh đầu. Để anh lấy chị Sương, người con gái Mỹ Tho.

Cô Uyên nói rằng, thưa với bác, em nhường Vũ cho chị Sương, nhưng em hỏi bác v́ bác cũng là Bắc Kỳ, thơ này có phải thực ḷng của anh Vũ không. Có phải thơ của Vũ làm không? Bác trả lời rằng, thơ này nhiều phần chính Vũ đă làm. Bác chưa từng đọc được lời thơ này ở đâu cả. Rất chân thành tuy cũng có phần cường điệu. Người lính trên khắp thế giới đều vẫn thường đưa cái chết ra để dọa dẫm người t́nh và dọa dẫm cả chính ḿnh. Ngày xưa, ở tuổi 20, mới vào quân đội, Vũ cũng là h́nh ảnh của những anh Bắc Kỳ như bác… Anh nào cũng thơ thẩn bước vào đời. Thơ không làm được th́ chép thơ thiên hạ tán đào. Bây giờ nhớ lại, ngượng chín cả người.

Quí vị đă nghe tôi kể chuyện của cô Uyên với nội dung không phải là một bi kịch ai oán năo nùng. Không hề có những t́nh tiết éo le rắc rối. Nhưng mối t́nh đầu đă làm cô tưởng nhớ về những năm c̣n trong quân đội. Tuy bom đạn triền miên nhưng sao lại quyến rũ như vậy. Dù cô chỉ là 1 người lính đàn bà. 18 tuổi nhập ngũ, 25 tuổi tan hàng, với 7 năm quân vụ. Bây giờ đă 35 năm sau cô vẫn c̣n nhớ măi về đời lính.

Bác có nhận giữ hộ lá thư của anh Vũ không. Cô gái Tân Châu hỏi tôi như vậy. Trả lời rằng, bác sẽ lưu giữ trong Museum câu chuyện t́nh của anh chị. Xin gửi kèm cho bác vài tấm h́nh kỷ niệm. Báu vật quư giá của cô sẽ là di vật của Việt Nam Cộng Ḥa. Ở đây không phải chỉ toàn là những trận đánh oai hùng. Phải có cả những câu chuyện t́nh hết sức đơn giản như mối t́nh của cô Uyên với anh Vũ, chuyện vợ chồng của anh Vũ với chị Sương. Chuyện chia tay của cô Uyên với anh Nhiều. Những đứa con mang tên Hoàng Sa và Trường Sa. Và sau cùng là chuyện cô gái cựu chiến binh, cô cai xếp Việt Nam Cộng Ḥa giữa trời mưa băo mùa đông Oklahoma ngồi khóc cho mối t́nh 40 năm về trước.

Thưa bác, bây giờ em phải làm ǵ, cô Uyên hỏi tôi lần nữa.

Tôi trả lời rằng: Trung úy Vũ là người yêu đầu tiên của cô năm 1970 và bây giờ sẽ là người yêu cuối cùng vào năm 2010. Trong đoạn cuối của bài thơ, Vũ đă viết rằng tương lai của anh chỉ là nấm mồ không tên nơi chiến địa.

Vậy cô Uyên hăy thắp cho anh Vũ một ngọn đèn.

Ngọn đèn tưởng niệm…
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn…
Hăy thắp cho em một ngọn đèn…
Hăy thắp cho nhau một ngọn đèn…*
*(thơ Nguyễn Đ́nh Toàn)

Giao Chỉ, San Jose.

hoanglan22 11-30-2018 22:12

Buồn vương màu áo trận !
 
"Thời thơ ấu tôi sống ở làng quê, h́nh ảnh đ́nh làng, lũy tre xanh, cánh đồng lúa, gắn liền câu Ca dao mộc mạc Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng. Một bài thơ vẫn c̣n trong kư ức của thuở học tṛ mà tác giả tôi không rơ.

Trên dải đất chạy ven bờ biển cả,
Dưới trời Đông Nam Á rạng mầu xanh,
Một giống người nhỏ bé nhưng tinh anh,
Đă xây đắp một sơn hà gấm vóc.

Quê tôi làng Viêm Xá cổ kính thuộc vùng Quan họ Kinh Bắc, cách thị xă Bắc Ninh 3 cây số và về Hà Nội phải theo Quốc lộ 1A trên 30 cây số nữa, Đặc trưng quê tôi có ngôi đ́nh được xây cất vào năm 1692 (Trên ba trăm năm ) là một trong những ngôi đ́nh có hạng trong hàng trăm ngôi đ́nh trong vùng Kinh Bắc qua câu Ca dao :

Thứ nhất là đ́nh Đông Khang ( Nay không c̣n )
Thứ nh́ đ́nh Bảng vẻ vang đ́nh Diềm (Viêm xá )

Phía Tây Bắc và Đông Bắc có sông Ngũ Huyện chảy ṿng như dải lụa rồi nhập với sông Cầu soi bóng núi Kim Sơn đầu làng tạo nên một thế đất vừa sơn thủy hữu t́nh vừa êm đềm trù mật, cùng điệu ḥ Quan Họ Kinh Bắc thắm t́nh dân tộc được lưu truyền măi cho đến ngày hôm nay.

Tôi theo học trường Trung học Hàn Thuyên ở Bắc Lư, có Giáo sư Song An Hoàng ngọc Phách, Giáo sư Nguyễn ngọc Cư, hầu hết học sinh đều đều từ Hà Nội, Bắc Ninh và Thị Cầu. V́ t́nh h́nh an ninh lúc bấy giờ, nhiều trường phải di tản và học sinh cũng bị ảnh hưởng theo. Năm 1951 gia đ́nh tôi về sống ở Hà nội 36 phố Phường, hàng năm bốn mùa rơ rệt. Mỗi ngày đi qua đường phố đến trường Trung học Dũng Lạc cạnh nhà thờ lớn Hà nội, học hết Trung học đệ Nhị cấp với các thầy như Cha Nguyễn văn Mai, Giáo sư Vũ hoàng Chương, Nguyễn văn Huyền, Nguyễn văn Nghị, Đoàn viết Lưu, Nguyễn gia Tường, Lê bá Khanh, Lê bá Kông v.v… Lộ tŕnh quen thuộc, tôi thường đạp xe ngang qua một trại lính Nhảy dù ở đường hàng Chuối gần trường Đại học Y khoa và Viện Pasteur, thỉnh thoảng tôi dừng lại xem sự sinh hoạt của họ và dần dần nó ăn sâu vào tiềm thức. Từ đó đă ảnh hưởng đến quyết định tương lai của tôi khi chọn đời sống Quân ngũ trong lúc tuổi đời đôi mươi. Ngày 19 tháng 3 năm 1954 tôi bước vào ngưỡng cửa Trường Vơ bị Liên Quân Đà lạt. Hiệp định Geneve chia đôi đất nước ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi tưởng rằng sẽ khó gặp lại gia đ́nh, nhưng “Nào ai biết số phận ngày sau ông trời sẽ trao ?” Gia đ́nh tôi theo ḍng người di cư vào Nam và chúng tôi được may mắn đoàn tụ

Tốt nghiệp trường Vơ Bị Liên Quân Đà lạt ngày 1 tháng 10 năm 54. Tôi được Đại tá Lê văn Tỵ Tư lệnh Đệ nhất Quân khu bổ nhiệm về Đại đội 7 tuần giang tức 7ème Compagnie Fluviale tại Thạnh Mỹ Tây, Thị Nghè, Gia Định. Bạn cùng khóa về đơn vị này cùng tôi có Thiếu úy Bùi văn Phẩm và Hoàng ngọc Bảo, c̣n về Đại đội 1 tuần giang ở Khánh Hội th́ có Thiếu úy Phạm ngọc Thụy.Trước năm 1975 ba vị này là Trung tá trong Binh chủng TQLCVN.Trung tá Phẩm và Thụy hiện ở Hoa kỳ, Trung tá Bảo ở Việt Nam.

Đại đội 7 Tuần giang do người Pháp chỉ huy và đa số Quân nhân trong đơn vị đều là người Pháp, một người Việt Nam duy nhất là Hạ sĩ Kiếm chịu trách nhiệm về dọn dẹp khu nhà bếp. Riêng lực lượng Commandos của Pháp có khoảng một Trung đội người Việt Nam. Tôi được cử đi học khóa Sĩ quan truyền tin ở trường truyền tin bên Gia định, c̣n hai anh Phẩm và Bảo th́ mỗi anh được nhận một Trung đội tàu FOM là loại Giang đỉnh xung kích bằng sắt mũi nhọn để dễ dàng di chuyển nhanh, truy kích trên các sông rạch nhỏ. Đơn vị này thường đi hành quân ở vùng Cà Mau và Sóc Trăng. Lúc này đại đội chuẩn bị chuyển giao cho Sĩ quan VN Chỉ huy. Trung úy Nguyễn thúc Phụng khóa 6 trường Vơ bị được chỉ định về làm Đại Đội Trưởng.

Giữa năm 1955 tôi t́nh nguyện về Tiểu đoàn 1 TQLC đang được thành lập từ các đại đội Commandos ở Bắc Việt di chuyển vô khi hiệp định Geneve chia đôi đất nước, đơn vị tạm thời đóng tại Cồn Dương ở giữa Trung tâm Huấn luyện Sĩ quan Hải quân và Trung tâm huấn luyện Sĩ quan Không quân. Về TĐ1 tŕnh diện Tiểu đoàn phó là Đại Úy Roger Bùi phó Chí. Khi quân đội Pháp bàn giao Tiểu đoàn cho Việt Nam th́ Đại úy Roger lên thay Đại úy Delayen làm Tiểu đoàn trưởng. Các sĩ quan Việt Nam đă hoàn toàn thay thế người Pháp trong các Đại đội của Tiểu đoàn. Khi tôi mới về th́ các Đại đội trưởng c̣n là người Pháp, sau họ lần lượt bàn giao Đại đội 1 cho Thiếu úy Trần văn Nhựt, Đại đội 2 Trung úy Vũ kinh Luân, Đại đội 3 Trung úy Trần văn Thọ, Đại đội 4 Trung úy Vơ công Trí, Đại đội chỉ huy Trung úy Nguyễn văn Tính, Trung úy Nguyễn xuân Ái thuyên chuyển về làm Tiểu đoàn phó cho Đại úy Bùi phó Chí. Ngoài ra c̣n một số SQ khác đă có mặt trong Tiểu đoàn trước tôi, Thiếu úy Lê đ́nh Quế, Nguyễn hữu Nhơn, Nguyễn quang Cử, Cao tấn Hạp, Bùi đắc Thuận, Nguyễn văn Nho, Lê bá Cường, Nguyễn ngọc Vinh, Chuẩn úy Nguyễn xuân Khang, Nguyễn hữu Cát, Y sĩ Trung úy Nguyễn văn Hoàng..Khi thành lập TĐ2 th́ Y sĩ Trung úy Nguyễn văn Chất là em ruột của Y sĩ Hoàng cũng t́nh nguyện về TQLC. Hai ông là Y sĩ đầu tiên của TQLCVN. Bác sĩ Hoàng sau khi đi tù cải tạo về đă định cư tại Canada, c̣n Bác sĩ Chất th́ qua đời tại Indiana năm 2006. Hạ sĩ quan th́ nhiều nhưng tôi nhớ nhất là Trung sĩ Nguyễn văn Hiển và Đào ngọc Kỳ, hai người này hàng ngày dạy Nhu đạo cho anh em Sĩ quan trong Tiểu đoàn. Đại úy Đào ngọc Kỳ hiện ở San Diego, Đại úy Kỳ và Hiển cùng Trung tá Ân có đến thăm chúng tôi vào dịp Đại hội TQLC ở San José cách đây mười năm.

Sau vài tháng làm Sĩ quan Truyền tin, tôi được thuyên chuyển về Đại Đôi 3 của Trung úy Phan hồng Chi Đại đội trưởng. Lúc này Trung úy Luân, Trí, Thọ đă thuyên chuyển đi khỏi Tiểu đoàn. Tiểu đoàn dưới quyền của Đại úy Chí tham dự hành quân Hoàng Diệu ở Rừng sát. Chấm dứt hành quân, Trung úy Nguyễn xuân Ái cũng thuyên chuyển đi khỏi Tiểu đoàn, Trung úy Trần văn Đức và Phan thanh Đàn bổ sung về. Khi Trung úy Phan hồng Chi thuyên chuyển đi th́ Trung úy Đàn thay thế. Tháng 12 năm 1955 Tiểu đoàn tham dự chiến dịch Nguyễn Huệ ở Giồng riềng Rạch giá, Trung úy Đức làm Sĩ quan phụ tá Tiểu đoàn trưởng. Thiếu úy Trần văn Nhựt ĐĐ1, Thiếu úy Cao tấn Hạp ĐĐ2, Trung úy Phan thanh Đàn ĐĐ3, Thiếu úy Nguyễn hữu Nhơn ĐĐ4 lúc bấy giờ c̣n có tên là Đại đội súng nặng

Giữa năm 1956 Trung Úy Bùi thế Lân ở Bộ binh về coi ĐĐCH thay Trung úy Tính. Lúc này Tiểu Đoàn có thêm Trung úy Bùi văn Phẩm, Dương hạnh Phước, Nguyễn đức Ân, Phạm văn Chung, Trần xuân Đàm thuyên chuyển về. Trung úy Ngụy văn Thanh về thay Đại úy Chí trong trọng trách Quyền TĐT, Trung úy Thanh được thăng cấp Đại úy. Năm 1957 Đại úy Nguyễn văn Tài thay Đại úy Thanh. Trung úy Nguyễn Bá Liên, Thiếu úy Hoàng văn Nam, Phan văn Thắng và Chuẩn úy Nguyễn năng Bảo, 4 vị này là Huấn luyện viên của trường Biệt động đội ở Nha trang thuyên chuyển về, mới được 3 ngày th́ Chuẩn úy Nguyễn năng Bảo được đi trấn giữ Hoàng Sa 4 tháng, vài ngày sau khi trở về th́ anh được thuyên chuyển qua TĐ2. Năm 1958 th́ có thêm Trung úy Lê hằng Minh về tŕnh diện lúc Tiểu đoàn đang hành quân ở Cà Mau, có thể c̣n một số anh em khác mà lâu quá rồi tôi không nhớ hết, mong thứ lỗi.

Trung úy Phan thanh Đàn tử nạn ở trường Hạ sĩ quan Nha trang khi Huấn luyện về ḿn và lựu đạn. Trung úy Nguyễn bá Liên thay thế Trung úy Đàn làm Đại đội trưởng ĐĐ3.

Sau khi tham dự hành quân Giồng riềng ngày 6 tháng 12 năm 55, tôi là Đại đội phó ĐĐ3 bị thương nặng, Thiếu úy Nho Đại đội phó ĐĐ2 cũng bị đạn vào mặt, xuyên qua g̣ má lên tai. Chúng tôi nằm tại khu vực giao tranh qua đêm. Ngày hôm sau ĐĐ1 đi t́m kiếm được chúng tôi, băng bó và đưa chúng tôi về BCH/TĐ và sau đó tản thương bằng xuồng về Quân y viện tại Rạch giá. (Tất cả tử sĩ của TĐ1 đổ bộ hy sinh tại Giồng riềng ngày 6 tháng 12 năm 1955 được chôn cất tại nghĩa trang bên cạnh phi trường Rạch Sỏi. Đă trên nửa thế kỷ không biết bây giờ t́nh trạng ra sao. Viết lại để cho anh em Quái Điểu biết, nếu có dịp về quê hương th́ ghé thăm anh em ở đó).

Nằm nhà thương nhiều tháng, tôi trở về lại Tiểu đoàn giữa năm 1956, Đại úy Thanh làm Tiểu đoàn trưởng. Lúc này có một lớp đi du học làm người Nhái (Frogman ) ở San Diego, được đi du học Hoa Kỳ là điều ước muốn chung, nhưng có lẽ khóa học này gian nan và nhiệm vụ nguy hiểm nên không ai t́nh nguyện, chỉ một ḿnh tôi ghi tên. Sau khi thi đậu phần Anh ngữ, được Ban Cố vấn và Bộ chỉ huy TQLC ở Sài G̣n chấp thuận. tôi rời TĐ1 về Saigon đầu năm 1957. Hàng ngày sang Hải quân đeo b́nh dưỡng khí đi học lặn. Lúc này c̣n độc thân nên tan giờ học là ra dạo phố Saig̣n. Mấy tháng sau th́ khóa học bị hủy bỏ, may mắn có khóa Sĩ quan Basic TQLC Hoa Kỳ mới mở. Thế là tôi lại được chuyển qua khóa học này.

Có thêm Trung úy Tôn thất Soạn, Hoàng Lăm, Phạm ngọc Thụy, Giang khánh Tước, Nguyễn văn Nho và Chuẩn úy Nguyễn hữu Cát cũng về Saigon để theo hoc khóa này. Hàng ngày chúng tôi cùng đi học thêm Anh ngữ và đến ngày 27 tháng 12 năm 1957 th́ tất cả lên đường học khóa Căn bản Sĩ quan TQLC Hoa kỳ đầu tiên tại Quantico, Virginia. Trung úy Tôn thất Soạn được chỉ định làm Trưởng toán. Về nước tháng 8 năm 58, tôi trở về TĐ1, nhưng lúc này Đại úy Nguyễn văn Tài làm TĐT.

Tôi được chỉ định làm Đại đội trưởng ĐĐCH/ TĐ1/ TQLC thay thế Trung úy Lê đ́nh Quế. Đại úy Nguyễn văn Tài TĐT, cũng là bạn cùng khóa 4 phụ Sĩ quan Trừ bị Thủ đức. Tháng 4 năm 1960 Đại úy Tài được Tổng Thống Ngô đ́nh Diệm bổ nhiệm Tỉnh trưởng Lâm Đồng.

Đại úy Lê nguyên Khang ở Bộ chỉ huy TQLC đang hành quân ở Kiến hoà thuyên chuyển về làm Tiểu đoàn trưởng. Sau đó vài ngày, tôi bị thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 3. Và Trung úy Nguyễn ngọc Vinh thay tôi.

Trong cuộc chính biến ngày 1 tháng 11 năm 1960, Tiểu đoàn 3 TQLC do không đủ phương tiện vận chuyển phải tách làm đôi, đoàn đầu tiên chở cánh A do Đại úy Tiểu đoàn trưởng Nguyễn kiên Hùng chỉ huy vào Bộ Tổng Tham Mưu ủng hộ phe đảo chánh. Đoàn xe trở về chở cánh B do Đại úy Tiểu đoàn phó Mă viết Bằng chỉ huy lại đổi ư theo Đại tá Hồ tấn Quyền vào Dinh Độc Lập bảo vệ Tổng Thống Ngô đ́nh Diệm. Cuộc đảo chánh thất bại, cấp Chỉ huy đầu năo bay qua nước láng giềng Cam Bốt tỵ nạn chính trị, tôi là Sĩ quan Ban 3 trong bộ chỉ huy Tiểu đoàn ở lại bị bắt, bị thẩm vấn, điều tra trong ṿng 5 năm... Nha An ninh Quân đội th́ không làm ǵ phiền tôi nhiều, v́ họ biết rằng tôi cũng chỉ là người thừa hành mà thôi. Sau khi từ pḥng giam ở Nha An ninh Quân đội tại đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi được dẫn lên pḥng thẩm vấn, may quá, trời thương tôi gặp Trung Tá Nguyễn xuân Sinh Trưởng khối điều tra, ông là Thầy dạy tôi ở trường Sinh ngữ Quân đội. Ông nhận ngay ra tôi là học tṛ cũ của ông, Sau khi hỏi qua loa vài câu, ông gọi tài xế của ông lấy xe Traction 15 chở tôi về. Nhà tôi lúc này đang có bầu đứa con đầu ḷng. Trong khi đó th́ An ninh của TQLC theo dơi tôi nhiều năm. Tôi bị đề nghị thuyên chuyển từ Tiểu đoàn này đến Tiểu đoàn nọ cứ vài ba tháng một lần. Đi hành quân liên tục, chức vụ Đại Đội Trưởng với hai lần bị thương nặng, mang cấp bậc Trung úy 8 năm, được ân thưởng Đệ Ngũ đẳng BQHC, lúc này th́ trong Quân Đội cũng không có nhiều. (Đại úy Nguyễn Thành Yên đề nghị cho bốn Đại Đội trưởng TĐ2 trong trận Đầm Dơi, được Tổng thống Diệm phê chuẩn kư vào tháng 10 năm 1963, thời điểm này ngoài bốn anh em của TĐ2 và Đại Úy Nguyễn Thành Yên TĐT, binh chủng TQLC chưa có sĩ quan nào có BQHC Đệ Ngũ Đẳng kèm theo Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu), Thật là bất ngờ trong thời gian tôi tham dự khoá Tham mưu trung cấp, Trung Tường Lê Văn Nghiêm chỉ huy trưởng trường Đại học quân sự tổ chức lễ gắn Huy chương Đệ ngũ đẳng cho tôi tại Hội trường của trường vào tháng 4 năm 1964 trước sự hiện diện của toàn thể Sĩ quan Huấn luyện viên, Sĩ quan sinh viên thuộc các Quân binh chủng. Tôi vô cùng cảm động. Măi tới khi Tổng Thống Ngô đ́nh Diệm qua đời th́ những người nào mang Trung úy trên 7 năm th́ được tự động thăng cấp Đại úy. Tôi ở trong trường hợp này.

Tháng 5 năm 1965 trong trận Phụng Dư của TĐ2, tôi được ân thưởng Đệ tứ đẳng BQHC, (cũng do Trung Tá Nguyễn thành Yên Chiến đoàn trưởng đề nghị cho cả 4 Đại đội trưởng và được Bộ tư lệnh Sư đoàn 22 chấp thuận), Tiểu đoàn 2 thời gian này Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Hoàng tích Thông.

Sau trận này nhà tôi bị bệnh nặng, tôi được thuyên chuyển về làm Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện TQLC ở trại Yết Kiêu Thủ Đức tháng 8 năm 1965. Thời gian đủ để tôi quen với công việc mới, tuy không nguy hiểm như đi tác chiến nhưng có rất nhiều khó khăn không liên quan ǵ đến việc Huấn luyện mặc dù thời gian này TTHL c̣n quá nhỏ, chỉ có vài Đại đội Tân binh, văn pḥng và những dăy nhà tôn cho anh em và các Sĩ quan Huấn luyện viên rất sơ sài.

Sinh hoạt tại trung tâm chưa tṛn sáu tháng, trong lúc thiên hạ đang đón Xuân, hưởng gió mát của sông Saigon, th́ tôi lại được lệnh bàn giao TTHL cho Đại úy Hoàng văn Nam để khăn gói quả mướp đi ra Tiểu Đoàn 3 đang hành quân ở Đà nẵng để làm Tiểu Đoàn phó cho Thiếu tá Nguyễn thế Lương. Nhà tôi đang bệnh và hai đứa con thơ, một 4 tuổi và một 2 tuổi tại căn nhà một pḥng, thuê mướn ở bên hông quận Thủ Đức, đường đi lên Tam Hà. Dăy nhà có 3 căn, bên trái là Ông Bà Giáo sư Lạc, cả hai Ông Bà đều dạy ở Thủ Đức, bên phải là Trung úy Nguyễn văn Hàm Bộ binh QLVNCH, cùng thuê chung dăy với chúng tôi. Tôi nhờ 2 gia đ́nh này gíúp nhà tôi và các cháu khi cần. Họ sẵn ḷng giúp đỡ nên tôi cũng tạm yên tâm lên đường

Làm việc ở TĐ3 nhưng chưa có dịp thăm viếng và gặp mặt hết các Đại đội v́ TĐ đóng quân ở nhiều nơi. Hai Đại đội trưởng mà tôi có dịp gặp trong thời gian này là Trung úy Lê bá B́nh, và Đại úy Nguyễn minh Châu. Tôi đến thăm Đại đội của Trung úy B́nh khi đơn vị anh đang hoạt động trên đèo Hải Vân. Anh có mời tôi ăn bánh xèo ở Hải Vân, c̣n anh Minh Châu th́ tôi có mời anh và vài anh em đi Đà Nẵng ăn sáng bánh ḿ thịt nguội. Tuy có một số anh em chưa gặp mặt lần này, nhưng đa số tôi đă biết trước v́ đây đă là lần thứ năm tôi thuyên chuyển về TĐ3 trong ṿng 5 năm. Tràn đầy kỷ niệm với TĐ3 thời gian đơn vị ở G̣ Công và hành quân dẹp biểu t́nh tại Sài G̣n với Thiếu tá Nguyễn thế Lương TĐT

Ngày 29 tháng 6 năm 1966, Cố Trung tá Lê hằng Minh tử trận tại quận Phong Điền tỉnh Thừa Thiên... Tôi mới ở Đà Nẵng về phép được mấy ngày v́ có việc gia đ́nh, hôm ấy tôi đang ở Thủ Đức th́ nhận lệnh ra ngay TĐ2, Pḥng 4 của Sư đoàn mua cho tôi vé máy bay Cessna khởi hành từ Tân Sơn Nhất đến Đà Nẵng sau mấy giờ bay. Tại phi trường dân sự Đà Nẵng đă có xe của TĐ2 chờ sẵn đưa tôi về Tiểu đoàn, Trước khi ra TĐ2, tôi có ghé thăm ngắn ngủi Đại tá Nguyễn thảnh Yên. ông là người tôi thương mến và quư trọng nhất trong binh chủng TQLC, nhiều kỷ niệm vui buồn với ông trên khắp các chiến trường, đặc biệt là Cà Mâu, Tam Quan Bồng Sơn và Kontum, tôi luôn luôn làm việc hết sức ḿnh trong thời gian dài phục vụ dưới quyền ông. Đă hai lần tôi chứng kiến ông thoát chết trong gang tấc, lần thứ nhất khi ông ngồi trên một quả Ḿn được che dấu, may mà tôi phát hiện, lần thứ hai khi ông và tôi đi trên một cái xuồng, v́ có nhiều cỏ cản trở không thể chèo nhanh được, ông cố kéo cỏ để giúp người chèo, ông kéo lên hai cây súng do 2 tên VC núp dưới cỏ ở ven sông, may mà chúng nó sợ quá không kịp trở tay th́ đă bị anh em TQLC cận vệ của ông Già bắt.

Nhận Tiểu Đoàn 2 ngay tại mặt trận, nơi Trung tá Minh hy sinh, khói lửa c̣n mịt mù. Gặp Đại úy Nguyễn văn Hay Tiểu đoàn phó và Đại úy Thomas E. Campbell cố vấn trưởng Tiểu Đoàn, (Ông bị thương nhưng từ chối tản thương. Khi ông về Mỹ th́ chức vụ sau cùng của ông là Đại tá Trung đoàn trưởng. Giải ngũ và làm giảng sư dạy môn Lănh đạo chỉ huy tại trường đại học ở Austin, Texas. Ông có viết mấy cuốn sách, trong đó có một cuốn nói về những kỷ niệm của một cố vấn với TQLCVN "Memoŕes of a Covan My with the Vietnamese Marines". Tập sách gồm 120 trang. Ông đă chuẩn bị sẵn sàng để xuất bản. Nhưng không biết lư do nào ông lại gửi tặng tôi và cho tôi được hoàn toàn xử dụng bản quyền in ấn. Sau Đại hội TQLC ở Nam Cali 2008 th́ phái đoàn MX ở Úc châu có lên San José thăm tôi trước khi về lại Úc. Tôi có giao lại tập sách này cho Ó Biển Trần như Hùng để dịch ra Việt ngữ, và nếu có tiền th́ sẽ in ra cho anh em TQLC đọc. Cuốn sách ghi lại nhiều kỷ niệm của cố vấn trong khi đi hành quân vói các đơn vị TQLCVN. Ông mới qua đời đầu năm 2008 tại tiểu bang New Mexico, Hoa Kỳ.)

Thu dọn Quân trang vũ khí, Thương binh tử sĩ, rồi đưa Tiểu đoàn về tạm trú tại Trung Tâm Huấn luyện Đống Đa để nghỉ ngơi, tái trang bị và sẵn sàng lên đường trở về Hậu cứ ở Tam Hà, Thủ Đức.

Tiểu đoàn vào Trung tâm huấn luyện quốc gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Huấn luyện xong lại trở ra vùng 1 đặt thuộc quyền sử dụng của Quân đoàn I hành quân vùng giới tuyến Đông Hà, Cam Lộ, Gio Linh.

Thời gian 1966 trở đi có nhiều cuộc chạm súng lớn với các đơn vị chính quy của Cộng sản Bắc Việt.

- Trận đánh vào mật khu An Lăo đầu năm 1967 của TĐ2 và TĐ3 do Trung tá Tôn Thất Soạn Chiến Đoàn Trưởng CĐB chỉ huy đă đánh tan Trung đoàn chính quy Bắc Việt thuôc Sư đoàn 10, tịch thu nhiều vũ khí và bắt sống nhiều tù binh.

- Trận hành quân đi giải cứu đơn vị Hoa Kỳ tại chiến khu D. TĐ2 đánh vào Hậu cần việt cộng. Tiểu đoàn đă đánh tan các đơn vị hậu cần tịch thu được nhiều kho gạo, trên 300 tạ gạo và đem xác một số Quân nhân Mỹ ra khỏi vùng hành quân. Gạo xuất phát từ Biên Hoà bán ra cho địch, nay ḿnh tich thu được đem giao trả về cho Quân Đoàn III. Máy bay Chinook chở 2 ngày mới hết. Mai mốt đi hành quân có thể lại gặp những bao gạo này bán ra lần nữa. Thật vô cùng buồn nản cho người lính chiến...

- Trận đêm hưu chiến ngày 31 tháng 12 năm 67. Chiến Đoàn B gốm TĐ1 và TĐ2 đă tạo chiến thắng lớn. TĐ1 thu nhiều kho vũ khí. Tại rạch Cái Thia quận Giáo Đức tỉnh Định Tường, TĐ2 đă đánh tan Tiểu Đoàn 261 chủ lưc và các đơn vị đặc công đánh vào Bộ chỉ huy TĐ2 không có pháo binh và không quân yểm trợ. Ch́ có yểm trợ soi sáng mà thôi. V́ phía VNCH đang thi hành lệnh ngưng bắn.

- Tết Mậu Thân đợt 1 và đợt 2 năm 1968 tại các khu vực như Bộ Tổng Tham Mưu, B́nh Ḥa, Sài g̣n, Gia Định, Chợ Lớn, Phú Lâm, Phú Thọ,TĐ2 và các Tiểu đoàn tham dự đánh tan các đơn vị Việt cộng đă xâm nhập vào những khu vực nói trên.

Tiểu đoàn 2 lập nhiều chiến công tại Giáo Đức, Tết Mậu Thân và Tây Ninh. là đơn vị đầu tiên trong TQLC được mang dây biểu chương mầu BQHC sau trận Mậu Thân đợt 1 (1968)

Tháng 9 năm 68 TĐ2 gồm các Đại đội trưởng ĐĐ1 Đại úy Tô văn Cấp, ĐĐ2 Đại úy Trần kim Đệ. ĐĐ3 Đại úy Trần văn Thương, ĐĐ4 Đại úy Vũ đoàn Dzoan cùng Chiến Đoàn /B của Trung tá Tôn thất Soạn đi hành quân ở Tây Ninh. Ngày 14 tháng 9 năm 1968, TĐ2 đă đánh tan TĐ 14Đ chủ lực Tây Ninh và ít ngày sau đó tấn công vào nơi đồn trú và dưởng quân của Trung đoàn 33 Chính quy Bắc Việt ở mật khu Bời Lời gây cho chúng nhiều tổn thất về sinh mạng khi chúng tấn công vào vị trí của ĐĐ1 trong đêm. Trung tướng Dư quốc Đống Tư lệnh SĐ Nhẩy Dù là một cấp Chỉ huy mà tôi kính phục, đêm hôm qua TĐ chạm súng mạnh, mặc dù chúng tôi là đơn vị tăng phái nhưng ngay sáng sớm hôm sau, nghĩa là chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, ông đă có mặt ngay tại vùng giao tranh quan sát trận địa thăm hỏi anh em chúng tôi. Ông đă ân cần thăm hỏi anh em, chúng tôi rất cảm động. Anh em bên Nhảy Dù gặp nhiều may mắn trong đời quân ngũ hơn chúng tôi. Trong cuộc hành quân này, Trung tá Tôn thất Soạn Chiến Đoàn Trưởng/CĐB và tôi đă ở trên không phận Tây Ninh suốt 24 giờ trong ngày, để t́m những vị trí pháo binh và súng cối của địch. Chúng tôi chỉ mấy tiếng xuồng đổ xăng một lần và sẵn dịp đó làm những nhu cầu cần thiết. Ban đêm lạnh nhưng phải bay cả đêm, v́ ban đêm mới dễ nhận ra vị trí của các khẩu 82 và 61 của VC.

Đầu năm 1969 TĐ về vùng IV với CĐ/ B tham dự cuộc hành quân Giải Phóng U Minh do Sư Đoàn 21 BB tổ chức. TĐ3 TQLC được tàu Hải Quân yểm trợ theo sông Cán Gáo đổ bộ chiếm mục tiêu, lục soát xong rồi lại xuống tàu, tiến dần dần tử chợ thứ Ba đến Đông Ḥa. Tiểu đoàn 2 trực thăng vận xuống vùng Đông Hưng. Mấy ngày sau đó tôi bị thương nặng, Thiếu tá Nguyễn kim Đễ Tiểu đoàn phó và anh em trong Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nhanh chóng chích thuốc và băng bó rồi đem ra băi đáp, Cố vấn Tiểu đoàn là Thiếu tá Jack Sheehan cấp tốc gọi trực thăng tải thương đến bốc ngay lập tức, Tôi được phi công TQLC Hoa kỳ chở thẳng ra Bệnh Viện Hạm USS Sanctuary của Hoa kỳ ngoài biển khơi, nếu không nhờ những người kể trên giúp đỡ th́ chắc ǵ tính mạng của tôi được bảo toàn. Tôi không bao giờ quên ơn quư vị và các anh em đó. Sau lưng bị 24 mảnh đạn B40, mỗi miếng chừng 1 inch. Nằm bệnh viện nổi của Mỹ trên 1 tháng. Thiếu tá Sheehan sau này là Đại tướng 4 sao của TQLC Hoa kỳ. Ông cho tôi biết đă đem vể Mỹ và c̣n giữ mảnh đạn B40 gây thương tích cho tôi.

Người Việt Nam đầu tiên đến thăm tôi tại tầu Bệnh viện là bà Đốc phủ sứ Huỳnh văn Liêm. Bà đến thăm tôi v́ trước khi bị thương tôi có xin đóng quân ở khu vườn nhà ông bà ở Cần Thơ để nghỉ quân một thời gian, nên ông bà coi tôi như người trong gia đ́nh. Tôi có dịp đến nhà thăm ông bà đôi lần khi ông bà dọn nhà lên Sài g̣n. Sau này con gái của ông bà là phu nhân của Đại Tá Tôn thất Soạn TQLC, cựu Tỉnh Trưởng Hậu Nghĩa 1972-1975.Trước khi tôi rời tàu Bệnh viện để về Tổng Y Viện Cộng Ḥa th́ Thiếu tá Nguyễn đức Ân thuộc BTL có đến tàu Bệnh Viện thăm tôi và mang cho tôi vài bộ quần áo trận.Về dưỡng thương tại Tổng Y Viện Công Ḥa vài tháng các miểng đạn nhỏ c̣n rất nhiều trong người, nhưng tôi được cho xuất viện về đơn vị. Suốt thời gian bị trọng thương và thời gian về dưỡng thương ở TYV Cộng hoà tôi không có hân hạnh được gặp các cấp chỉ huy TQLC. Nhớ lại khi trực thăng tản thương tôi về đến Cộng Ḥa, máy bay để tôi xuống rồi bay đi, lúc này là 12 giờ trưa, chắc các Bác sĩ và y tá đi ăn cơm hết, nên tôi đươc nằm ở băi đáp trực thăng mấy tiếng đồng hồ phơi nắng mà cũng chẳng thấy ai ra mang vào. Uất ức tột cùng. Trung Tá mà c̣n được ưu ái như vậy th́ cấp dưới chết oan cũng là chuyện xẩy ra. Ngày hôm nay sau 33 năm ở Hoa Kỳ, đi chụp h́nh phổi hàng năm, sau lưng và trên đầu tôi cũng c̣n cả nhiều trăm mảnh đạn li ti như hột tấm.

Tôi đuợc thuyên chuyển về làm TĐT Tiểu đoàn công vụ TQLC thay Thiếu tá Nguyễn xuân Phúc. Thiếu tá Phúc bị tai nạn xe trong trận Mậu Thân 1968, nay b́nh phục ra chỉ huy TĐ2 Trâu Điên thay tôi. Được sống gần gia đ́nh 5 tháng, vào tháng 11 năm 1969 th́ tôi đươc lệnh bàn giao TĐ công vụ cho

Thành lập và trang bị xong xuôi, BCH/LĐ xuất quân sang tham chiến tai Cam bốt vào tháng 4 năm 1970. Cùng đi với BCH/LĐ có TĐ8 và TĐ 3 Pháo binh, theo Quốc lộ 1 qua G̣ dầu hạ sang Miên tiếp nhận TĐ9 và TĐ5 hiện đă có mặt ở Cam Bốt với LĐ 147 trước đó. Lữ đoàn tăng phái cho BTL Quân Đoàn IV. Trung tướng Ngô quang Trưởng TL/QĐ. Trung tướng Trưởng cũng gốc Nhẩy Dù. Bên ND có nhiều Tướng tài. Mới sang Miên, hành quân giải tỏa QL4, TĐ8 Thiếu tá Nguyễn văn Phán TĐT và TĐ 9 Thiếu tá Nguyễn kim Đễ đụng địch mạnh, Trung tướng Ngô quang Trưởng ở Cần thơ đă bay sang ngay mặt trận đang mịt mù khói lửa, Tinh thần anh em lên cao, TĐ8 đă tạo chiến thắng lớn, Trung tướng đă tặng nhiều Huy chương cho anh em trong đó có tôi và Thiếu tá Nguyễn văn Phán, Đại Úy Trần Ba được ân thưởng ADBT với nhành dương liễu.

Đại tá Bùi Thế Lân Tư lệnh phó Sư đoàn cũng từ Saigon bay sang Cao Miên nơi khu vực TĐ 9 đang hành quân thăm hỏi anh em và trao tặng một số Anh dũng bội tinh cấp Sư đoàn cho anh em TĐ9. Sau đó ông về Bệnh viện Neak Luong thăm anh em thương binh nằm tại đó.

Tháng 12 năm 1970 Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu sang thăm BCH/LĐ 369 tại Neak Luong, phái đoàn của TT có mang theo nhiều phần ăn cho tất cả những người tùy tùng, nhưng Đề Đốc Trần văn Chơn người tháp tùng TT, mời tất cả phái đoàn xuống chiến hạm đậu trên sông gần bộ Chỉ huy Lữ đoàn. Tất cả mọi người xuống Chiến hạm Hải Quân dùng cơm, Tôi không biết nguyên nhân nào mà Trung Tướng Lê nguyên Khang Tư lệnh TQLC không xuống tàu dùng cơm với phái đoàn của Tổng thống mà ở lại trên BCH/LĐ. Tôi thấy Tổng thống có vẻ đăm chiêu. Tôi cũng được mời nhưng Trung Tướng Khang không đi th́ tôi phải ở lại BCH để tiếp ông. Khi phái đoàn Tổng Thống ra về, tôi tiễn Trung Tướng Khang ra trực thăng, ông nói với tôi “ Ông chuẩn bị bàn giao Lữ Đoàn cho Trung tá Phạm văn Chung, và trở về Saigon để tham dự khóa Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại trường Đại Học Quân Sự Đà Lạt”. Trước khi bàn giao Lữ đoàn cuối năm ấy, lễ Giáng sinh cũng sắp đến. Buổi chiều của đêm Giáng Sinh, anh em phi công trực thăng xin về Cần Thơ với gia đ́nh sáng ngày mai sẽ có mặt sớm. Lúc này BCH/LĐ thường được tăng phái một phi đoàn trực thăng (Thiếu Tá Trương Thanh Tâm Phi đoàn trưởng) túc trực ở Phi Trường Nam Vang, để sẵn sàng đổ quân theo lệnh của Quân Đoàn.

Tôi có linh tính là sẽ có những điều tốt xẩy ra nhưng không rơ là ǵ. Tôi đồng ư để anh em về Cần Thơ nhưng phải có vài chiếc ở lại nơi BCH./LĐ. Đêm hôm đó đặc công tấn công vào Phi trường Nam Vang đốt và làm thiệt hại nhiều máy bay dân sự ở phi trường. Nếu đêm hôm ấy mà những trực thăng của VN đậu trên phi trường th́ chắc chắn bị phá hủy hoăc cháy hết. Mừng cho anh em Không Quân và mừng cho cả tôi, v́ làm một việc không xin lệnh Quân đoàn, may mà chuyện xẩy ra tốt. Nếu như trực thăng về Cần Thơ mà đêm đó đặc công đánh vào phi trường Cần Thơ cháy hết trực thăng th́ chắc chắn tôi sẽ bị nhiều phiền phức.

Bàn giao cho Trung tá Phạm văn Chung xong, tôi về nước và lên Đà Lạt nhập học. Vài tuần sau cuộc Hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào khởi diễn, trong đó cả Sư đoàn TQLC tham dự dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Hoàng xuân Lăm Tư lệnh Quân Đoàn I. Tôi được nghe là Đại tá Tôn thất Soạn đi ra Khe Sanh trước cùng Bộ tham mưu Sư Đoàn TQLC, thiết lập pḥng thủ và sắp xếp xong th́ Đại tá Soạn được lệnh về Sài g̣n làm Trưởng pḥng thanh tra Sư Đoàn. Trung tướng Tư lệnh Sư đoàn TQLC lấy lư do thâm niên hơn Tướng Lăm nên ông về Sài G̣n và ủy nhiệm cho Đại tá Bùi thế Lân tư lệnh phó chỉ huy SĐ hành quân sang Hạ lào. Đây là cuộc hành quân đầu tiên cấp SĐ của binh chủng TQLCVN, nhưng không do Tư lệnh Sư đoàn Chỉ huy mà là Đại tá tư lệnh phó Bùi thế Lân.

Phần tôi sau khi bàn giao, đi học, không được vinh dự tham dự hành quân Hạ lào. Sau khi măn khóa th́ tôi được lệnh ra thẳng Quảng Trị, xă Mai Lộc quận Hương Hoá để nhận chỉ huy LĐ 258 thay thế cho Đại tá Nguyễn thành Trí được đi du hoc khóa CHTM cao cấp tại Hoa Kỳ.

Thời gian này bắt đầu có những cuộc chạm súng cấp Trung đoàn của quân Cộng sản Bắc Việt xâm nhập.

Ngày 1 tháng 4 năm 72 chiến dịch tổng tấn công của quân Bắc việt bắt đầu vào miền Nam qua 3 ngả, Quảng Trị, Kontum và B́nh Long.

Ngày 1 tháng 4 năm 1972 là ngày đầu tiên Quân đội Cộng sản Bắc Việt vượt vĩ tuyến 17 nơi sông Bến Hải mở màn bằng những cuộc tấn công vào các căn cứ của Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại vùng phi Quân sự có sự tham dự của những Trung Đoàn chiến xa, pḥng không hạng nặng và nhiều Sư Đoàn để tiến về hướng Quảng Trị.

Vùng Đông Hà và Ái Tử lúc này rất sôi động, các Trung Đoàn BB thuộc SĐ3 đă rút khỏi Gio Linh và các căn cứ C2, Cồn thiên, căn cứ Tân Lâm th́ Trung Đoàn 56 BB đă đầu hàng. Tiểu Đoàn 3 TQLC đă chặn được lực lượng Bắc Việt tràn xuống Đông Hà. 2 chiến xa của Bắc Việt đă bị TĐ3 bắn hạ nằm ngay đầu cầu. Nếu cầu Đông Hà không được giật sập th́ xe tăng của Bắc Việt cũng không qua cầu được, V́ có 2 Chiến xa VC bị bắn hạ ở trên cầu, nên đoàn CX chưa qua được c̣n tập trung ở đầu cầu cũng sẽ bị Phi cơ và Hải pháo tiêu diệt mà thôi. Không cần phá cầu trong lúc này khi TĐ3 c̣n cần xử dụng

Việc Cố vấn TĐ3 làm công việc phá cầu là một việc hại nhiều hơn lợi. Nếu Cố vấn này bị chết th́ tôi là người đầu tiên bị khiển trách và báo chí Mỹ sẽ nói ǵ về TQLCVN ? V́ t́nh h́nh lúc bấy giờ quá nghiêm trọng nên không có thời giờ nghĩ đến việc Tiểu Đoàn 3 làm như vậy là Sai hay Đúng. Nếu t́nh h́nh lắng đọng th́ chắc sẽ không êm suôi như vậy. Nhiệm vụ đó không phải là một nhiệm vụ của Sĩ quan Cố Vấn, chỉ cần một chuyên viên giỏi là hoàn thành ngay. Sách báo Mỹ đă ca tụng và thổi phồng quá nhiều về câu chuyện anh hùng cầu Đông Hà. Họ ca tụng bao nhiêu th́ ḿnh thấy khó chịu nhiều hơn. V́ một việc nhỏ bé như vậy mà Công Binh TQLC và Công Binh Bộ Binh không làm được th́ khó mà giải thích.

Sau khi đơn vị của Sư Đoàn 308 Bắc Việt bị TĐ3 chặn đánh ở Đông Hà và B52 làm tan tác đội h́nh, quân Bắc việt và 1 Trung đoàn CX di chuyển về hướng Mai Lộc và vượt khúc sông cạn để vào Quảng trị qua ngả căn cứ Phương Hoàng (Pedro) ngày 9 tháng 4 nhưng bị băi ḿn trên 500 quả làm đoàn Xe tăng và Bộ binh địch phải ngừng lại và bị TĐ1,TĐ3, TĐ6 cùng TĐ3 pháo binh 105 ly TQLC thuộc Lữ đoàn 258 tại vùng Phượng Hoàng và Ái Tử đánh tan, không một Chiến xa nào chạy thoát. Hai chiếc bị bắt c̣n nguyên vẹn. Một chiếc được đưa về Huế triển lăm, sau đó được đưa về Sài G̣n để trước Ṭa Đô Chánh cho đồng bào xem. Các phi tuần của Không Quân VNCH, các đơn vị Thiết Giáp tăng phái yểm trợ đă cùng các đơn vị TQLC lập chiến công lớn trong vùng Quảng Trị vào thời điểm này, anh hùng Đại úy Không Quân Trần thế Vinh yểm trợ cho TQLC đă hy sinh trong trận này. Về phía ta th́ ngày 12 tháng 4 Thiếu tá Đoàn đức Nghi Tiểu Đoàn Phó TĐ1 đă hy sinh trên đường đi truy kích quân Bắc Việt trở về. Một tuần sau khi các đơn vị BV xâm nhập vào vùng Ái Tử đă bị tiêu diệt hoàn toàn th́ Trung Tướng Hoàng xuân Lăm Tư lệnh Quân Đoàn mới đi đường bộ ra Quảng Trị. Ông cũng là người có can đảm.

Một cuộc diễn binh đă được tổ chức tại Huế cùng với chiến xa tịch thu được, làm yên ḷng người dân sông Hương núi Ngự.

Sau trận này LĐ 258 đuợc về phía sau nghỉ quân. LĐ 147 của Đại tá Nguyễn năng Bảo đến Áí Tử thay thế chúng tôi. Được một tuần lễ th́ Ái Tử bị pháo rất nặng nề, LĐ 147 di tản vào Thị xă QT, và ngày 1 tháng 5, Chuẩn Tướng Vũ văn Giai ra lệnh các đơn vị ở Quảng Trị di tản khỏi Thị xă để tránh pháo, không ngờ đă trở thành cuộc lui quân về phía sau, để thị xă bỏ ngỏ và quân Bắc việt tiến vào Quảng Trị ngày 1 tháng 5 năm 1972.

Lúc này Lữ Đoàn 369 của Đại tá Phạm văn Chung, Lữ đoàn trưởng đang ở khu vực sông Mỹ Chánh phía Nam quận lỵ Hải Lăng tỉnh Quảng Trị.

Đại tá Bùi thế Lân tư lệnh phó SĐ đươc bổ nhiệm làm TL/SĐTQLC thay thế Tướng Lê nguyên Khang. Tướng Khang được Tổng Thống chỉ định giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II, nhưng ông từ chối, sau đó ông về Bộ TTM làm Tham mưu phó cho Đại tướng Cao văn Viên.

Lữ Đoàn 147 cũng rút về phía Nam sông Mỹ Chánh. Trung Tá Nguyễn thế Lương mới đi học về được Đại tá Bùi thế Lân tân Tư lệnh chỉ định giữ chức vụ LĐT 369 thay thế Đại tá Phạm văn Chung được thuyên chuyển về BTL/SĐ/HQ giữ chức Tham mưu trưởng hành quân Sư đoàn.

Kế hoạch tái chiếm Quảng Trị được Tướng Ngô quang Trưởng Tư lệnh Quân Khu I giao trách nhiêm cho SĐ Nhẩy Dù và SĐ/ TQLC thi hành. TQLC và Nhẩy Dù song song tiến về Quảng Trị. TQLC bên phải quốc lộ 1, Nhảy dù bên trái. Nhưng mục tiêu cuối cùng là Thị xă và Cổ thành QT nằm về phía tiến quân của TQLC th́ Tướng Trưởng lại giao cho Binh chủng Nhảy Dù. Đây là câu hỏi mà tôi nghĩ chỉ có ba người có thể trả lời được là Tướng Ngô quang Trưởng, Tướng Lê quang Lưỡng TL/ ND và Tướng Bùi thế Lân TL/TQLC. Chúng tôi chỉ là những người thừa hành.

Ngày 27 tháng 7, TQLC được lệnh thay ND để đánh chiếm Thị xă và Cổ thành. Sau 48 ngày chiến đấu gian khổ, tất cả các Tiểu đoàn TQLC đă thay phiên cùng nhau thi hành nhiệm vụ, và ngày 15 tháng 9 năm 1972 TĐ3 thuộc LĐ147 và TĐ6 thuộc LĐ 258 đă chiếm được phần trách nhiệm của lữ đoàn ḿnh và cùng cắm cở vàng 3 sọc đỏ trên tường thành Nam và Bắc Cổ thành. Lễ kéo cờ được tổ chức hồi 12 giở 45 ngày 16 tháng 9 năm 1972 dưới sự quan sát của những phóng viên ngoại quốc.

Sau khi chiếm lại được Thị xă và Cổ thành Quảng trị là giai đọan phải giữ vững Quảng trị.

Tháng 3 ngày 8 năm 73 tôi đươc Bộ TTM chỉ định làm trưởng phái đoàn Chiến sĩ Xuất sắc của QLVNCH đi viếng thăm Đài bắc theo lời mời của chính phủ Đài bắc. Trung tá Đỗ đ́nh Vượng Lữ đoàn phó XLTV Lữ đoàn thời gian tôi đi công tác. Sau 3 tuần th́ phái đoàn trở về, Tôi trở về lại LĐ 258. Lúc này BCH/LĐ vẫn đóng tại Hội Yên thuộc quận Hải Lăng. Một chuyện khó tin nhưng có thật là TQLC và Chiến xa M48 đă bắn hạ một tàu Vận tải của Trung đoàn 5 Hải Quân Bắc Việt từ cảng Cửa Việt xâm phạm vào vùng biển Quảng Trị hướng về Thừa Thiên. Tầu này bị bắn ch́m. Đây là một tầu chở lương khô tiếp tế cho các đơn vị của chúng. Trong thời gian này trên bộ yên tĩnh.

Tháng 12 năm 74 tôi được lệnh bàn giao LĐ 258 cho Đại tá Nguyễn năng Bảo để đi thành lập Lữ đoàn mới có danh hiệu là LĐ 468 là LĐ thứ 4 của SĐTQLC. Thành lập chưa hoàn tất chỉ mới xong được BCH và 2 Tiểu đoàn. Sau khi xuất quân đi Long An hành quân khoảng một tuần. Hành quân ở Long An chấm dứt LĐ đuợc không vận ra Đà nẵng để thay thế LĐ Nhẩy dù trách nhiệm khu vực đèo Hải Vân.

Ngày 28 tháng 3 đi họp để nhận lệnh rút bỏ Đà Nẵng. Tôi rất lo lắng v́ đóng trên đèo Hải Vân th́ việc rút quân thật là khó khăn, rất khó mà có thể thi hành tốt được. Hai Lữ đoàn 147 và 369 lựa băi biển trong Thành phố để tập trung rút quân. C̣n tôi, tôi xin cho LĐ đuợc rút quân xuống chân đèo Hải Vân và lên tầu tại khu vực làng Cùi ở chân đèo. Thiếu Tá Nguyễn cao Nghiêm trưởng ban 3 đi họp với tôi. Trên đường về th́ anh Nghiêm nói là người ta rút về thành phố mà ḿnh lại đi ngược ra. Tôi không giải thích. Ngày 29 rút quân th́ nhờ trời thương mà tàu Hải Quân vào bốc được cả LĐ 468 với 99% quân số và vũ khí lên tàu về Cam Ranh. Mưu sự tại nhân, mà thành sự là do Trời định.

Trong khi cặp bến Cam Ranh th́ Lữ đoàn được lệnh là có thể sẽ đi Phan Rang để thay thế cho Lữ Đoàn Nhảy Dù của Đại tá Nguyễn thu Lương Lữ đoàn trưởng tại phi trường Phan Rang. Cuối cùng th́ lệnh thay đổi, LĐ vẫn trực chỉ Vũng Tầu. Ở được ít ngày, vào ngày 8 tháng 4 Lữ đoàn cùng TĐ8 và TĐ16 được lệnh về Sàig̣n tăng phái cho Biệt Khu Thủ Đô. Khi đoàn xe đến Bà Rịa th́ Lữ đoàn bị ông Trung tá Tỉnh trưởng Bà Rịa và một chiếc xe Commando car của Tỉnh cùng một số Địa phương quân ra chặn đoàn xe lại và cho biết Dinh Độc Lập bị ném bom, ông được lệnh chặn đoàn xe của LĐ 468. Có lẽ ở Sài g̣n nghĩ rằng chúng tôi về Sàig̣n đảo chánh, tuy ông ta không nói ra nhưng tôi đoán chắc trong đầu ông ta nghĩ như vậy. Tôi nói ông về đi, chúng tôi không có đi đảo chánh đâu mà ông lo. Nếu thật sự chúng tôi đi th́ lực lượng này có đủ sức chặn đường chúng tôi không. Lữ Đoàn được lệnh quay lại Vũng Tàu chờ lệnh. Sáng ngày hôm sau lại lên đường về Sàig̣n tăng phái cho BKTĐ. Về đến Biên Ḥa được lệnh về Sàig̣n tăng phái cho Biệt Khu Thủ Đô. Khi đoàn xe đến Bà Rịa th́ Lữ đoàn bị ông Trung tá Tỉnh trưởng Bà Rịa và một chiếc xe Commando car của Tỉnh cùng một số Địa phương quân ra chặn đoàn xe lại và cho biết Dinh Độc Lập bị ném bom, ông được lệnh chặn đoàn xe của LĐ 468. Có lẽ ở Sài g̣n nghĩ rằng chúng tôi về Sàig̣n đảo chánh, tuy ông ta không nói ra nhưng tôi đoán chắc trong đầu ông ta nghĩ như vậy. Tôi nói ông về đi, chúng tôi không có đi đảo chánh đâu mà ông lo. Nếu thật sự chúng tôi đi th́ lực lượng này có đủ sức chặn đường chúng tôi không. Lữ Đoàn được lệnh quay lại Vũng Tàu chờ lệnh. Sáng ngày hôm sau lại lên đường về Sàig̣n tăng phái cho BKTĐ. Về đến Biên Ḥa th́ lệnh thay đổi, Tôi để anh em chờ ở đây, ḿnh tôi về tŕnh diện Trung tướng Nguyễn văn Minh, Tư lệnh BKTĐ nhận lệnh. Trung Tướng cho biết Lữ đoàn tăng phái cho Quân Đoàn III. Tôi trở về Biên Ḥa ngay và vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III tŕnh diện Trung Tướng Nguyễn văn Toàn. Bộ chỉ huy Lữ Đoàn và các đơn vị yểm trợ đóng tại căn cứ Long B́nh, hai Tiểu đoàn 8 và 16 chặn đường tiến quân của địch vào hướng Biên Ḥa.

Ngày 24 tháng 4 th́ tôi được lệnh bàn giao LĐ cho Trung tá Nguyễn đăng Tống để ra Vũng Tàu nhận chức LĐT/147 thay thế Đại Tá Nguyễn thế Lương đi nằm Bệnh viện. Trách nhiệm tái tổ chức LĐ/147, việc này nghe th́ dễ nhưng làm th́ thật là khó khi đơn vị đă có quá nhiều tổn thất sau cuộc lui quân ở Thuận An.

Thủy Quân Lục Chiến đánh đâu cũng thắng, nhưng chúng ta thua v́ cấp lănh đạo ở Sài g̣n và quan thầy ở Hoa Thịnh Đốn. Chấm dứt cuộc chiến, người vào tù sống tủi hận trong trại tù CS, c̣n những người thoát được th́ cũng có những nỗi nhục riêng của những người đến xứ tạm dung này.

Nh́n lại cuộc đời như một giấc mơ, bao nhiêu biến cố xảy ra nào mấy ai định trước. Như một vở kịch khi màn nhung hạ xuống th́ vở kịch kết thúc. Chính bản thân tôi không tưởng tượng được đă hai lần rời xa quê hương mà giấc mơ hồi hương không biết đến bao giờ xảy ra. Đến ngày hôm nay con cái đă trưởng thành, người bạn đời đă ra đi vĩnh viễn c̣n lại một ḿnh trong căn nhà trống vắng tràn đầy kỷ niệm của những năm lưu vong, định tâm nh́n lại những việc đă làm một cách rất thành thật và nghiêm khắc để tự đánh giá ḿnh.

Nay đang ở lúc hoàng hôn của cuộc đời. Ngồi viết lại những ḍng này để cho tâm hồn thanh thản, để nhớ lại những niềm vui và quên đi những nỗi buồn đời lính trận.

Đối với các cấp Chỉ huy tôi đă hết sức ḿnh làm tṛn trách nhiệm và tận dụng tất cả khả năng để hoàn thành. Đối với vài chuyện t́nh đời xảy ra trong cuộc sống Quân ngũ của tôi mà tôi nghĩ cũng đă xẩy ra cho nhiều người cũng là chuyện nhắc lại trong lúc trà dư tửu hậu nói lên một sự thật của cuộc đời không có ư hờn trách bất cứ ai cũng như để trong tâm bất cứ chuyện ǵ nữa trong buổi chiều tà xế bóng. Đối với những Chiến hữu dưới quyền tôi lúc nào cũng đối xử một cách công bằng, công minh với những người có tài, có đức và tôn trọng kỷ luật. Đối với cấp trên tôi luôn luôn tranh đấu cho quyền lợi anh em. Trong tập thể, không ai có thể làm vừa ḷng tất cả mọi người, kiểm điểm lại tôi thấy những việc tôi làm tốt nhiều hơn xấu cho nên đến giờ đa số anh em cũng c̣n đối với tôi trong sự tương kính và thắm t́nh chiến hữu như xưa, t́nh cảm trân quư. Trong những năm trước đây khi tôi không đến sinh hoạt với anh em được th́ hầu như tất cả đă nghĩ đến và về thăm chúng tôi, h́nh ảnh dưới đây cũng là niềm vui và an ủi nhất cho tôi vào lúc cuối đời. Tôi xin ghi nhận và trân trọng những ân t́nh đó.

Hôm nay tôi viết bài này, tôi nghĩ tuy chậm trễ c̣n hơn không, Nếu sự việc để đi vào lăng quên là một thiếu sót v́ tôi có đề cập đến nhiều Sĩ quan TQLC hồi sơ khai mà đa số anh em chưa bao giờ biết mặt hoặc nghe tên. Tôi sợ sau này con em họ không được biết tới ông cha của họ là những người đă góp công, mồ hôi, nước mắt và máu cho việc phát triển Binh chủng. V́ thời gian đă trên 50 năm, xin quư vị có mặt ở TQLC thời đó bổ túc cho tôi những khiếm khuyết nếu có trong phạm vi bài này. Tôi xin chân thành cảm tạ và sẽ bổ túc ngay.



Đồ Sơn

San José, California


PS : ai ở TQLC chắc cũng biết danh hiệu của Đồ Sơn

hoanglan22 11-30-2018 22:35

Chiếc Bánh Bột Luộc Mọt Mè Và Thau Nước Mắt Lóng lánh
 
Hôm nay vào Phố Núi, t́m lại chút kỷ niệm của núi rừng Tây Nguyên, nơi đă cho sự sống của những người cải tạo bằng sung luộc, măng tre và nấm hoang..T́nh cờ, đọc qua bài viết: CHUYỆN GỐI ĐẦU của NT Huỳnh Văn Phú lại trùng hợp với tâm trạng. Tôi muốn cùng tác giả nêu lên một vài câu hỏi :- Nhắc lại cái đói để làm ǵ ? Nhắc lại để than oán ? Hay là nhắc lại nổi tủi nhục của cái tôi một thời ? Xin xác nhận là ngoài mục đích đó.

Chúng tôi chỉ muốn nói lên cái quyền được hưởng những ǵ tạo hóa đặt để, ban cho và những ǵ do con người tạo ra. Sinh vật hữu h́nh trên thế gian đều được sống, hít thở không khí và mưa nắng 4 mùa không bị hạn chế bởi luật tạo hóa. Duy, Ở thế kỷ 19 và thế kỷ 20 này có một loài vật 2 chân biến thái, vô liêm sỉ chuyên đi cướp điều kiện sống của kẻ khác.Gọi là cướp trắng th́ mới đúng, cướp quyền lợi cá nhân, cướp chén cơm từ tay người và mọi cách nói , cách sinh hoạt V.V...35 năm xây dựng XHCN đồng bào MIỀN BẮC phải hứng chịu. Sau 1975 đồng bào miền Nam cũng phải hứng chịu. Những nạn nhân sau chiến tranh phải hứng chịu trước tiên là các anh tù cải tạo.34 năm lặng lẽ trôi nhưng không có nghĩa là quên đi chuyện đói no ngày hôm qua. Sự im lặng để nói lên thái độ chấp nhận nỗi ê ẩm cho riêng ḿnh ngày hôm qua,nhưng không có nghĩa là thờ ơ chấp nhận đồng bào tiếp nối bị đói khổ cho bây giờ và về sau . Hành động trái khoái, phi nhân tính, thượng đế cũng không tự cho phép ḿnh làm như vậy! Thế th́ ĐẢNG là cái ǵ lại tự nhân danh và tự quyết định sự sống kẻ khác ? Chúng tôi nêu lên cái tầm thường (đói, no) nhưng quả thực nó vĩ đại, nó đă làm t́nh nhân loại tang tác trên thế gian này cũng v́ chuyện đói no... Nói lên cái đói no để cảnh báo cho cái đảng gọi là v́ dân biết rằng: đói có thể làm cho cây héo,vật 4 chân rên rỉ,nhưng cái đói sẽ làm cho con người có tinh thần kiên cường hơn, sáng suốt hơn...

Xin nói lên đây một vài cảm nhận khi đối diện ( đói no) của các anh trong hoàn cảnh cải tạo. Cái đói khi mà thân thể tứ chi chỉ c̣n da và xương, làm thay đổi dị giác 180 độ.Trái khổ hoa đắng, ăn sống lại càng đắng không chịu được, ấy vậy mà chúng tôi ăn ngon lành, cảm thấy ngọt và mát như trái dưa leo. Ng̣ng cải bẹ xanh nồng cay oa că mắt khi ta ngửi, vậy mà khi ăn rất thơm, vừa ngon vừa ngọt. Ăn mọi thứ có thể ăn được trong điều kiện không qua nấu nướng, rửa sạch, mọi thứ mang theo tạp chất lẩn vi khuẩn cũng mặc, cứ nhồi nhét không nghỉ ngợi, vậy mà c̣n giử được cái mạng ngồi đây kể lể nghĩ cũng lạ !

Bây giờ, mời các Huynh đă từng có những năm dài cải tạo nh́n lại xem,có cái ǵ hay là phép mầu nhiệm nào làm cho anh em duy tŕ được bản thể, được sinh tồn mà không bị mảy may... Trước tiên xin bàn về Chiếc Bánh Bột Luộc Mọt Mè. Trước năm 1975, đồng minh các nước châu Âu, châu Mỹ ồ ạt diện trợ bột ḿ cho VNCH không c̣n đủ kho để chứa, dân th́ không dùng đến, quân đội th́ dùng cũng chẳng kham; vậy th́ sau 1975 những bao bột ḿ c̣n tốt được chuyển đi đâu ? Và ai dùng nó ? Xin xác nhận trung thực là dân chỉ được ăn bo bo không được ăn bột ḿ, tù cải tạo chỉ được ăn BỘT M̀ MỌT. Thời gian xử dụng bột ḿ làm các anh cấp dưỡng phải khốn đốn v́ hít phải bột mốc, bột được đổ ra sân, mỗi người dùng chiếc sàng to sàng lọc nhiều lần để loại mọt ra. Thảm thay, mọt ngang với bột, những chú mọt c̣n sống hay đă chết nhưng c̣n nguyên vẹn th́ được sàng lọc ra phần ít ỏi, phần c̣n lại gồm bột, mọt nguyên con và mọt chết ră, được nhào nắn và luộc lên thành chiếc bánh, nặc mùi móc và vị đắng mùi (peneciline). Khẩu phần cho 8 người gồm cơm trắng tráng đít thau và 8 chiếc bánh được đặt chồng lên nhau. 8 anh em nh́n vào mà năo ruột, ăn thế nào đây ? Thà bụng đói mà chịu được, long lỏng th́ không kham nỗi ! Thế là mặc nhiên chia nhau 6 hoặc 7 người ăn cơm, 1 hoặc 2 người ăn bánh, thay phiên nhau cái thế liên hoàn, lúc nào cũng có 6 hay 7 người ăn cơm vẫn chịu đói và 1 hay 2 người ăn bánh được no. Nhưng mà, người được no ở đây cũng đau khổ lắm v́ bột ḿ mọt mốc, nóng oa că mắt và đắng khô gắt că họng, chỉ mỗi một điều thỏa được cái no.

Bên cạnh thau cơm c̣n phải nói đến thau nước mắt lóng lánh ( nước muối ḥa tan). Nh́n thau nước muối mà anh em nghèn nghẹn như thau nước mắt ḥa huyện tức tửi, nước mắt thật trong mỗi anh em đâu c̣n chất sản sinh mà trào ra ! chơ c̣n hơi nóng trong cổ họng, nuốt một cách uất nghẹn...Rỏ ràng thượng đế thương anh em chúng ta. Bọn giặc cướp có biết đâu trong chiếc bánh mọt mốc hàm chứa một lượng khán sinh dư thừa để triệt tiêu vi khuẩn nhồi nhét vô tội vạ hàng ngày, và cũng chính v́ thế mà tấm thân khô gầy như đỉa núi đói vẫn c̣n có ngày hôm nay.
Cám ơn quí vị đă vào đây chia sẽ,bài viết này chỉ có 4 chất kết hợp là Đắng, Cay, Chua và Chát không có vị ngọt , nhưng nếu quí vị nhiệt t́nh nếm đủ th́ vị ngọt sẽ đến làm quí vị mát dịu và dễ chịu hơn.....
Xin tặng mỗi anh một bông hồng... .gif và hăy yêu thương ḿnh hơn để bù lại những ngày héo hon.


SAU ROM .

PS : HL22 gặp lại bài viết của Anh:thankyou: thật rất mừng , lâu quá không gặp nhau .Chúc Anh và gia đ́nh được mọi sự b́nh an và đầy đủ sức khỏe

hoanglan22 11-30-2018 23:22

Chiếc Xe Cứu Mạng
 
1 Attachment(s)


H́nh chiếc xe Jeep trên đă cứu mạng tôi cùng 4,5 chiến sĩ Sư Đoàn 18 BB ra khỏi lưỡi hái tử thần.

Ngày 26-4-1975 Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh cùng một Đại Đội của Trung Đoàn 48 BB đụng rất nặng tại mặt trận Trảng Bom, chúng tôi phải đương đầu một Sư Đoàn BV có Thiết Giáp tùng thiết. Cũng nhờ bức tường lửa dài do hai chiếc Skyraider thả những quả bomb Napalm xuống làm cho đôi bên tự động ngưng giao chiến. Tôi nghĩ nếu không nhờ bức tường lửa này có thể đơn vị tôi bị thiệt hại rất nặng.

Trận này tôi bị thương ngay cánh tay phải và được tải thương trong một chiếc M113 hướng về Long B́nh. Lúc đó th́ nơi nào cũng có địch quân theo sát. Khoảng 6 giờ 30 sáng ngày 27-4-1975 chiếc xe tải thương chúng tôi lănh nguyên một trái B-40 bốc cháy tất cả trong xe chết hết, tôi phải dùng tàn lực nhảy ra và phóng qua bên kia đường rầy xe lửa, tai tôi nghe chúng hô to: “Các đồng chí xung phong !” Đơn vị tôi phải dàn đội h́nh để tiêu diệt toán phục kích này.

Trong lúc giao tranh, th́ anh Tư tài xế của ông Đơn Vị Trưởng sụp mui chiếc xe Jeep xuống và bảo tôi nhảy lên cùng 4,5 anh em bị thương khác của bên Đại Đội BB. Anh tài xế phải chạy thật nhanh băng qua một băi pháo dài trên 2 cây số của địch. Vừa qua khỏi băi pháo tôi nói: “Ḿnh sống rồi !” Tất cả những người bị thương trên xe mừng rỡ. Anh Tư tài xế hỏi: “ Bây giờ ḿnh đi đâu?” Tôi nói: "Cứ chạy thẳng về Tổng Y Viện Cộng Ḥa.”

Về đến Tổng Y Viện Cộng Ḥa anh em được điều trị 2 ngày th́ nghe Radio ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng và chúng vào đuổi hết những thương binh ra. Tôi phải mang vết thương c̣n rỉ máu thấm ra băng thất thểu lội bộ về tới khu Bàn Cờ nhờ người bạn học cũ chở về nhà.

Gia đ́nh tôi có 5 anh em và một anh rể gia nhập vào Hải, Lục, Không Quân, Thiết Giáp, Cảnh Sát, tất cả đă về nhà chỉ c̣n một ḿnh tôi chưa thấy về, cũng nhờ mẹ tôi “đốt nhang nhiều” van vái Trời Phật nên cuối cùng tôi cũng được trở về với gia đ́nh.


hieunguyen11

H́nh chiếc JEEP cứu mạng hieunguyen11 trên, mang đầy ắp những kỹ niệm năm nào. H́nh chụp tại một căn cứ ở dốc Bà Nghĩa, quận Tân Uyên Biên Ḥa bởi Cố Tr/úy Nguyễn Trung Đồng Dinh hy sinh tại chiến trường An Điền năm 1974. Người ngồi ở ghế tài xế đă để lại thân xác trên núi rừng miền Bắc năm 1978. Trên xe có cả chú Lucky cũng nằm lại tại chiến địa vùng Ngă 3 Dầu Giây Long Khánh tháng 4-75. Những kỹ niệm buồn cho đến bây giờ và cho đến bao giờ....Thân. VKTĐ




PS : HL 22 lâu quá không gặp lại ông bạn Thiết Giáp , đọc mấy bài thơ của ông bạn thật là hay

Andy 82 cũng biết về ông bạn rời khỏi forum ///buồn thiệt Chúc sức khỏe đến bạn và gia đ́nh

hoanglan22 12-01-2018 00:08

Chuyện Kể Thiếu Úy 9 Ngày
 
3 Attachment(s)
Khi giặc chiếm Sàig̣n tháng 4/75, mỗi người lính miền Nam đều phải đối mặt với những nghịch cảnh riêng: kẻ tự vẫn, người buông súng, kẻ t́m đường về nhà, người t́m đường ra khơi v.v….

Bài viết, Chuyện Kể Thiếu Úy 9 Ngày của Phạm Văn Hùng SVSQVBĐL K28 cung cấp cho chúng ta những chi tiết thật về việc đơn vị của anh đă buông súng như thế nào, và những ǵ đă diễn ra ngoài khơi vào các ngày 30/4, 1/5, và 2/5 năm 1975



Câu chuyện tôi sắp kể cũ xưa lắm rồi những gần 35 năm chớ ít ǵ. Ngày 30 tháng 4 năm 2010 tới là đánh dấu 35 năm tính từ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lẹ quá! Tôi có thằng bạn chung khóa tên Trần Hiệp về cùng Lữ Đoàn 1 Dù. Theo như lời nó nói, có 6 Thiếu úy về mỗi tiểu đoàn, chia đều 3 cho khóa 28 và 3 cho khóa 29. Khóa 28 có nó và Lê Phước Nhuận, c̣n thằng thứ ba tụi nó không nhớ ra ai, tôi nhận bừa, tôi chứ ai. Nhưng nếu là tôi, sao tôi không về Tiểu Đoàn 1 mà lọt chọt về Tiểu Đoàn 8/Đại đội 83. Như đúng lời nó nói, vậy Tiểu Đoàn 8 hẳn phải c̣n 2 ông khoá 28 nữa. Hai người đó là ai và c̣n người thứ ba bên Tiểu Đoàn 1. Chúng tôi tranh luận và bắt đầu ghi nhớ lại khởi điểm từ Núi Đất, Phước Tuy, với hy vọng quí niên trưởng và các bạn nào có góp mặt vào thời điểm ấy cho chúng tôi biết tin thêm.

Cám ơn! Như tôi nói biến chuyển thời cuộc đă qua 35 năm, mọi sai sót ắt phải có mong quí vị bỏ qua cũng như với cấp bậc Thiếu Úy mới ra trường, ăn chưa no lo chưa tới, xin quí vị thứ lỗi luôn. Phải bắt đầu như thế nào đây? Ừm, cho tôi nói về Trần Hiệp trước. Sau khi trưởng toán Lê Phước Nhuận tŕnh diện các tân thiếu úy 28, 29 lên Tham Mưu Ban 3 Tiểu Đoàn 1 Dù, niên trưởng Thể K24 c̣n chấn chỉnh trưởng toán tŕnh diện với quân phục không được gọn gàng, cũng may không bị hít đất. Sau đó cả toán được tŕnh diện lên Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Ngô Tùng Châu K18.

May mắn cho tụi nó hôm đó la Thiếu Tá Châu có người nhà ra thăm nên được ưu ái đăi ăn một bữa cơm dă chiến gồm bánh hỏi và thịt heo quay trước khi ra đại đội tŕnh diện. Hiệp nhà ta ra đại đội mừng húm gặp lại niên trưởng Thọ K25 đang làm đại đội trưởng. Chả là hồi ở trong trường hai người cùng chung Đại Đội H. Ngày vui không bao lâu, nó và đơn vị phải gian khổ mới kéo nhau về tŕnh diện Vũng Tàu kể từ khi chân cầu Cỏ May bị giựt sập. Đơn vị nó được chỉ định đóng ở băi sau Vũng Tàu. Chưa yên, qua ngày 29 tháng 4 bị ăn đạn pháo ở Bến Đá, Vũng Tàu, khi đơn vị nó định theo chân Lữ Đoàn rời về Vàm Láng, G̣ Công. V́ đi ghe nhỏ, nó chậm chạp vào G̣ Công ngày 30 tháng 4, chuyện tan đàn xảy nghé đă diễn ra tại đây và nó bơ vơ từ dạo đó.

Đúng là ngày vui qua mau, thời gian 9 ngày Thiếu Úy ray rứt nó măi trong lao tù cộng sản. Tại sao ngày đó không đi tha phương để khỏi bị cảnh đày đọa ngay trên quê hương? Nó hối hận chọn lầm đường ở lại. Quay sang Lê Phước Nhuận, Thiếu Úy 9 ngày của nó thật oanh liệt. Nó về Đại Đội 15 thuộc Tiểu Đoàn 1, nắm chức Đại Đội Phó. Tối 25 tháng 4 được dự lễ khao quân ở tiểu khu Phước Tuy nhưng qua tối 26 lănh trọn đêm đạn địch pháo kích, và ngày 27 bị địch quân vây hăm trong đồn Nhà Đá. Trung đội của nó phải mở đường máu thoát ra ngoài và nhờ liên lạc được với niên trưởng Thể mới t́m đường về Bến Đá vào ngày 28. Sau một đêm yên b́nh trên tàu đánh cá, ngày 29 chiếc tàu của nó lại phải chạy tránh né đạn pháo kích nơi này. Ngày 30 tàu nó vẫn c̣n lang thang trên biển không biết Lữ Đoàn 1 đă về Vàm Láng, G̣ Công.

Sau cùng, nó được Mỹ vớt ngày 1 tháng 5 và từ đó nó bắt đầu cuộc đời lưu vong. C̣n tôi, cũng Thiếu Úy 9 ngày nhưng không có lấy một ngày oanh liệt như bạn tôi, Lê Phước Nhuận. Và đây, câu chuyện của tôi. Ngày 21 tháng 4 năm 1975, khóa 28, 29 rủ nhau ra trường một lượt. Lễ măn khóa với quân phục và nón sắt, chúng tôi hăm hở lên đường. Có điều trùng hợp, ngày lịch sử của hai khóa chúng tôi cũng là ngày lịch sử cho đất nước Việt Nam Cộng Ḥa, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ngày 24 tháng 4, toán Nhảy Dù chúng tôi ra tŕnh diện Lữ Đoàn 1 tại Núi Đất, Phước Tuy sau nhiều ngày nằm chờ dài cổ ở trai Hoàng Hoa Thám, Sài G̣n. Tôi về Tiểu Đoàn 8, Đại Đội 83, Đại Úy Hiệu đại đội trưởng.

Đêm đó, theo lệnh cấp trên, Đại Úy Hiệu đưa đại đội lên ngọn đồi cao nhất của Phước Tuy trú đóng. Tôi chưa có chức vụ ǵ trong đại đội, chỉ theo sau lưng để quan sát lối hành quân của ông ta. Trời khá khuya, dưới ánh trăng mờ nhạt bỗng ai cũng nghe hai tiếng bịch, bịch rổi im lặng sau đó. Ổng đang đi ngon trớn, khựng lại hơi kḥm xuống và hỏi nhanh về phía trước :

- Đ.M. cái ǵ đó? Chừng mươi giây sau có tiếng khàn khàn rất nhỏ vọng lại từ phía trước: – Dạ… thưa… có thằng hái đu đủ !

- Đ.M. kêu nó tới đây. Giọng ổng đanh lại và đứng thẳng người lên. Đằng trước có dáng dấp một người nhỏ con hơi lùn chạy lom khom đến và chuẩn bị tŕnh diện th́ b́nh, bịch, b́nh , bịch. Ổng, không nhiều tay, giơ chân đá hai ba cái lên thân h́nh người lính gây tội ấy :

- Đ.M. mầy muốn giết cả đám hả ? Đă biểu im lặng mà. Những tiếng động mà ổng giáng xuống người lính, c̣n lớn hơn trái đu đủ rớt. Vậy mà ổng kêu im lặng. Tôi qú ở phía sau ở thế thủ nghĩ thầm. Mẹ, Nhảy Dù kỷ luật quá xá và đây là lần đầu tôi thấy sĩ quan đánh lính. Rồi th́ cũng lên tới đồi, bây chừ ổng mới nói chuyện với tôi, đại khái đại đội tạm thời đang đầy đủ quân số, tôi cho thiếu úy một thằng lo ăn ngủ trước, sau đó sẽ tính. Tôi biểu thằng tà lọt trải poncho ngủ gần ổng. Ổng ngủ vơng, tôi mới ra làm ǵ có vơng. Cứ bám theo gần ổng, tuổi thọ của tôi biết đâu có thể nâng lên được một cấp !’

Sáng hôm sau, ngày 25 tháng 4, gần trưa có thượng sĩ phát lương từ Sài G̣n ra, ông ta phải trèo lên chỗ đóng quân mà phát lương. Thế ông ta từ Sài G̣n ra và lên ngọn đồi này bằng cách nào, tôi không biết! Ai cũng có phần, cũng có tiền nhưng tôi th́ không. Mẹ, mới ra binh chủng Dù có một đêm làm ǵ có tên trong sổ quân đ̣i lương với phạn! Thấy tôi đứng xớ rớ gần đó, đại úy của tôi ngoắc lại hỏi c̣n tiền xài không? Tôi đang đói meo đây, ngày ra trường chọn về Nhảy Dù, hết mẹ nó tiền, chơi luôn chiếc nhẩn Vơ Bị vào tiệm cầm đồ, mua ngay bộ đồ Dù và những thứ lỉnh kỉnh khác. Bây giờ đứng trước mặt ông, tôi chỉ có tờ giấy cầm đồ, giấy chứng nhận tại ngũ, bằng Dù, căn cước Sinh Viên Sĩ Quan, và thẻ lănh lương củ rích của trường. Nói tới thẻ lănh lương này mới ngán ngẫm, lương tháng nào ra cũng bị anh Ba Râu chủ câu lạc bộ trong trường tḥ bàn tay vào và ngắt đi hơn một nửa. Đại úy thấy tôi khổ sở ca bài con cá, bèn nói ông thượng sĩ phát lương, cho tôi mượn trước 5000 đồng.

Úi chà, Nhảy Dù số một, Đại Úy Hiệu của tôi ‘number one !’



Có tiền, tôi và thằng đệ tử xuống ngay xóm dưới chân đồi mua sắm liền. Chẳng mua ǵ ngoài ba thứ như ḿ gói, tôm khô, thuốc lá. Thiếu ǵ th́ thiếu chớ không thể thiếu được thuốc lá. Tối đó, tôi có một đêm huy hoàng. Mà lạ, kế bên chỗ tôi nằm có thằng đệ tử của Đai Úy Hiệu đào ngũ mất tiêu. Tôi quên nói Đại Úy Hiệu có tới ba bốn thằng đệ tử lận. Cái thằng tía lia tối qua nghe nó kể chuyện rất rành rọt về tiếng chim kêu, chim hót. Chỉ cần nghe tiếng con chim kêu hót là nó biết tỏng ngay con chim ǵ. Nó kể ra vanh vách tên những loại chim ở dưới quê của nó, thân thể, màu sắc, lông lá. Nó diễn tả qua tiếng huưt gió điêu luyện, nghe như có nhiều loại chim đang bay đậu quanh tôi, những con chim hót đêm khuya! Đúng hơn nó chính là chim, hôm nay chờ lănh lương xong chim bay biền biệt. Tối nay tôi không c̣n nghe tiếng chim hót.



Ngày 26 tháng 4, trong ngày an lành, không có nhiệm vụ ǵ làm, tôi lang thang bên triền đồi. Đồi núi vắng lặng, gió hiu hiu, tôi muốn ngủ nhưng không dám ngủ. Tôi chợt nhớ về trường, về bè bạn. Giờ tôi cô đơn thật, không bạn bè chọc cho nó chưởi, cho nó cười…. Có mất đi nhưng sinh hoạt hằng ngày, đùng một cái thay đổi hoàn cảnh thấy luyến tiếc nhớ thương. Nhớ cô đào mà cách đây một tháng vẫn c̣n tay trong tay, nhớ da diết. Tối 26, cộng quân bắt đầu pháo kích đến trung tâm Vạn Kiếp, thị xă Phước Tuy và vào Trường Thiết Giáp. Tôi không biết trường này bị bao nhiêu trái nhưng tôi biết bị nhiều lắm, h́nh như Trường Thiếu Sinh Quân cũng bị lây.

Đạn pháo kích lẫn đại bác được bắn đi từ hướng Long Khánh. Cả đại đội, kẻ đứng người ngồi nh́n bất động. Tôi nghe được tiếng đạn xé gió rào rào đến mục tiêu, tôi không nghe tiếng ai kêu khóc chỉ nghe tiếng đạn bay, lằn chớp, tiếng nổ.

Sáng 27, đại đội lục đục kéo xuống quốc lộ. Sau hai ngày ‘do not thing’ và ngắm pháo bông tối qua, tới ră rời . Vừa tới quốc lộ bị ngay những tên cộng quân đóng chốt bắn loạn cào cào. Cũng may không ai bị thương, tôi cũng không biết trung đội nào ở phía trước đă bứng cái chốt ấy, như tôi đă nói, tôi chưa được giao nhiệm vụ ǵ ngoài đi theo sau lưng ông đại đội trưởng, nên không biết ǵ nhiều ngoài cái lưng của ổng. Băng qua quốc lộ, có những tiếng súng dồn dập, tôi không đoán được AK hay M16 và… ô hay, ông Đại Úy bùa hộ mạng của tôi biến đâu mất tiêu! Tôi nh́n thằng đệ tử (cũng may c̣n có nó) hỏi nó có thấy ổng ở đâu không? Nó nh́n tôi lắc đầu và lắc đầu. Tôi biết khuôn mặt tôi lúc bấy giờ chắc khó coi lắm cho nên nó cứ nh́n tôi mà lắc đầu hoài. Không biết ổng đă qua bên này chưa? Trở lại bên đó, eo ơi chắc bỏ mạng. Nh́n quanh tôi thấy ổng từ xa sau những g̣ đất. Mẹ, ổng lẹ thiệt! Mới đó rẹt rẹt băng qua quốc lộ, đă ở tuốt đàng xa. Tôi thật lờ quờ! Có những tiếng nổ lớn trên quốc lộ hướng về Vũng Tàu. Tôi được biết Thủy Quân Lục Chiến đă đánh sập cầu Cỏ May để chận tanks địch vào Vũng Tàu. Họ được lệnh ở đó chờ toán cuối cùng của Tiểu Đoàn 8 qua cầu rồi đánh sâp. Tiểu Đoàn 8 đi qua nhưng Đại Đội 83 th́ không v́ bị địch đóng chốt ngăn cản phải khựng lại lúc sang. Mon men đến chân cầu hy vọng có phương tiện nào đó c̣n sót lại để qua sông chợt thấy bóng dáng địch quân, mà là quân chính quy (chúng mặc đồng phục).

Đơn vị được lệnh tháo lui, địch quân cũng nhận ra sự có mặt của lính Dù không quên tiễn chúng tôi bằng những tràng đạn ḍn tan. Chừ tôi đă phân biệt được đâu là AK và đâu là M16. Đơn vị lẩn nhanh vào cánh rừng sau lưng chạy dọc theo con sông (sông Cỏ May?). Cánh rừng có rất nhiều cây không lớn lắm, cành lá khẳng khiu, được cái rậm rạp đủ che chở cho đơn vị lẩn tránh. Giá như đơn vị giờ này chạy ra quốc lộ chắc chắn địch quân đang dàn hàng ngang chờ đợi. Có lẽ chúng cho rằng một con sông trước mặt nước chảy xiết, bên kia sông khu rừng sát, lính Dù không đường lựa chọn phải ra lại quốc lộ và đầu hàng. Đầu hàng lúc này đồng nghĩa với tự sát !

Do đó chúng ‘enjoy’ nằm chờ trên quốc lộ không thèm truy kíck chăng? Dọc theo con sông một lúc khá lâu khi biết khoảng cách đă rất xa với chân cầu Cỏ May, Đại Úy Hiệu ra dấu cho toán quân dừng lại sau khi t́m được chỗ thích hợp để qua sông. Bây giờ trời đă bắt đầu về chiều, ánh nắng không c̣n gay gắt soi mói chui vào lớp áo Dù ướt đẫm mồ hôi của tôi nữa. Tôi hờ hững nh́n ḍng sông dưới chân, giờ tôi mới có dịp ngắm nó. Nó đục ngầu như hồ Than Thở nhưng không nhu ḿ hiền dịu. Nó mạnh bạo cuốn trôi những chiếc lá úa vàng và tàn nhẫn dập vùi vào ḷng nước. Trong ngày chưa có cái ǵ vào bụng, tôi đói nhưng không muốn ăn mà cũng đâu có rảnh rỗi. Đại Úy Hiệu rất ít nói, lúc ổng nói thường kèm theo cái lệnh:
- Thiếu úy, coi chuẩn bị qua sông. Tối đến ḿnh vào rừng sát.

Tôi “dạ” nhỏ rồi phóng nh́n khoảng cách giữa hai bờ, cũng không xa lắm, đôi bờ cách nhau mươi thước.

Chuyện nhỏ, tôi chuyển lời của đại úy lại cho thằng đệ tử, mặt nó xanh như tàu lá chuối run giọng :

- Phải bơi qua sông hả Thiếu Úy ?

- Em… em không biết bơi !

- Cái ǵ ? Mầy không biết bơi ?

- Thôi chết, tôi chỉ biết bơi đại khái chớ đâu có giỏi. Quân đội của ḿnh huấn luyện ở mỗi một người quân nhân phải biết học lăn lộn, ḅ trường, bắn đủ loại súng nhưng không dạy người quân nhân qua lấy một lần học bơi căn bản. Nó không biết bơi, mẹ nó, làm sao đây? Bài học vượt sông từ trường Vơ Bị chợt đến, tôi áp dụng ngay: – Mầy mở ba lô lấy poncho trải ra, thêm cái của tao nữa cho chắc ăn, gom đồ bỏ hết trên đó. Mầy nhớ ôm túm đầu poncho cho chặt tao sẽ bơi kéo mầy qua sông. Nhớ ôm chặt đó! Thấy có nhiều người làm theo như tôi nhưng cũng có nhiều không làm. Họ tự ḿnh ên lội chậm chạp ṃ mẫm qua sông. Nước khá sâu và chảy xiết.



Qua gần giữa gịng, trắc trở bắt đầu xảy ra. Vài người yếu sức la cầu cứu và sự hỗn loạn đă đến. Lên được bờ bên kia rồi tôi trở lại cứu thêm một hai người khác. Thật quái ác trên bờ sông bên này không có nhánh cây nào đủ dài để có thể đưa ra ḍng sông cho họ nắm kéo vào. Tôi đuối sức nh́n những cánh tay tuyệt vọng từ từ ch́m vào ḍng nước… Tội nghiệp cho những người lính Dù tôi không biết tên đă vĩnh viễn nằm lại nơi nầy! Bên nầy sông là cánh rừng thưa, cây cối rất thấp. Đây rồi rừng sát, cây cao không quá đầu người, trời nước bao la, giang sơn của loài c̣. Xa xa sau những hàng dừa xanh, vài căn nhà tranh lưa thưa dọc theo quốc lộ. Đơn vị phải đi vào chỗ chết tiệt này để t́m ra con đường sống sao đây. Đợi trời thật tối chúng tôi bắt đầu đi vào rừng sát, nước lúc đầu c̣n thấp chưa ngập quá giầy nhưng mau chóng cao dần. Những bước chân của tôi từ từ nặng nhọc, hai tay bắt đầu thấy mỏi và cây súng M16 trở nên nặng hơn, cuối cùng nó nằm trên nón sắt ngon ơ. Trời về khuya, mực nước cao hơn thêm có chỗ cao tới rún. Cuộc đời tôi không lẽ phải chấm hết nơi nầy !

Đại úy Hiệu cho dừng quân, mọi người tự t́m cho ḿnh những thân cây và bám vào. Khổ nổi ở đây không có cây nào cao hết, cho dù có t́m được cũng không đủ cao mà ngồi rút chân ra khỏi nước. Tôi trông thấy Đại Úy Hiệu ngoắc thằng đệ tử của ổng lại gần và thấy nó đưa cho ổng chai rượu Cognac, ổng tu một hơi dài sảng khoái. Tôi không thèm rượu nhưng lúc này nếu được mời tôi cũng làm một ngụm cho ấm ḷng, bỗng dưng tôi thèm một hơi thuốc, khói thuốc có lẽ sẽ tăng thêm nghị lực cho tôi trong hoàn cảnh này. Cái cảnh ở trong nước như thế này rơ thật chán, nằm không được ngồi cũng không xong mà đứng một chỗ sẽ bị lún. Cha mẹ ơi! Tân Khóa Sinh đă khổ, cảnh này c̣n khổ hơn !

Đêm thật tĩnh mịch! Chỉ có những tiếng động do lính Dù gây ra, nhưng sau đó nhanh chóng trả lại sự yên tĩnh. Có tiếng mái chèo khua đâu đây nhịp nhàng khuấy động, âm thanh của một con thuyền đang lướt trên nước. Thuyền ai đi trong khuya trên biển nước mênh mông này nhỉ? Dưới ngọn đèn bấc mù mờ treo đu đưa bên mạn thuyền, con thuyền từ từ hiện ra, tiếng mái chèo vẫn đều đều khua động trên nước. Người trên thuyền chưa biết có sự hiện diện của lính Dù đang trố mắt ngạc nhiên nh́n nó đến. Nó không đến v́ chúng tôi, nó chỉ t́nh cờ đi ngang qua và tiếng mái chèo vẫn đều vang trên sóng nước. Tôi nh́n Đại Úy Hiệu thăm ḍ, chắc ổng đang suy nghĩ tính toán dử lắm, và ổng quyết định cho lính ra chận thuyền. Nếu là thuyền của dân sẽ nhờ họ đưa lính Dù vào bờ, thuyền nhỏ vô ra hai ba chuyến rồi cũng vận chuyển hết toán lính vào bờ. Nếu là thuyền của địch quân, tất nhiên lính Dù sẽ tấn chiếm thuyền và dùng thuyền làm sinh lộ. Đằng nào cũng phải có thuyền. Đang lúc khát nước gặp trời mưa, buồn ngủ gặp chiếu manh, đang lúc chết đuối có thuyền ra giúp. Ối giời! Đặc ân đó trời ban cho.

Thế nhưng… trên thuyền có hai vợ chồng già và một xác chết đàn bà, họ nói đưa cái xác đó vào làng trước khi trời sáng nên họ phải rời nhà lúc giữa khuya và chỗ họ đi không phải chỗ chúng tôi đến. Đại úy Hiệu cho họ đi có lẽ v́ xác chết kia chăng? Ổng không muốn bị dây dưa báo oán hay ổng tội nghiệp cho đôi vợ chồng già nọ. Tôi biết người lính trên chiến trường thường hay tin vào huyền bí của những người khuất mặt, khuất mày phù hộ họ, cho người c̣n sống được tai bay nạn khỏi. Chúng tôi cũng mau chóng rời địa điểm, đâu biết được nếu họ là người phía bên kia. Thủy triều hạ xuống khi trời gần sáng, đơn vị không gặp những trở ngại nào khác và b́nh yên vào Vũng Tàu trưa ngày 28 tháng 4. Vũng Tàu, thành phố lần đầu tôi đặt chân đến, cái tên thật b́nh dị, mộc mạc. Không khí chiến tranh chưa tràn đến, người dân vẫn sống, vẫn buôn bán, vẫn ăn uống nhưng chưa đến không có nghĩa không đến. Trên khuôn mặt mọi người ai cũng hoang mang, tin chiến sự nóng dồn dập trên những nẻo đường mà toàn tin bất lợi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nhảy Dù cũng không thoát khỏi cảnh ngộ này. Lính Dù bị dồn nén co cụm không lối thoát khi đi vào Vũng Tàu, những cấp chỉ huy Dù chắc cũng thấy vậy nên hành động đầu tiên khi đến đây là kiểm soát hết tàu bè trong vùng. Địch quân chưa bao giờ kiểm soát được vùng biển, vùng duyên hải, họ không có khả năng đó. Đường bộ hầu như địch quân đă hoàn toàn kiểm soát, quốc lộ bị đứt đoạn, bầm dập chia từng mảnh nhỏ. Đường trên trời, coi như mộng tưởng, mọi trực thăng vận đang bận rộn cho những cuộc di tản hành tŕnh ra hạm đội đâu có dư cho Nhảy Dù, nếu có chỉ một chiếc nhưng là’one way ticket’.

Tại sao lính Dù phải đi vào Vũng Tàu ? Cho đến bây giờ tôi vẫn vương vấn hoài câu hỏi đó. Binh pháp ngàn xưa không bao giờ hành quân vào ngỏ cụt ngoài dụng tâm dụ địch hoặc có những phương kế thần sầu. Vũng Tàu, một ngày êm dịu nhưng cũng là điềm báo trước cho những ngày oi bức sắp tới. Tôi không có ǵ làm, lang thang trong bộ chỉ huy hoài cũng chán (đă nói tôi chưa có nhiệm vụ mà). Bộ chỉ huy tạm thời nằm trong một trường trung học, tên ǵ (?) không tài nào nhớ nổi. Đại đội tôi là đơn vị cuối cùng bị thất lạc một ngày một đêm trong rừng sát. Về muộn không có nơi cư ngụ nên được nằm gần Đại Bàng. Tôi và thằng đệ tử lẻn ra ngoài t́m đến các trại tạm cư cho những người ngoài Trung vào, nhất là những khu tạm cư người Đà Nẵng. Thời buổi tao loạn, ai đi t́m người thân cũng được những ánh mắt thiện cảm nhưng tiếp theo đó chỉ là những chuỗi lắc đầu. Họ được chỉ định tạm trú ở Vũng Tàu từ sau cuộc di tản kinh hoàng ngoài Đà Nẵng, những ai có thân nhân ở miền Nam họ đă sum hợp và tá túc nơi khác. Những người c̣n lại rất khổ nếu không nói là thê thảm, chính quyền lúc đó bề bộn bởi chiến cuộc cáng đáng nào xuể, cũng chẳng cơ quan từ thiện nào lưu tâm tới.

Không t́m ra một ai quen, tôi lững thững quay lại bộ chỉ huy, ngoài chuyện t́m thân nhân tôi chẳng có mục đích nào khác. Vũng Tàu quá mới mẻ với tôi, người trên đường ai cũng bước vội, dưới đường Honda ngược xuôi như mắc cửi chở đầy đồ đạc. Sắp sửa có di tản như tôi đă thấy từ Đà Lạt về B́nh Tuy, ở đây quốc lộ đă bị cắt rồi, di tản cách nào khác hơn đường biển. Xa xa tôi nghe tiếng đại bác vọng về. Tối 28 tháng 4, nhiệm vụ đầu tiên của tôi là tuần tiểu. Chuyện dễ dàng, không phải tôi vẫn thường hay tuần tiểu trong trường ở năm thứ 3 khi lên ca trực hay sao! Đêm nay trời mưa dai dẳng, cùng đi tuần với tôi là một Hạ Sĩ Quan, mang lon trung sĩ, tôi không nhớ tên. Đến một vọng gác không thấy lính gác, tôi quay sang anh ta:

- Mày vô trong coi ai gác ở đây vậy?

Người trung sĩ cùng tuần tra với tôi chưa kịp nhón gót, từ trong pḥng học của trường trung học nay lính Dù biến thành nơi ăn ngủ, phóng nhanh ra một dáng người hấp tấp chưa kịp đội nón sắt :

- Dạ thưa em…

Lúc này anh ta nheo mắt, không nh́n vào tôi nhưng nh́n vào cổ áo của tôi và lặp lại :

- Dạ thưa em, Thiếu Úy!

Tôi chưa nói câu nào, người trung sĩ xấn tới :

- Đ.M. ai cho mầy ngủ ? Kế đó là những cú đấm đá tới tấp lên người lính gát chểnh mảng ấy. Tôi vội bước đi, v́ tôi biết như thế người trung sĩ sẽ theo tôi và người lính gát kia đở bị đ̣n hơn. Thưa quí vị, tôi kể chuyện nhỏ nhặt này để thấy kỷ luật cứng rắn không kém phần tàn bạo trong binh chủng Dù, người lính Dù ngoài trận tuyến rất tuân thủ lệnh thương cấp, cho dù biết tuân lệnh đi vào chỗ hiểm có thể không c̣n mạng trở ra. Chẳng lẽ sau này tôi cũng trở nên thô bạo như vậy hay sao? Kỷ luật trong trường là h́nh phạt, ngoài chiến trường kỷ luật cho lính dưới quyền phải là những trận đ̣n ư? Hạ sĩ quan đă có quyền hạn của một vơ sĩ thử hỏi người lính Dù nào dám căi lệnh cấp trên. Oai hùng nào cũng có cái giá phải trả.
hinh
Qua gần giữa gịng, trắc trở bắt đầu xảy ra. Vài người yếu sức la cầu cứu và sự hỗn loạn đă đến. Lên được bờ bên kia rồi tôi trở lại cứu thêm một hai người khác. Thật quái ác trên bờ sông bên này không có nhánh cây nào đủ dài để có thể đưa ra ḍng sông cho họ nắm kéo vào. Tôi đuối sức nh́n những cánh tay tuyệt vọng từ từ ch́m vào ḍng nước… Tội nghiệp cho những người lính Dù tôi không biết tên đă vĩnh viễn nằm lại nơi nầy! Bên nầy sông là cánh rừng thưa, cây cối rất thấp. Đây rồi rừng sát, cây cao không quá đầu người, trời nước bao la, giang sơn của loài c̣. Xa xa sau những hàng dừa xanh, vài căn nhà tranh lưa thưa dọc theo quốc lộ. Đơn vị phải đi vào chỗ chết tiệt này để t́m ra con đường sống sao đây. Đợi trời thật tối chúng tôi bắt đầu đi vào rừng sát, nước lúc đầu c̣n thấp chưa ngập quá giầy nhưng mau chóng cao dần. Những bước chân của tôi từ từ nặng nhọc, hai tay bắt đầu thấy mỏi và cây súng M16 trở nên nặng hơn, cuối cùng nó nằm trên nón sắt ngon ơ. Trời về khuya, mực nước cao hơn thêm có chỗ cao tới rún. Cuộc đời tôi không lẽ phải chấm hết nơi nầy !

Đại úy Hiệu cho dừng quân, mọi người tự t́m cho ḿnh những thân cây và bám vào. Khổ nổi ở đây không có cây nào cao hết, cho dù có t́m được cũng không đủ cao mà ngồi rút chân ra khỏi nước. Tôi trông thấy Đại Úy Hiệu ngoắc thằng đệ tử của ổng lại gần và thấy nó đưa cho ổng chai rượu Cognac, ổng tu một hơi dài sảng khoái. Tôi không thèm rượu nhưng lúc này nếu được mời tôi cũng làm một ngụm cho ấm ḷng, bỗng dưng tôi thèm một hơi thuốc, khói thuốc có lẽ sẽ tăng thêm nghị lực cho tôi trong hoàn cảnh này. Cái cảnh ở trong nước như thế này rơ thật chán, nằm không được ngồi cũng không xong mà đứng một chỗ sẽ bị lún. Cha mẹ ơi! Tân Khóa Sinh đă khổ, cảnh này c̣n khổ hơn !

Đêm thật tĩnh mịch! Chỉ có những tiếng động do lính Dù gây ra, nhưng sau đó nhanh chóng trả lại sự yên tĩnh. Có tiếng mái chèo khua đâu đây nhịp nhàng khuấy động, âm thanh của một con thuyền đang lướt trên nước. Thuyền ai đi trong khuya trên biển nước mênh mông này nhỉ? Dưới ngọn đèn bấc mù mờ treo đu đưa bên mạn thuyền, con thuyền từ từ hiện ra, tiếng mái chèo vẫn đều đều khua động trên nước. Người trên thuyền chưa biết có sự hiện diện của lính Dù đang trố mắt ngạc nhiên nh́n nó đến. Nó không đến v́ chúng tôi, nó chỉ t́nh cờ đi ngang qua và tiếng mái chèo vẫn đều vang trên sóng nước. Tôi nh́n Đại Úy Hiệu thăm ḍ, chắc ổng đang suy nghĩ tính toán dử lắm, và ổng quyết định cho lính ra chận thuyền. Nếu là thuyền của dân sẽ nhờ họ đưa lính Dù vào bờ, thuyền nhỏ vô ra hai ba chuyến rồi cũng vận chuyển hết toán lính vào bờ. Nếu là thuyền của địch quân, tất nhiên lính Dù sẽ tấn chiếm thuyền và dùng thuyền làm sinh lộ. Đằng nào cũng phải có thuyền. Đang lúc khát nước gặp trời mưa, buồn ngủ gặp chiếu manh, đang lúc chết đuối có thuyền ra giúp. Ối giời! Đặc ân đó trời ban cho.



Qua gần giữa gịng, trắc trở bắt đầu xảy ra. Vài người yếu sức la cầu cứu và sự hỗn loạn đă đến. Lên được bờ bên kia rồi tôi trở lại cứu thêm một hai người khác. Thật quái ác trên bờ sông bên này không có nhánh cây nào đủ dài để có thể đưa ra ḍng sông cho họ nắm kéo vào. Tôi đuối sức nh́n những cánh tay tuyệt vọng từ từ ch́m vào ḍng nước… Tội nghiệp cho những người lính Dù tôi không biết tên đă vĩnh viễn nằm lại nơi nầy! Bên nầy sông là cánh rừng thưa, cây cối rất thấp. Đây rồi rừng sát, cây cao không quá đầu người, trời nước bao la, giang sơn của loài c̣. Xa xa sau những hàng dừa xanh, vài căn nhà tranh lưa thưa dọc theo quốc lộ. Đơn vị phải đi vào chỗ chết tiệt này để t́m ra con đường sống sao đây. Đợi trời thật tối chúng tôi bắt đầu đi vào rừng sát, nước lúc đầu c̣n thấp chưa ngập quá giầy nhưng mau chóng cao dần. Những bước chân của tôi từ từ nặng nhọc, hai tay bắt đầu thấy mỏi và cây súng M16 trở nên nặng hơn, cuối cùng nó nằm trên nón sắt ngon ơ. Trời về khuya, mực nước cao hơn thêm có chỗ cao tới rún. Cuộc đời tôi không lẽ phải chấm hết nơi nầy ! Đại úy Hiệu cho dừng quân, mọi người tự t́m cho ḿnh những thân cây và bám vào. Khổ nổi ở đây không có cây nào cao hết, cho dù có t́m được cũng không đủ cao mà ngồi rút chân ra khỏi nước. Tôi trông thấy Đại Úy Hiệu ngoắc thằng đệ tử của ổng lại gần và thấy nó đưa cho ổng chai rượu Cognac, ổng tu một hơi dài sảng khoái. Tôi không thèm rượu nhưng lúc này nếu được mời tôi cũng làm một ngụm cho ấm ḷng, bỗng dưng tôi thèm một hơi thuốc, khói thuốc có lẽ sẽ tăng thêm nghị lực cho tôi trong hoàn cảnh này. Cái cảnh ở trong nước như thế này rơ thật chán, nằm không được ngồi cũng không xong mà đứng một chỗ sẽ bị lún. Cha mẹ ơi! Tân Khóa Sinh đă khổ, cảnh này c̣n khổ hơn ! Đêm thật tĩnh mịch! Chỉ có những tiếng động do lính Dù gây ra, nhưng sau đó nhanh chóng trả lại sự yên tĩnh. Có tiếng mái chèo khua đâu đây nhịp nhàng khuấy động, âm thanh của một con thuyền đang lướt trên nước. Thuyền ai đi trong khuya trên biển nước mênh mông này nhỉ? Dưới ngọn đèn bấc mù mờ treo đu đưa bên mạn thuyền, con thuyền từ từ hiện ra, tiếng mái chèo vẫn đều đều khua động trên nước. Người trên thuyền chưa biết có sự hiện diện của lính Dù đang trố mắt ngạc nhiên nh́n nó đến. Nó không đến v́ chúng tôi, nó chỉ t́nh cờ đi ngang qua và tiếng mái chèo vẫn đều vang trên sóng nước. Tôi nh́n Đại Úy Hiệu thăm ḍ, chắc ổng đang suy nghĩ tính toán dử lắm, và ổng quyết định cho lính ra chận thuyền. Nếu là thuyền của dân sẽ nhờ họ đưa lính Dù vào bờ, thuyền nhỏ vô ra hai ba chuyến rồi cũng vận chuyển hết toán lính vào bờ. Nếu là thuyền của địch quân, tất nhiên lính Dù sẽ tấn chiếm thuyền và dùng thuyền làm sinh lộ. Đằng nào cũng phải có thuyền. Đang lúc khát nước gặp trời mưa, buồn ngủ gặp chiếu manh, đang lúc chết đuối có thuyền ra giúp. Ối giời! Đặc ân đó trời ban cho. Thế nhưng… trên thuyền có hai vợ chồng già và một xác chết đàn bà, họ nói đưa cái xác đó vào làng trước khi trời sáng nên họ phải rời nhà lúc giữa khuya và chỗ họ đi không phải chỗ chúng tôi đến. Đại úy Hiệu cho họ đi có lẽ v́ xác chết kia chăng? Ổng không muốn bị dây dưa báo oán hay ổng tội nghiệp cho đôi vợ chồng già nọ. Tôi biết người lính trên chiến trường thường hay tin vào huyền bí của những người khuất mặt, khuất mày phù hộ họ, cho người c̣n sống được tai bay nạn khỏi. Chúng tôi cũng mau chóng rời địa điểm, đâu biết được nếu họ là người phía bên kia. Thủy triều hạ xuống khi trời gần sáng, đơn vị không gặp những trở ngại nào khác và b́nh yên vào Vũng Tàu trưa ngày 28 tháng 4. Vũng Tàu, thành phố lần đầu tôi đặt chân đến, cái tên thật b́nh dị, mộc mạc. Không khí chiến tranh chưa tràn đến, người dân vẫn sống, vẫn buôn bán, vẫn ăn uống nhưng chưa đến không có nghĩa không đến. Trên khuôn mặt mọi người ai cũng hoang mang, tin chiến sự nóng dồn dập trên những nẻo đường mà toàn tin bất lợi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nhảy Dù cũng không thoát khỏi cảnh ngộ này. Lính Dù bị dồn nén co cụm không lối thoát khi đi vào Vũng Tàu, những cấp chỉ huy Dù chắc cũng thấy vậy nên hành động đầu tiên khi đến đây là kiểm soát hết tàu bè trong vùng. Địch quân chưa bao giờ kiểm soát được vùng biển, vùng duyên hải, họ không có khả năng đó. Đường bộ hầu như địch quân đă hoàn toàn kiểm soát, quốc lộ bị đứt đoạn, bầm dập chia từng mảnh nhỏ. Đường trên trời, coi như mộng tưởng, mọi trực thăng vận đang bận rộn cho những cuộc di tản hành tŕnh ra hạm đội đâu có dư cho Nhảy Dù, nếu có chỉ một chiếc nhưng là’one way ticket’. Tại sao lính Dù phải đi vào Vũng Tàu ? Cho đến bây giờ tôi vẫn vương vấn hoài câu hỏi đó. Binh pháp ngàn xưa không bao giờ hành quân vào ngỏ cụt ngoài dụng tâm dụ địch hoặc có những phương kế thần sầu. Vũng Tàu, một ngày êm dịu nhưng cũng là điềm báo trước cho những ngày oi bức sắp tới. Tôi không có ǵ làm, lang thang trong bộ chỉ huy hoài cũng chán (đă nói tôi chưa có nhiệm vụ mà). Bộ chỉ huy tạm thời nằm trong một trường trung học, tên ǵ (?) không tài nào nhớ nổi. Đại đội tôi là đơn vị cuối cùng bị thất lạc một ngày một đêm trong rừng sát. Về muộn không có nơi cư ngụ nên được nằm gần Đại Bàng. Tôi và thằng đệ tử lẻn ra ngoài t́m đến các trại tạm cư cho những người ngoài Trung vào, nhất là những khu tạm cư người Đà Nẵng. Thời buổi tao loạn, ai đi t́m người thân cũng được những ánh mắt thiện cảm nhưng tiếp theo đó chỉ là những chuỗi lắc đầu. Họ được chỉ định tạm trú ở Vũng Tàu từ sau cuộc di tản kinh hoàng ngoài Đà Nẵng, những ai có thân nhân ở miền Nam họ đă sum hợp và tá túc nơi khác. Những người c̣n lại rất khổ nếu không nói là thê thảm, chính quyền lúc đó bề bộn bởi chiến cuộc cáng đáng nào xuể, cũng chẳng cơ quan từ thiện nào lưu tâm tới. Không t́m ra một ai quen, tôi lững thững quay lại bộ chỉ huy, ngoài chuyện t́m thân nhân tôi chẳng có mục đích nào khác. Vũng Tàu quá mới mẻ với tôi, người trên đường ai cũng bước vội, dưới đường Honda ngược xuôi như mắc cửi chở đầy đồ đạc. Sắp sửa có di tản như tôi đă thấy từ Đà Lạt về B́nh Tuy, ở đây quốc lộ đă bị cắt rồi, di tản cách nào khác hơn đường biển. Xa xa tôi nghe tiếng đại bác vọng về. Tối 28 tháng 4, nhiệm vụ đầu tiên của tôi là tuần tiểu. Chuyện dễ dàng, không phải tôi vẫn thường hay tuần tiểu trong trường ở năm thứ 3 khi lên ca trực hay sao! Đêm nay trời mưa dai dẳng, cùng đi tuần với tôi là một Hạ Sĩ Quan, mang lon trung sĩ, tôi không nhớ tên. Đến một vọng gác không thấy lính gác, tôi quay sang anh ta: - Mày vô trong coi ai gác ở đây vậy? Người trung sĩ cùng tuần tra với tôi chưa kịp nhón gót, từ trong pḥng học của trường trung học nay lính Dù biến thành nơi ăn ngủ, phóng nhanh ra một dáng người hấp tấp chưa kịp đội nón sắt : - Dạ thưa em… Lúc này anh ta nheo mắt, không nh́n vào tôi nhưng nh́n vào cổ áo của tôi và lặp lại : - Dạ thưa em, Thiếu Úy! Tôi chưa nói câu nào, người trung sĩ xấn tới : - Đ.M. ai cho mầy ngủ ? Kế đó là những cú đấm đá tới tấp lên người lính gát chểnh mảng ấy. Tôi vội bước đi, v́ tôi biết như thế người trung sĩ sẽ theo tôi và người lính gát kia đở bị đ̣n hơn. Thưa quí vị, tôi kể chuyện nhỏ nhặt này để thấy kỷ luật cứng rắn không kém phần tàn bạo trong binh chủng Dù, người lính Dù ngoài trận tuyến rất tuân thủ lệnh thương cấp, cho dù biết tuân lệnh đi vào chỗ hiểm có thể không c̣n mạng trở ra. Chẳng lẽ sau này tôi cũng trở nên thô bạo như vậy hay sao? Kỷ luật trong trường là h́nh phạt, ngoài chiến trường kỷ luật cho lính dưới quyền phải là những trận đ̣n ư? Hạ sĩ quan đă có quyền hạn của một vơ sĩ thử hỏi người lính Dù nào dám căi lệnh cấp trên. Oai hùng nào cũng có cái giá phải trả. hinh Qua gần giữa gịng, trắc trở bắt đầu xảy ra. Vài người yếu sức la cầu cứu và sự hỗn loạn đă đến. Lên được bờ bên kia rồi tôi trở lại cứu thêm một hai người khác. Thật quái ác trên bờ sông bên này không có nhánh cây nào đủ dài để có thể đưa ra ḍng sông cho họ nắm kéo vào. Tôi đuối sức nh́n những cánh tay tuyệt vọng từ từ ch́m vào ḍng nước… Tội nghiệp cho những người lính Dù tôi không biết tên đă vĩnh viễn nằm lại nơi nầy! Bên nầy sông là cánh rừng thưa, cây cối rất thấp. Đây rồi rừng sát, cây cao không quá đầu người, trời nước bao la, giang sơn của loài c̣. Xa xa sau những hàng dừa xanh, vài căn nhà tranh lưa thưa dọc theo quốc lộ. Đơn vị phải đi vào chỗ chết tiệt này để t́m ra con đường sống sao đây. Đợi trời thật tối chúng tôi bắt đầu đi vào rừng sát, nước lúc đầu c̣n thấp chưa ngập quá giầy nhưng mau chóng cao dần. Những bước chân của tôi từ từ nặng nhọc, hai tay bắt đầu thấy mỏi và cây súng M16 trở nên nặng hơn, cuối cùng nó nằm trên nón sắt ngon ơ. Trời về khuya, mực nước cao hơn thêm có chỗ cao tới rún. Cuộc đời tôi không lẽ phải chấm hết nơi nầy ! Đại úy Hiệu cho dừng quân, mọi người tự t́m cho ḿnh những thân cây và bám vào. Khổ nổi ở đây không có cây nào cao hết, cho dù có t́m được cũng không đủ cao mà ngồi rút chân ra khỏi nước. Tôi trông thấy Đại Úy Hiệu ngoắc thằng đệ tử của ổng lại gần và thấy nó đưa cho ổng chai rượu Cognac, ổng tu một hơi dài sảng khoái. Tôi không thèm rượu nhưng lúc này nếu được mời tôi cũng làm một ngụm cho ấm ḷng, bỗng dưng tôi thèm một hơi thuốc, khói thuốc có lẽ sẽ tăng thêm nghị lực cho tôi trong hoàn cảnh này. Cái cảnh ở trong nước như thế này rơ thật chán, nằm không được ngồi cũng không xong mà đứng một chỗ sẽ bị lún. Cha mẹ ơi! Tân Khóa Sinh đă khổ, cảnh này c̣n khổ hơn ! Đêm thật tĩnh mịch! Chỉ có những tiếng động do lính Dù gây ra, nhưng sau đó nhanh chóng trả lại sự yên tĩnh. Có tiếng mái chèo khua đâu đây nhịp nhàng khuấy động, âm thanh của một con thuyền đang lướt trên nước. Thuyền ai đi trong khuya trên biển nước mênh mông này nhỉ? Dưới ngọn đèn bấc mù mờ treo đu đưa bên mạn thuyền, con thuyền từ từ hiện ra, tiếng mái chèo vẫn đều đều khua động trên nước. Người trên thuyền chưa biết có sự hiện diện của lính Dù đang trố mắt ngạc nhiên nh́n nó đến. Nó không đến v́ chúng tôi, nó chỉ t́nh cờ đi ngang qua và tiếng mái chèo vẫn đều vang trên sóng nước. Tôi nh́n Đại Úy Hiệu thăm ḍ, chắc ổng đang suy nghĩ tính toán dử lắm, và ổng quyết định cho lính ra chận thuyền. Nếu là thuyền của dân sẽ nhờ họ đưa lính Dù vào bờ, thuyền nhỏ vô ra hai ba chuyến rồi cũng vận chuyển hết toán lính vào bờ. Nếu là thuyền của địch quân, tất nhiên lính Dù sẽ tấn chiếm thuyền và dùng thuyền làm sinh lộ. Đằng nào cũng phải có thuyền. Đang lúc khát nước gặp trời mưa, buồn ngủ gặp chiếu manh, đang lúc chết đuối có thuyền ra giúp. Ối giời! Đặc ân đó trời ban cho. Thế nhưng… trên thuyền có hai vợ chồng già và một xác chết đàn bà, họ nói đưa cái xác đó vào làng trước khi trời sáng nên họ phải rời nhà lúc giữa khuya và chỗ họ đi không phải chỗ chúng tôi đến. Đại úy Hiệu cho họ đi có lẽ v́ xác chết kia chăng? Ổng không muốn bị dây dưa báo oán hay ổng tội nghiệp cho đôi vợ chồng già nọ. Tôi biết người lính trên chiến trường thường hay tin vào huyền bí của những người khuất mặt, khuất mày phù hộ họ, cho người c̣n sống được tai bay nạn khỏi. Chúng tôi cũng mau chóng rời địa điểm, đâu biết được nếu họ là người phía bên kia. Thủy triều hạ xuống khi trời gần sáng, đơn vị không gặp những trở ngại nào khác và b́nh yên vào Vũng Tàu trưa ngày 28 tháng 4. Vũng Tàu, thành phố lần đầu tôi đặt chân đến, cái tên thật b́nh dị, mộc mạc. Không khí chiến tranh chưa tràn đến, người dân vẫn sống, vẫn buôn bán, vẫn ăn uống nhưng chưa đến không có nghĩa không đến. Trên khuôn mặt mọi người ai cũng hoang mang, tin chiến sự nóng dồn dập trên những nẻo đường mà toàn tin bất lợi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nhảy Dù cũng không thoát khỏi cảnh ngộ này. Lính Dù bị dồn nén co cụm không lối thoát khi đi vào Vũng Tàu, những cấp chỉ huy Dù chắc cũng thấy vậy nên hành động đầu tiên khi đến đây là kiểm soát hết tàu bè trong vùng. Địch quân chưa bao giờ kiểm soát được vùng biển, vùng duyên hải, họ không có khả năng đó. Đường bộ hầu như địch quân đă hoàn toàn kiểm soát, quốc lộ bị đứt đoạn, bầm dập chia từng mảnh nhỏ. Đường trên trời, coi như mộng tưởng, mọi trực thăng vận đang bận rộn cho những cuộc di tản hành tŕnh ra hạm đội đâu có dư cho Nhảy Dù, nếu có chỉ một chiếc nhưng là’one way ticket’. Sáng 29 tháng 4, Sài G̣n cho ra một trực thăng đậu trong sân trường, tôi thấy có trung tá nói chuyện qua máy bực dọc hơi lớn tiếng (có thể Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng?). Người đối thoại bên kia máy là ai tôi không biết, chỉ nghe trung tá hằn học nói nhiều thứ lắm, tôi không thể nào nhớ hết được. Đại khái có câu quan trọng tôi nghe lơm bơm: - ….tôi không thể bỏ đám con ở đây được… không… không phải đem đi hết… chúng tôi sẽ chết tại đây… tôi cho nó về c̣n tôi ở lại đây… Tôi lặng người ngồi thừ ra mông lung suy nghĩ. Vậy là tử thủ, cuộc đời tôi đọc nhiều truyện hể có tử thủ trong đó, tôi sản khoái ‘enjoy’ đọc người hùng tử thủ, xem thử người hùng phải chết như thế nào. Có biết đâu lát nữa đây tôi sẽ là một trong những vai chính tử thủ chốn này. Tử thủ ! Ôi Phan Nhật Nam ơi ! Chuyện của ông viết mùa hè năm nào, mùa hè năm này có tên tôi đó ông! Toàn thân nghe lạnh tôi biết tôi đang run cũng may tôi đương ngồi. Câu chuyện điện đàm của Trung Tá tôi có thể đoán già đoán non. Ổng không thể bỏ lại để ra đi một ḿnh, một là bốc hết Lữ Đoàn về Sài G̣n, hai là tử thủ Vũng Tàu. Đường bộ coi như không thể nào. Giá như vài hôm trước thay v́ rút vào Vũng Tàu, di chuyển toàn thể xuôi theo quốc lộ về Sài G̣n may ra c̣n kịp. Một khi đă vào Vũng Tàu, cầu Cỏ May ḿnh không giựt sập, địch quân cũng giựt sập và an tâm nhốt Lữ Đoàn 1 trong Vũng Tàu. Vô h́nh chung địch quân đă loại Lữ Đoàn 1 ra khỏi cuộc chơi. Giờ th́ địch quân rảnh tay dốc toàn lực tiến về thủ đô. Cho vài quân canh chừng bên kia cầu Cỏ May, không cần truy kích, vài hôm sau lính Dù sẽ t́m đường vượt biển và họ không động thủ cũng chiếm được Vũng Tàu như chiếm Đà Nẵng. Giây lát sau, chiếc UH1 bỏ đi mất hút sau những hàng cây xanh. Đây là chiếc trực thăng cuối cùng đến từ Sài G̣n. ‘One way ticket’ cho những ai đi trên đó và không bao giờ trở lại. Vài giờ sau chúng tôi di chuyển ra Bến Đá bằng xe GMC. Bến Đá, cảnh tượng nhốn nháo ồn ào. Dân chúng bị chận lại từ phía ngoài, tôi thấy rơ vẻ hoảng hốt lo âu trên từng khuôn mặt. T́nh cảnh này giống như mấy tháng trước, chúng tôi, những sinh viên sĩ quan từ Đà Lạt di tản về và được ưu tiên vào B́nh Tuy. Tôi xót xa nh́n họ, đọc được những ǵ họ mong mỏi trong ánh mắt, họ mong được như chúng tôi, đi theo chúng tôi. Người ta gọi là Bến Đá, phải rồi đá nhiều quá nằm kế bên ngọn núi nhỏ cũng đá nhiều hơn cây, có những tảng đá lớn rải rác đây đó. Trên bờ ngổn ngang những xe quân đội, một ít xe tư nhân nằm bơ vơ hứng bụi. Chủ nhân của những chiếc xe ấy chắc đă đi rồi nếu không cũng loanh quanh đâu đây trên thuyền. Toàn thuyền đánh cá, lớn nhỏ có đủ, trên ghe có bóng dáng lính Dù. Bây giờ tôi đă biết, chuyện tử thủ hồi sáng là không có thật, ông Trung tá chỉ dùng nó hù người Sài G̣n. Mọi chuyện lui quân đă có chuẩn bị từ trước, nếu không được trực thăng bốc về cũng c̣n đường biển nên hai hôm trước Dù chận hết tất cả các tàu đánh cá nào c̣n sót lại trên Bến Đá, cho dầu nhớt đầy đủ và lính Dù ăn ngủ trên tàu với người tài công cũng như với gia đ́nh của họ nếu có. Và họ chờ đợi cho ngày hôm nay. Chờ khi Lữ Đoàn kéo ra Bến Đá gần đầy đủ, địch quân bắt đầu chào mừng tới tấp những cơn mưa pháo. Lần này đạn pháo không bay ngang đầu tôi như ba hôm trước mà nó rót xuống ngay trên đầu tôi. Trái nổ bên này, trái nổ bên kia. Phó thác cho ông bà phù hộ, tôi ôm nón sắt mà phóng không định hướng. Loáng thoáng thấy có cái ǵ trước mắt tôi nhào vô núp không suy nghĩ, và từ đó định thần quan sát coi có vật thể nào khá hơn mà thay đổi. Kia rồi có tảng đá lớn đàng xa, tôi như bay chạy tới. Nhiều tiếng la lớn : - Có ‘đề lô’ trên núi. Tôi ráng mắt nh́n lên núi, chả thấy ai, có lẽ bị lộ nên họ đă ẩn núp đâu đó. Tiếp theo lính Dù phản pháo. Nào súng cối, B40, M16 bắn túi bụi lên núi. Đằng sau những tảng đá lớn, đá nhỏ, thân cây lớn bé, chơi tuốt. Nhờ vậy pháo địch thưa dần, lính Dù được lệnh lên tàu và cấp tốc rời bến. Tôi lạc mất Đại Úy Hiệu từ đây. Chiếc tàu tôi và thằng đệ tử nhảy lên chỉ có một trung đội trưởng Thiếu Úy Thủ Đức, tôi không nhớ tên, anh ta cùng đại đội với tôi, ngoài ra toàn lính Dù và vài hạ sĩ quan. Thấy tôi tiến vào buồng lái, có anh lính Dù kề tai tôi nói nhỏ: - Ở trỏng có một chuẩn úy Thủy Quân Lục Chiến, tôi đuổi hắn lên bờ nhưng hắn không chịu lên! Sau một hồi nói chuyện tôi biết anh ta đă bỏ ngũ muốn rời Vũng Tàu. - Anh có biết chúng tôi đi đâu không mà đ̣i đi theo ? Tôi nói thế chứ thật ra tôi cũng đâu biết Lữ Đoàn sẽ đi về đâu? Ở bộ chỉ huy được lệnh ra Bến Đá, tới Bến Đá chưa nhận chỉ thị ǵ bị ăn pháo tùm lum, rồi có lệnh lên tàu. Tàu hấp tấp rời bến, chiếc sau chạy theo chiếc trước, có những chiếc đă tự ư rời cảng lúc bị pháo kích thấy chúng tôi ra vội nhập đoàn. Tôi dặn ông chuẩn úy ngồi trong góc đừng có đi lộn xộn, cấp trên mà thấy giụt ông xuống biển ráng chịu, c̣n tôi quay ra bắt chuyện với lăo tài công: - Sao rồi, gia đ́nh ông đâu? - Mấy ông có cho tôi rời tàu đâu mà rước. Th́ ra hai hôm trước Dù làm áp lực, giam lỏng lăo tài công. Lăo nói, lăo năn nỉ quá trời nhưng họ không cho, sợ ông lên bờ rồi trốn biệt lấy ai lái tàu ra khơi. Trời về chiều, gió biển hiu hiu tôi thật sự thoải mái. Tay vịn thành tàu tôi nh́n lại Vũng Tàu. Tôi chỉ thấy Bến Đá, vẫn c̣n bóng dáng nhiều người qua lại trên bến, vẫn c̣n nhiều chiếc thuyền con cḥng chành trên sóng biển và lưa thưa vài tàu đánh cá c̣n sót lại gật gù theo chiều gió. Có một lính Dù lân la đến gần tôi tươi cười : - Chào Thiếu Úy, em cám ơn Thiếu Úy đă cứu em khi bơi qua sông, em đâu có ngờ quần áo mặc trên người thắm nước nặng ch́nh chịch, bơi quải quá chịu không thấu. Tôi không nhớ anh ta nhưng có nhớ trên sông Cỏ May thấy có người sắp sửa chết ch́m, tôi thuận tay nắm cổ áo kéo anh ta vào bờ. Lần đầu tiên tôi ra tay nghĩa hiệp. Sáng 30 tháng 4 Tàu cập bến tôi cũng vừa thức dậy. Tôi hỏi lăo tài công đây là đâu, ông ta cộc lốc trả lời G̣ Công. Rảo mắt nh́n quanh, trên nước đủ loại lưới cá giăng mắc đó đây, có loại như những hàng rào trên bờ đứng xiêu vẹo, nghiêng ngă không theo một thứ tự nào, có loại là một mảnh lưới to lớn vuông vắn được treo trên mặt nước qua bốn góc bởi những cây sào tre dài, kế bên là một cái cḥi có mái lưa thưa phủ rơm rạ, chắc nơi này dùng nơi hạ lưới hay kéo lưới lên sau một thời gian nào đó ngâm lưới sâu dưới nước. Đó đây một vài chiếc xuồng con, có chiếc neo gần bờ, có chiếc trên bờ nằm trơ trọi đưa lưng phơi nắng. Bước chân lên bờ tôi cảm thấy lạc lơng trong đám lính Dù. Hôm qua ở Bến Đá Tiểu Đoàn 1, 8, 9, 3, Pháo Binh Dù và Đại Đội 1 trinh sát v́ t́nh h́nh lộn xộn mạnh ai nấy lên tàu, bây giờ đang t́m nhau về điểm họp. Từ lúc theo Đại Đội 83 xuống núi Phước Tuy, ở mỗi thời khắc trôi qua là những biến chuyển lớn tôi phải đón nhận. Những người cùng chung đại đội tôi c̣n chưa nhận diện đầy đủ huống hồ nguyên cả Lữ Đoàn. Những tiếng động va chạm của vũ khí ḥa lẫn với những tiếng bước chân, tiếng gọi nhau, những tiếng chưởi thề… Tất cả như đang t́m cách khuấy nhiễu cảnh vắng lặng buổi sáng trên miền đất G̣ Công hiền hoà. Chung quanh chúng tôi không một người dân qua lại nhưng chắc chắn họ đang dán mắt theo dơi đoàn lính Dù này đằng sau tấm vách, sau khung cửa, từ trong những mái nhà tranh op ẹp và dĩ nhiên sẽ không thiếu những câu hỏi: Họ từ đâu đến, đến đây làm ǵ và sẽ đi đâu? Tôi nh́n những lối ṃn đưa vào làng, những lối ṃn uốn cong theo bờ mương, con rạch nhỏ dẫn đến những hàng cau xanh và mất hút sau dăy dừa nước chen lấn với những cây bần. Chừng ngần những thứ đó đang bao bọc, ấp ủ những mái nhà tranh bên kia, có người dân quê lam lũ qua nhiều năm vẫn c̣n lặn hụp trong chiến tranh. Quê tôi ở gần đây, cách G̣ Công một gịng sông sâu phải qua một lần phà, nước quanh năm chảy xiết chất chứa muôn vàn lục b́nh lúc nào cũng nhảy múa trên sóng nước. Cần Đước, quê tôi, cái tên nghe rất quen mà cũng thật xa lạ, chả là ba tôi tài xế công nhân hỏa xa bị đ́ đổi ra Đà Nẵng từ năm 1958. Tôi sống và lớn lên tại xứ Đà, Quảng Nam. Dạo trước khi vào Vơ Bị, tôi có về quê nội Cần Đước đôi ba lần nhưng lần nào cũng sáng đi chiều về, v́ lư do an ninh trong khu vực tôi không thể ở lại qua đêm. Nắng đă lên cao có thêm những chiếc tàu đánh cá từ Bến Đá chạy lạc chậm chạp tiến vào bờ. Khoảng trưa, theo chân thằng đệ tử về điểm tập họp của tiểu đoàn, tôi không gặp Đại Úy Hiệu chỉ thấy Thiếu Tá Thanh (Nguyễn Viết Thanh?) lên bục – bục, tiếng thường hay gọi trong Trường Vơ Bị dùng ám chỉ người cán bộ tân khóa sinh đứng trên cao chấn chỉnh hành tội đám Tân Khóa Sinh phía dưới - Thiếu Tá nói nhiều nhưng tôi không thể nào nhớ hết được. Giọng ông buồn pha lẫn xót xa, đằng sau ở những lời nói âm thanh nghe như nất nghẹn, thỉnh thoảng ông nhẹ ngước mặt lên cao như cố ngăn không cho đôi hàng nước mắt tuôn. Riêng tôi không biết tự lúc nào nước mắt tôi đă tuôn. Tôi không thể che dấu những gịng nước mắt tủi nhục đầu đời lính. Quanh tôi ai cũng sụt sùi, thằng đệ tử tôi rống to hơn bao giờ hết. Ôi! Việt Nam ai gây ra bao nhiêu điêu tàn, miền Nam Việt Nam chúng tôi ai gây tang thương! Dương Văn Minh, năm 63 tháng 11 ngày 2, trên làn sóng phát thanh Sài G̣n tuyên cáo chấm dứt nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa. Cũng ổng, hôm nay 30 tháng 4, khai tử nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa. Chua chát thay ! Sau giây phút xúc động, thiếu tá chậm răi, Dương Văn Minh kêu gọi chúng ta buông súng nhưng chúng tôi th́ không. Lữ Đoàn quyết định giao cho mọi người tự giải quyết, ai muốn đi đâu th́ đi, về đâu th́ về, cứ coi như chúng ta tan hàng. Riêng Lữ Đoàn sẽ về vùng 4 cùng Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lập pḥng tuyến cuối cùng. Ai ở lại sẽ cùng Lữ Đoàn rời nơi này vào chập tối. Tôi t́m một mô đất ngồi nghỉ chân. Tôi muốn ghi lại tất cả những ǵ nghe và thấy hôm nay nhưng không thể nào, đầu óc tôi vẫn c̣n đặc quánh lại bởi những chữ đầu hàng, mất nước. Chao ơi! Bi thảm quá, đời người có bao lần mất nước. Năm 54 miền Bắc di cư (di tản cũng thế thôi), họ c̣n cơ hội làm lại cuộc đời trong miền Nam. Bây giờ miền Nam cũng mất nốt, người của hai miền Bắc Nam mai này rồi cũng cùng chung một số phần. Miên man suy nghĩ chưa t́m lối thoát, chợt thấy có thằng bạn cùng khóa đang khật khưởng đi ngang. Tôi biết nó cũng về Nhảy Dù nhưng không nhớ nó về đơn vị nào. Tôi vẫn nhớ như in h́nh ảnh khất khưởng của nó ngày nào trong trường, ngồi trên bàn trong pḥng ôm cây đàn chơi classic, nh́n những ngón tay của nó loáng thoáng bún nhẹ dây đàn, miệng ngậm ống vố ph́ phèo khói thuốc, trông như lăng tử nhân. Hôm nay phong độ ấy không thấy ở nơi nó nữa, tôi hấp tấp gọi tên nó: - Ê Vinh, Vương Khắc Vinh. Nó quay nh́n tôi, tôi nh́n nó, hai thằng nh́n nhau thay cho câu chào hỏi, nó chọn con đường về Sài G̣n. Ừ, thôi mày về. Ít ra mày cũng c̣n một gia đ́nh để về, tao bây giờ con bà phước theo Dù về vùng 4. Chuyện mai sau hẳn tính. Tôi nhớ có gặp Nguyễn Văn Nghị (cũng bạn cùng khóa) sau đó nhưng không nhớ đă nói với nhau những lời nào. Mẹ, lúc đó đầu óc có c̣n tỉnh táo đâu mà hàn huyên tâm sự. Vậy là tôi dứt khoát theo Dù về vùng 4, thằng đệ tử cũng thế. Chờ đến tối khuya chưa thấy Lữ Đoàn nhúc nhích ǵ hết, tôi bàn với nó lên tàu đánh cá ngủ cho chắc ăn. Người tài công gặp lại tôi vội hỏi : - Mấy ông đi Cần Thơ ? Tôi nhún vai ra ch́u không biết, mà thiệt tôi đâu có biết đi chỗ nào, chỉ nghe nói về vùng 4. Tối nay những người c̣n lại chuẩn bị ra khơi không chia canh gác. Tôi chợp mắt ngủ được một lát chợt có nhiều tiếng bước chân lên tàu, tôi choàng tỉnh dậy và nghe giọng nói lớn : - Ông tài ơi nhổ neo ! Lên tàu là một Thiếu Tá (tôi không nhớ tên, có thể là Hồng), một Đại Úy (Huệ?) và những lính Dù thân tín của mấy ổng. Tôi vội đứng lên chào tay nhưng không xưng danh. Vị thiếu tá mĩm cười chào lại nói nhỏ: - Cám ơn ! Và kể từ đó cho đến cuối cuộc hành tŕnh ông không nói hay ra lệnh cho tôi làm chuyện ǵ cả. C̣n tôi, tôi không có lư do ǵ để bắt chuyện với ông ta. Có một trục trặc nhỏ, khi tàu bắt đầu chạy v́ trời c̣n tối, không thấy dàn lưới đánh cá của dân nên ủi sập, cũng may lưới cá không vướng chân vịt và đoàn tàu tiếp tục ra đi. Nh́n lại G̣ Công, tối đen không một ánh đèn, vài con đom đóm lập loè trong đêm khuya. Tôi đâu ngờ đây là lần cuối nh́n Vàm Láng, G̣ Công. H́nh như ông trời đă sắp đặt những ǵ tôi đă và đang gặp từ đầu năm 75 đều là lần cuối, đều là chia tay. Ngày 1 tháng 5 năm 75 Lênh đênh trên biển cho tới gần trưa, tôi thấy lạ, tàu không có biểu hiện gần bờ, cứ nối đuôi nhau mà chạy. Trời trong xanh không gợn áng mây, từ chân trời về hướng mủi tàu có một chấm đen, rồi hai chấm đen. Nhanh chóng hai chấm đen ấy nhắm chúng tôi bay tới và hiện ra hai chiến đấu cơ phản lực. Họ bay thật gần, dường như để quan sát, tôi thấy có hàng chữ Navy trên thân máy bay. Chúng tôi được lệnh hạ ṇng súng không được chĩa lên máy bay hay lên trời. Sau khi bay qua đầu chúng tôi một khoảng xa họ quay trở lại, khi bay tới đoạn giữa của đoàn tàu chúng tôi, họ chuyển đường bay và bay đi hướng 10 giờ. Họ đến thật mau ra đi cũng thật lẹ, không lời từ biệt! Tôi thấy chiếc tàu dẫn đầu chuyển hướng 10 giờ mà đi và tất cả những chiếc c̣n lại chạy theo. Hai chiếc phản lực cơ đến chỉ hướng ra hạm đội, thế c̣n vùng 4 ? Non hai giờ sau, quang cảnh tấp nập hiện ra trước mắt mọi người. Giữa biển khơi có chừng 5 chiếc tàu buôn to lớn chứa đầy người tị nạn, vài chiến hạm của Hải Quân Việt Nam (không nhớ ra HQ mấy) nhưng không c̣n giương cờ Việt Nam nữa, thay vào là cờ Hải Quân Hoa Kỳ, trên những chiến hạm này cũng đầy người tị nạn. C̣n những chiến hạm của Mỹ không thấy bóng dáng tị nạn nhưng đầy lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Ngoài ra c̣n có vài tàu buôn của Việt Nam, có chiếc đầy người, có chiếc thưa. Vài chiếc xà lan không người lềnh bềnh trên nước. Nhiều tàu đánh cá không người lái cũng đang trôi nổi bềnh bồng chung quanh, họ đă di chuyển qua tàu lớn để lại trên boong, trên mui nhiều đồ hộp, thùng ḿ gói, nước uống… Có những tàu đánh cá, lớn có nhỏ có, ra muộn chở đầy người, già trẻ, đàn ông, đàn bà, con nít có đủ. Trên khuôn mặt mọi người ai tôi cũng thấy như họ vừa đến từ cơi chết. Tàu của họ chạy chậm ngang qua tàu chúng tôi, họ nh́n chúng tôi nhưng như không thấy chúng tôi, những con mắt không thần sắc, những con mắt đỏ hoe hết nước mắt, những gương mặt hốc hác, những thân người ră rời ngồi tựa bên những thân xác lạc hồn. Thật không c̣n cảnh ly tán nào bi thương hơn mà người dân miền Nam phải gánh chịu. Tàu nào vừa đến đều có ca nô Thủy Quân Lục Chiến Mỹ kè theo, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên tàu kiểm soát rồi hướng dẫn họ qua tàu buôn lớn của Mỹ. Cầu thang trên tàu lớn từ từ hạ xuống, mọi người tuần tự được mang hành trang lên tàu lớn nhưng đồ ăn thức uống phải bỏ lại, dĩ nhiên đàn bà con nít lên trước. Riêng với đoàn tàu của Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đối xử cách khác. Họ không xua đuổi lính Dù nhưng cũng không cho lính Dù lên tàu lớn. Khi tàu chúng tôi tới gần tàu lớn, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trên tàu lớn xua tay đi ra và khi chúng tôi chạy ṿng quanh tàu, họ ở trển cũng ṿng quanh theo, súng trên tay họ lúc nào cũng chĩa vào tàu lính Dù. Chỉ cần một tiếng súng vô ư thức nào đó những Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trên kia cũng như bên chiến hạm của họ sẽ đưa chúng tôi đi tàu ngầm ngay tại chỗ. Thế này là thế nào, Navy hướng dẫn chúng tôi ra đây, đến rồi Thủy Quân Lục Chiến không ‘welcome’? Chạy tới chạy lui thấy cũng không phải cách, tàu lính Dù dồn lại nằm gần bên nhau và cứ thế chúng tôi ngồi đó ngắm lưu thông trên biển. Vẫn c̣n nhiều tàu thường dân “hớt hải” chạy ra, một số do may mắn, một số do trực thăng Navy ‘chỉ lối đưa đường’. Tôi nghĩ trên biển bây giờ chắc cũng có nhiều điểm tập trung như thế này để cứu vớt những người ra biển. Ít ra người Mỹ, họ vẫn c̣n một tấm ḷng cho dù mọi chuyện bây giờ đang diễn ra cũng đều do phép biến hóa thần thông quảng đại của họ. Hậu quả miền Nam như bầy ong vỡ tổ, tấm ḷng này không biết v́ nhân đạo hay sám hối, mua chuộc phần nào lầm lỗi. Bất cứ người nào ra ngoài hải phận, đều được Mỹ cứu vớt, ngoài Nhảy Dù. Tối đến mọi chuyện thưa dần rồi ngưng hẳn. Những chiếc ca nô của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ biến mất, trên biển chỉ c̣n lại chúng tôi với những chiếc tàu không người lái, chúng tôi t́m cách cột chung lại với nhau. Một ít lính Dù nhảy qua những tàu trống t́m đồ ăn. Đèn trên những tàu lớn bắt đầu cháy sáng, những ánh đèn pha từ trên tàu lớn cũng như bên chiến hạm đều rọi thẳng vào chúng tôi. Một đêm an b́nh có người rọi đèn cho ngủ. Ngày 02/05/1975 Trời gần sáng chúng tôi được đánh thức qua một loa phóng thanh từ tàu lớn. Hồi đó tiếng Mỹ của tôi cũng hay quá… nghe ba chớp ba nháng, đại khái lính Dù muốn được lên tàu của họ phải quăng bỏ tất cả vũ khí xuống biển luôn cả nón sắt ! Chúng tôi nh́n nhau, tôi nh́n Thiếu Tá, ổng nh́n qua tàu bên kia. Không biết người nào chủ động quăng vũ khí xuống trước nhưng sau đó tất cả đều cho vào ḷng biển.Tôi cầm cây M16 lưỡng lự vài giây, chưa một lần bắn từ khi lănh nó, giờ thôi cũng đành. C̣n cái nón nữa, tôi không quăng úp nó xuống biển, tôi cho nó nằm ngửa để nó được trôi và trôi măi vào bờ. Ai kia nhận được coi như chứng tích chiến tranh Việt Nam c̣n sót lại. Ca nô đưa toán Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên tàu xem xét coi vũ khí, nón sắt đă quăng hết chưa và cho thêm tin mới. Ai muốn đi (đi đâu, không một ai biết lúc đó đi đến đâu) th́ lên tàu lớn, c̣n như ai muốn về, họ sẽ cung cấp cho xăng dầu, đồ ăn cùng thức uống và những người quyết định đi về được tự chọn những chiếc tàu ở đây c̣n tốt mà lái về. Những chiếc khác c̣n lại sẽ bị đánh ch́m. Mọi người trên tàu đều đồng ḷng ra đi ngoại trừ lăo tài công. Không phải Nhảy Dù đă cưỡng bức lăo ta ra ngoài này hay sao? Được đi về c̣n được lựa tàu ‘mới’ nữa, lăo mừng nhảy tưng tưng. Chúng tôi gom hết tiền bạc Việt Nam Cộng Hoà cho lăo, không biết những số tiền nho nhỏ đó có giúp ích ǵ chăng? Lăo cám ơn rối rít. Lên trên tàu lớn, trời cũng vừa sáng. B́nh minh trên biển thiệt đẹp. Mặt trời hồng chậm răi vươn lên từ chân trời xa. Tôi như quên bao nhọc nhằn những ngày qua, đi một ṿng quan sát, tôi quay dặn thằng đệ tử đừng đi đâu kẻo lạc và tôi rảo bước nh́n quanh. Tàu buôn của Mỹ lớn thật… nhưng mà… ơ ḱa… những gian hầm tàu thay v́ chứa hàng, tôi thấy toàn người với người. Hầm nào cũng đầy nhóc người, kẻ đứng người ngồi. Tiếng nói, tiếng cười pha lẫn tiếng la khóc con nít, âm thanh ồn ào vang vọng echo lên boong tàu. Những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nh́n tôi thân thiện. Mới hôm qua nh́n nhau c̣n e ngại. Tàu chạy rồi tôi vẫn chưa hay, tàu lớn chạy êm quá. Nh́n xuống dưới biển thấy nó đang nhẹ nhàng rẽ nước. Tôi ngồi bệt xuống boong tàu suy nghĩ. Th́ ra những ngày qua tôi không biết ǵ hết! Người Mỹ đă sắp đặt hết tất cả. Từ tin đồn mất nước, tin đồn trại tị nạn bên Guam, bây giờ với những tàu hàng này tôi đă hiểu ra phần nào. Người Mỹ đặt ‘order ‘ những tàu hàng trống trơn ít nhứt phải hơn một tháng về trước. Họ chuẩn bị cho tàu hàng ở ngoài khơi như tôi đang thấy ít ra cũng cả tuần lễ, có như vậy họ mới ‘lai rai’ nhận người di tản từ trước 30 tháng 4. Người nào đến trước xuống hầm tàu (tàu trống mà) và người nào lên sau cùng sẽ ở trên boong như chúng tôi. Chúng tôi là những người tị nạn chót lên tàu và nhổ neo đi tức th́. Tôi vịn thành tàu đứng dậy nh́n về Việt Nam, giơ tay chào vĩnh biệt trước con mắt ngỡ ngàng của những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ Phạm Văn Hùng SVSQVBĐL K28[/IMG]

Thế nhưng… trên thuyền có hai vợ chồng già và một xác chết đàn bà, họ nói đưa cái xác đó vào làng trước khi trời sáng nên họ phải rời nhà lúc giữa khuya và chỗ họ đi không phải chỗ chúng tôi đến. Đại úy Hiệu cho họ đi có lẽ v́ xác chết kia chăng? Ổng không muốn bị dây dưa báo oán hay ổng tội nghiệp cho đôi vợ chồng già nọ. Tôi biết người lính trên chiến trường thường hay tin vào huyền bí của những người khuất mặt, khuất mày phù hộ họ, cho người c̣n sống được tai bay nạn khỏi. Chúng tôi cũng mau chóng rời địa điểm, đâu biết được nếu họ là người phía bên kia. Thủy triều hạ xuống khi trời gần sáng, đơn vị không gặp những trở ngại nào khác và b́nh yên vào Vũng Tàu trưa ngày 28 tháng 4. Vũng Tàu, thành phố lần đầu tôi đặt chân đến, cái tên thật b́nh dị, mộc mạc. Không khí chiến tranh chưa tràn đến, người dân vẫn sống, vẫn buôn bán, vẫn ăn uống nhưng chưa đến không có nghĩa không đến. Trên khuôn mặt mọi người ai cũng hoang mang, tin chiến sự nóng dồn dập trên những nẻo đường mà toàn tin bất lợi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nhảy Dù cũng không thoát khỏi cảnh ngộ này. Lính Dù bị dồn nén co cụm không lối thoát khi đi vào Vũng Tàu, những cấp chỉ huy Dù chắc cũng thấy vậy nên hành động đầu tiên khi đến đây là kiểm soát hết tàu bè trong vùng. Địch quân chưa bao giờ kiểm soát được vùng biển, vùng duyên hải, họ không có khả năng đó. Đường bộ hầu như địch quân đă hoàn toàn kiểm soát, quốc lộ bị đứt đoạn, bầm dập chia từng mảnh nhỏ. Đường trên trời, coi như mộng tưởng, mọi trực thăng vận đang bận rộn cho những cuộc di tản hành tŕnh ra hạm đội đâu có dư cho Nhảy Dù, nếu có chỉ một chiếc nhưng là’one way ticket’.
Sáng 29 tháng 4, Sài G̣n cho ra một trực thăng đậu trong sân trường, tôi thấy có trung tá nói chuyện qua máy bực dọc hơi lớn tiếng (có thể Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng?). Người đối thoại bên kia máy là ai tôi không biết, chỉ nghe trung tá hằn học nói nhiều thứ lắm, tôi không thể nào nhớ hết được. Đại khái có câu quan trọng tôi nghe lơm bơm:

- ….tôi không thể bỏ đám con ở đây được… không… không phải đem đi hết… chúng tôi sẽ chết tại đây… tôi cho nó về c̣n tôi ở lại đây…

Tôi lặng người ngồi thừ ra mông lung suy nghĩ. Vậy là tử thủ, cuộc đời tôi đọc nhiều truyện hể có tử thủ trong đó, tôi sản khoái ‘enjoy’ đọc người hùng tử thủ, xem thử người hùng phải chết như thế nào. Có biết đâu lát nữa đây tôi sẽ là một trong những vai chính tử thủ chốn này.

Tử thủ ! Ôi Phan Nhật Nam ơi ! Chuyện của ông viết mùa hè năm nào, mùa hè năm này có tên tôi đó ông! Toàn thân nghe lạnh tôi biết tôi đang run cũng may tôi đương ngồi. Câu chuyện điện đàm của Trung Tá tôi có thể đoán già đoán non. Ổng không thể bỏ lại để ra đi một ḿnh, một là bốc hết Lữ Đoàn về Sài G̣n, hai là tử thủ Vũng Tàu. Đường bộ coi như không thể nào. Giá như vài hôm trước thay v́ rút vào Vũng Tàu, di chuyển toàn thể xuôi theo quốc lộ về Sài G̣n may ra c̣n kịp. Một khi đă vào Vũng Tàu, cầu Cỏ May ḿnh không giựt sập, địch quân cũng giựt sập và an tâm nhốt Lữ Đoàn 1 trong Vũng Tàu. Vô h́nh chung địch quân đă loại Lữ Đoàn 1 ra khỏi cuộc chơi. Giờ th́ địch quân rảnh tay dốc toàn lực tiến về thủ đô. Cho vài quân canh chừng bên kia cầu Cỏ May, không cần truy kích, vài hôm sau lính Dù sẽ t́m đường vượt biển và họ không động thủ cũng chiếm được Vũng Tàu như chiếm Đà Nẵng. Giây lát sau, chiếc UH1 bỏ đi mất hút sau những hàng cây xanh. Đây là chiếc trực thăng cuối cùng đến từ Sài G̣n. ‘One way ticket’ cho những ai đi trên đó và không bao giờ trở lại.

Vài giờ sau chúng tôi di chuyển ra Bến Đá bằng xe GMC. Bến Đá, cảnh tượng nhốn nháo ồn ào. Dân chúng bị chận lại từ phía ngoài, tôi thấy rơ vẻ hoảng hốt lo âu trên từng khuôn mặt. T́nh cảnh này giống như mấy tháng trước, chúng tôi, những sinh viên sĩ quan từ Đà Lạt di tản về và được ưu tiên vào B́nh Tuy. Tôi xót xa nh́n họ, đọc được những ǵ họ mong mỏi trong ánh mắt, họ mong được như chúng tôi, đi theo chúng tôi. Người ta gọi là Bến Đá, phải rồi đá nhiều quá nằm kế bên ngọn núi nhỏ cũng đá nhiều hơn cây, có những tảng đá lớn rải rác đây đó. Trên bờ ngổn ngang những xe quân đội, một ít xe tư nhân nằm bơ vơ hứng bụi. Chủ nhân của những chiếc xe ấy chắc đă đi rồi nếu không cũng loanh quanh đâu đây trên thuyền. Toàn thuyền đánh cá, lớn nhỏ có đủ, trên ghe có bóng dáng lính Dù. Bây giờ tôi đă biết, chuyện tử thủ hồi sáng là không có thật, ông Trung tá chỉ dùng nó hù người Sài G̣n. Mọi chuyện lui quân đă có chuẩn bị từ trước, nếu không được trực thăng bốc về cũng c̣n đường biển nên hai hôm trước Dù chận hết tất cả các tàu đánh cá nào c̣n sót lại trên Bến Đá, cho dầu nhớt đầy đủ và lính Dù ăn ngủ trên tàu với người tài công cũng như với gia đ́nh của họ nếu có. Và họ chờ đợi cho ngày hôm nay. Chờ khi Lữ Đoàn kéo ra Bến Đá gần đầy đủ, địch quân bắt đầu chào mừng tới tấp những cơn mưa pháo.

Lần này đạn pháo không bay ngang đầu tôi như ba hôm trước mà nó rót xuống ngay trên đầu tôi. Trái nổ bên này, trái nổ bên kia. Phó thác cho ông bà phù hộ, tôi ôm nón sắt mà phóng không định hướng. Loáng thoáng thấy có cái ǵ trước mắt tôi nhào vô núp không suy nghĩ, và từ đó định thần quan sát coi có vật thể nào khá hơn mà thay đổi. Kia rồi có tảng đá lớn đàng xa, tôi như bay chạy tới. Nhiều tiếng la lớn :

- Có ‘đề lô’ trên núi.

Tôi ráng mắt nh́n lên núi, chả thấy ai, có lẽ bị lộ nên họ đă ẩn núp đâu đó. Tiếp theo lính Dù phản pháo. Nào súng cối, B40, M16 bắn túi bụi lên núi. Đằng sau những tảng đá lớn, đá nhỏ, thân cây lớn bé, chơi tuốt. Nhờ vậy pháo địch thưa dần, lính Dù được lệnh lên tàu và cấp tốc rời bến. Tôi lạc mất Đại Úy Hiệu từ đây. Chiếc tàu tôi và thằng đệ tử nhảy lên chỉ có một trung đội trưởng Thiếu Úy Thủ Đức, tôi không nhớ tên, anh ta cùng đại đội với tôi, ngoài ra toàn lính Dù và vài hạ sĩ quan. Thấy tôi tiến vào buồng lái, có anh lính Dù kề tai tôi nói nhỏ:

- Ở trỏng có một chuẩn úy Thủy Quân Lục Chiến, tôi đuổi hắn lên bờ nhưng hắn không chịu lên! Sau một hồi nói chuyện tôi biết anh ta đă bỏ ngũ muốn rời Vũng Tàu.

- Anh có biết chúng tôi đi đâu không mà đ̣i đi theo ? Tôi nói thế chứ thật ra tôi cũng đâu biết Lữ Đoàn sẽ đi về đâu? Ở bộ chỉ huy được lệnh ra Bến Đá, tới Bến Đá chưa nhận chỉ thị ǵ bị ăn pháo tùm lum, rồi có lệnh lên tàu. Tàu hấp tấp rời bến, chiếc sau chạy theo chiếc trước, có những chiếc đă tự ư rời cảng lúc bị pháo kích thấy chúng tôi ra vội nhập đoàn. Tôi dặn ông chuẩn úy ngồi trong góc đừng có đi lộn xộn, cấp trên mà thấy giụt ông xuống biển ráng chịu, c̣n tôi quay ra bắt chuyện với lăo tài công:

- Sao rồi, gia đ́nh ông đâu?

- Mấy ông có cho tôi rời tàu đâu mà rước. Th́ ra hai hôm trước Dù làm áp lực, giam lỏng lăo tài công. Lăo nói, lăo năn nỉ quá trời nhưng họ không cho, sợ ông lên bờ rồi trốn biệt lấy ai lái tàu ra khơi. Trời về chiều, gió biển hiu hiu tôi thật sự thoải mái. Tay vịn thành tàu tôi nh́n lại Vũng Tàu. Tôi chỉ thấy Bến Đá, vẫn c̣n bóng dáng nhiều người qua lại trên bến, vẫn c̣n nhiều chiếc thuyền con cḥng chành trên sóng biển và lưa thưa vài tàu đánh cá c̣n sót lại gật gù theo chiều gió. Có một lính Dù lân la đến gần tôi tươi cười :

- Chào Thiếu Úy, em cám ơn Thiếu Úy đă cứu em khi bơi qua sông, em đâu có ngờ quần áo mặc trên người thắm nước nặng ch́nh chịch, bơi quải quá chịu không thấu.

Tôi không nhớ anh ta nhưng có nhớ trên sông Cỏ May thấy có người sắp sửa chết ch́m, tôi thuận tay nắm cổ áo kéo anh ta vào bờ. Lần đầu tiên tôi ra tay nghĩa hiệp. Sáng 30 tháng 4 Tàu cập bến tôi cũng vừa thức dậy. Tôi hỏi lăo tài công đây là đâu, ông ta cộc lốc trả lời G̣ Công. Rảo mắt nh́n quanh, trên nước đủ loại lưới cá giăng mắc đó đây, có loại như những hàng rào trên bờ đứng xiêu vẹo, nghiêng ngă không theo một thứ tự nào, có loại là một mảnh lưới to lớn vuông vắn được treo trên mặt nước qua bốn góc bởi những cây sào tre dài, kế bên là một cái cḥi có mái lưa thưa phủ rơm rạ, chắc nơi này dùng nơi hạ lưới hay kéo lưới lên sau một thời gian nào đó ngâm lưới sâu dưới nước. Đó đây một vài chiếc xuồng con, có chiếc neo gần bờ, có chiếc trên bờ nằm trơ trọi đưa lưng phơi nắng. Bước chân lên bờ tôi cảm thấy lạc lơng trong đám lính Dù.

Hôm qua ở Bến Đá Tiểu Đoàn 1, 8, 9, 3, Pháo Binh Dù và Đại Đội 1 trinh sát v́ t́nh h́nh lộn xộn mạnh ai nấy lên tàu, bây giờ đang t́m nhau về điểm họp. Từ lúc theo Đại Đội 83 xuống núi Phước Tuy, ở mỗi thời khắc trôi qua là những biến chuyển lớn tôi phải đón nhận. Những người cùng chung đại đội tôi c̣n chưa nhận diện đầy đủ huống hồ nguyên cả Lữ Đoàn. Những tiếng động va chạm của vũ khí ḥa lẫn với những tiếng bước chân, tiếng gọi nhau, những tiếng chưởi thề…

Tất cả như đang t́m cách khuấy nhiễu cảnh vắng lặng buổi sáng trên miền đất G̣ Công hiền hoà. Chung quanh chúng tôi không một người dân qua lại nhưng chắc chắn họ đang dán mắt theo dơi đoàn lính Dù này đằng sau tấm vách, sau khung cửa, từ trong những mái nhà tranh op ẹp và dĩ nhiên sẽ không thiếu những câu hỏi: Họ từ đâu đến, đến đây làm ǵ và sẽ đi đâu? Tôi nh́n những lối ṃn đưa vào làng, những lối ṃn uốn cong theo bờ mương, con rạch nhỏ dẫn đến những hàng cau xanh và mất hút sau dăy dừa nước chen lấn với những cây bần. Chừng ngần những thứ đó đang bao bọc, ấp ủ những mái nhà tranh bên kia, có người dân quê lam lũ qua nhiều năm vẫn c̣n lặn hụp trong chiến tranh.

Quê tôi ở gần đây, cách G̣ Công một gịng sông sâu phải qua một lần phà, nước quanh năm chảy xiết chất chứa muôn vàn lục b́nh lúc nào cũng nhảy múa trên sóng nước. Cần Đước, quê tôi, cái tên nghe rất quen mà cũng thật xa lạ, chả là ba tôi tài xế công nhân hỏa xa bị đ́ đổi ra Đà Nẵng từ năm 1958. Tôi sống và lớn lên tại xứ Đà, Quảng Nam. Dạo trước khi vào Vơ Bị, tôi có về quê nội Cần Đước đôi ba lần nhưng lần nào cũng sáng đi chiều về, v́ lư do an ninh trong khu vực tôi không thể ở lại qua đêm. Nắng đă lên cao có thêm những chiếc tàu đánh cá từ Bến Đá chạy lạc chậm chạp tiến vào bờ. Khoảng trưa, theo chân thằng đệ tử về điểm tập họp của tiểu đoàn, tôi không gặp Đại Úy Hiệu chỉ thấy Thiếu Tá Thanh (Nguyễn Viết Thanh?) lên bục – bục, tiếng thường hay gọi trong Trường Vơ Bị dùng ám chỉ người cán bộ tân khóa sinh đứng trên cao chấn chỉnh hành tội đám Tân Khóa Sinh phía dưới -

Thiếu Tá nói nhiều nhưng tôi không thể nào nhớ hết được. Giọng ông buồn pha lẫn xót xa, đằng sau ở những lời nói âm thanh nghe như nất nghẹn, thỉnh thoảng ông nhẹ ngước mặt lên cao như cố ngăn không cho đôi hàng nước mắt tuôn. Riêng tôi không biết tự lúc nào nước mắt tôi đă tuôn. Tôi không thể che dấu những gịng nước mắt tủi nhục đầu đời lính. Quanh tôi ai cũng sụt sùi, thằng đệ tử tôi rống to hơn bao giờ hết. Ôi! Việt Nam ai gây ra bao nhiêu điêu tàn, miền Nam Việt Nam chúng tôi ai gây tang thương! Dương Văn Minh, năm 63 tháng 11 ngày 2, trên làn sóng phát thanh Sài G̣n tuyên cáo chấm dứt nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa. Cũng ổng, hôm nay 30 tháng 4, khai tử nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa.

Chua chát thay ! Sau giây phút xúc động, thiếu tá chậm răi, Dương Văn Minh kêu gọi chúng ta buông súng nhưng chúng tôi th́ không. Lữ Đoàn quyết định giao cho mọi người tự giải quyết, ai muốn đi đâu th́ đi, về đâu th́ về, cứ coi như chúng ta tan hàng. Riêng Lữ Đoàn sẽ về vùng 4 cùng Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lập pḥng tuyến cuối cùng. Ai ở lại sẽ cùng Lữ Đoàn rời nơi này vào chập tối. Tôi t́m một mô đất ngồi nghỉ chân. Tôi muốn ghi lại tất cả những ǵ nghe và thấy hôm nay nhưng không thể nào, đầu óc tôi vẫn c̣n đặc quánh lại bởi những chữ đầu hàng, mất nước. Chao ơi! Bi thảm quá, đời người có bao lần mất nước. Năm 54 miền Bắc di cư (di tản cũng thế thôi), họ c̣n cơ hội làm lại cuộc đời trong miền Nam. Bây giờ miền Nam cũng mất nốt, người của hai miền Bắc Nam mai này rồi cũng cùng chung một số phần.

Miên man suy nghĩ chưa t́m lối thoát, chợt thấy có thằng bạn cùng khóa đang khật khưởng đi ngang. Tôi biết nó cũng về Nhảy Dù nhưng không nhớ nó về đơn vị nào. Tôi vẫn nhớ như in h́nh ảnh khất khưởng của nó ngày nào trong trường, ngồi trên bàn trong pḥng ôm cây đàn chơi classic, nh́n những ngón tay của nó loáng thoáng bún nhẹ dây đàn, miệng ngậm ống vố ph́ phèo khói thuốc, trông như lăng tử nhân. Hôm nay phong độ ấy không thấy ở nơi nó nữa, tôi hấp tấp gọi tên nó:

- Ê Vinh, Vương Khắc Vinh.

Nó quay nh́n tôi, tôi nh́n nó, hai thằng nh́n nhau thay cho câu chào hỏi, nó chọn con đường về Sài G̣n. Ừ, thôi mày về. Ít ra mày cũng c̣n một gia đ́nh để về, tao bây giờ con bà phước theo Dù về vùng 4.

Chuyện mai sau hẳn tính. Tôi nhớ có gặp Nguyễn Văn Nghị (cũng bạn cùng khóa) sau đó nhưng không nhớ đă nói với nhau những lời nào. Mẹ, lúc đó đầu óc có c̣n tỉnh táo đâu mà hàn huyên tâm sự. Vậy là tôi dứt khoát theo Dù về vùng 4, thằng đệ tử cũng thế. Chờ đến tối khuya chưa thấy Lữ Đoàn nhúc nhích ǵ hết, tôi bàn với nó lên tàu đánh cá ngủ cho chắc ăn. Người tài công gặp lại tôi vội hỏi :

- Mấy ông đi Cần Thơ ?

Tôi nhún vai ra ch́u không biết, mà thiệt tôi đâu có biết đi chỗ nào, chỉ nghe nói về vùng 4. Tối nay những người c̣n lại chuẩn bị ra khơi không chia canh gác. Tôi chợp mắt ngủ được một lát chợt có nhiều tiếng bước chân lên tàu, tôi choàng tỉnh dậy và nghe giọng nói lớn :

- Ông tài ơi nhổ neo !

Lên tàu là một Thiếu Tá (tôi không nhớ tên, có thể là Hồng), một Đại Úy (Huệ?) và những lính Dù thân tín của mấy ổng. Tôi vội đứng lên chào tay nhưng không xưng danh. Vị thiếu tá mĩm cười chào lại nói nhỏ:

- Cám ơn ! Và kể từ đó cho đến cuối cuộc hành tŕnh ông không nói hay ra lệnh cho tôi làm chuyện ǵ cả. C̣n tôi, tôi không có lư do ǵ để bắt chuyện với ông ta. Có một trục trặc nhỏ, khi tàu bắt đầu chạy v́ trời c̣n tối, không thấy dàn lưới đánh cá của dân nên ủi sập, cũng may lưới cá không vướng chân vịt và đoàn tàu tiếp tục ra đi. Nh́n lại G̣ Công, tối đen không một ánh đèn, vài con đom đóm lập loè trong đêm khuya. Tôi đâu ngờ đây là lần cuối nh́n Vàm Láng, G̣ Công. H́nh như ông trời đă sắp đặt những ǵ tôi đă và đang gặp từ đầu năm 75 đều là lần cuối, đều là chia tay.

Ngày 1 tháng 5 năm 75 Lênh đênh trên biển cho tới gần trưa, tôi thấy lạ, tàu không có biểu hiện gần bờ, cứ nối đuôi nhau mà chạy. Trời trong xanh không gợn áng mây, từ chân trời về hướng mủi tàu có một chấm đen, rồi hai chấm đen. Nhanh chóng hai chấm đen ấy nhắm chúng tôi bay tới và hiện ra hai chiến đấu cơ phản lực. Họ bay thật gần, dường như để quan sát, tôi thấy có hàng chữ Navy trên thân máy bay. Chúng tôi được lệnh hạ ṇng súng không được chĩa lên máy bay hay lên trời. Sau khi bay qua đầu chúng tôi một khoảng xa họ quay trở lại, khi bay tới đoạn giữa của đoàn tàu chúng tôi, họ chuyển đường bay và bay đi hướng 10 giờ. Họ đến thật mau ra đi cũng thật lẹ, không lời từ biệt!

Tôi thấy chiếc tàu dẫn đầu chuyển hướng 10 giờ mà đi và tất cả những chiếc c̣n lại chạy theo. Hai chiếc phản lực cơ đến chỉ hướng ra hạm đội, thế c̣n vùng 4 ? Non hai giờ sau, quang cảnh tấp nập hiện ra trước mắt mọi người. Giữa biển khơi có chừng 5 chiếc tàu buôn to lớn chứa đầy người tị nạn, vài chiến hạm của Hải Quân Việt Nam (không nhớ ra HQ mấy) nhưng không c̣n giương cờ Việt Nam nữa, thay vào là cờ Hải Quân Hoa Kỳ, trên những chiến hạm này cũng đầy người tị nạn. C̣n những chiến hạm của Mỹ không thấy bóng dáng tị nạn nhưng đầy lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Ngoài ra c̣n có vài tàu buôn của Việt Nam, có chiếc đầy người, có chiếc thưa. Vài chiếc xà lan không người lềnh bềnh trên nước. Nhiều tàu đánh cá không người lái cũng đang trôi nổi bềnh bồng chung quanh, họ đă di chuyển qua tàu lớn để lại trên boong, trên mui nhiều đồ hộp, thùng ḿ gói, nước uống… Có những tàu đánh cá, lớn có nhỏ có, ra muộn chở đầy người, già trẻ, đàn ông, đàn bà, con nít có đủ. Trên khuôn mặt mọi người ai tôi cũng thấy như họ vừa đến từ cơi chết. Tàu của họ chạy chậm ngang qua tàu chúng tôi, họ nh́n chúng tôi nhưng như không thấy chúng tôi, những con mắt không thần sắc, những con mắt đỏ hoe hết nước mắt, những gương mặt hốc hác, những thân người ră rời ngồi tựa bên những thân xác lạc hồn. Thật không c̣n cảnh ly tán nào bi thương hơn mà người dân miền Nam phải gánh chịu. Tàu nào vừa đến đều có ca nô Thủy Quân Lục Chiến Mỹ kè theo, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên tàu kiểm soát rồi hướng dẫn họ qua tàu buôn lớn của Mỹ. Cầu thang trên tàu lớn từ từ hạ xuống, mọi người tuần tự được mang hành trang lên tàu lớn nhưng đồ ăn thức uống phải bỏ lại, dĩ nhiên đàn bà con nít lên trước.

Riêng với đoàn tàu của Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đối xử cách khác. Họ không xua đuổi lính Dù nhưng cũng không cho lính Dù lên tàu lớn. Khi tàu chúng tôi tới gần tàu lớn, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trên tàu lớn xua tay đi ra và khi chúng tôi chạy ṿng quanh tàu, họ ở trển cũng ṿng quanh theo, súng trên tay họ lúc nào cũng chĩa vào tàu lính Dù. Chỉ cần một tiếng súng vô ư thức nào đó những Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trên kia cũng như bên chiến hạm của họ sẽ đưa chúng tôi đi tàu ngầm ngay tại chỗ. Thế này là thế nào, Navy hướng dẫn chúng tôi ra đây, đến rồi Thủy Quân Lục Chiến không ‘welcome’? Chạy tới chạy lui thấy cũng không phải cách, tàu lính Dù dồn lại nằm gần bên nhau và cứ thế chúng tôi ngồi đó ngắm lưu thông trên biển. Vẫn c̣n nhiều tàu thường dân “hớt hải” chạy ra, một số do may mắn, một số do trực thăng Navy ‘chỉ lối đưa đường’. Tôi nghĩ trên biển bây giờ chắc cũng có nhiều điểm tập trung như thế này để cứu vớt những người ra biển. Ít ra người Mỹ, họ vẫn c̣n một tấm ḷng cho dù mọi chuyện bây giờ đang diễn ra cũng đều do phép biến hóa thần thông quảng đại của họ. Hậu quả miền Nam như bầy ong vỡ tổ, tấm ḷng này không biết v́ nhân đạo hay sám hối, mua chuộc phần nào lầm lỗi.

Bất cứ người nào ra ngoài hải phận, đều được Mỹ cứu vớt, ngoài Nhảy Dù. Tối đến mọi chuyện thưa dần rồi ngưng hẳn. Những chiếc ca nô của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ biến mất, trên biển chỉ c̣n lại chúng tôi với những chiếc tàu không người lái, chúng tôi t́m cách cột chung lại với nhau. Một ít lính Dù nhảy qua những tàu trống t́m đồ ăn. Đèn trên những tàu lớn bắt đầu cháy sáng, những ánh đèn pha từ trên tàu lớn cũng như bên chiến hạm đều rọi thẳng vào chúng tôi. Một đêm an b́nh có người rọi đèn cho ngủ.

Ngày 02/05/1975 Trời gần sáng chúng tôi được đánh thức qua một loa phóng thanh từ tàu lớn. Hồi đó tiếng Mỹ của tôi cũng hay quá… nghe ba chớp ba nháng, đại khái lính Dù muốn được lên tàu của họ phải quăng bỏ tất cả vũ khí xuống biển luôn cả nón sắt !

Chúng tôi nh́n nhau, tôi nh́n Thiếu Tá, ổng nh́n qua tàu bên kia. Không biết người nào chủ động quăng vũ khí xuống trước nhưng sau đó tất cả đều cho vào ḷng biển.Tôi cầm cây M16 lưỡng lự vài giây, chưa một lần bắn từ khi lănh nó, giờ thôi cũng đành. C̣n cái nón nữa, tôi không quăng úp nó xuống biển, tôi cho nó nằm ngửa để nó được trôi và trôi măi vào bờ. Ai kia nhận được coi như chứng tích chiến tranh Việt Nam c̣n sót lại. Ca nô đưa toán Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên tàu xem xét coi vũ khí, nón sắt đă quăng hết chưa và cho thêm tin mới. Ai muốn đi (đi đâu, không một ai biết lúc đó đi đến đâu) th́ lên tàu lớn, c̣n như ai muốn về, họ sẽ cung cấp cho xăng dầu, đồ ăn cùng thức uống và những người quyết định đi về được tự chọn những chiếc tàu ở đây c̣n tốt mà lái về. Những chiếc khác c̣n lại sẽ bị đánh ch́m. Mọi người trên tàu đều đồng ḷng ra đi ngoại trừ lăo tài công. Không phải Nhảy Dù đă cưỡng bức lăo ta ra ngoài này hay sao? Được đi về c̣n được lựa tàu ‘mới’ nữa, lăo mừng nhảy tưng tưng. Chúng tôi gom hết tiền bạc Việt Nam Cộng Hoà cho lăo, không biết những số tiền nho nhỏ đó có giúp ích ǵ chăng? Lăo cám ơn rối rít.

Lên trên tàu lớn, trời cũng vừa sáng. B́nh minh trên biển thiệt đẹp. Mặt trời hồng chậm răi vươn lên từ chân trời xa. Tôi như quên bao nhọc nhằn những ngày qua, đi một ṿng quan sát, tôi quay dặn thằng đệ tử đừng đi đâu kẻo lạc và tôi rảo bước nh́n quanh. Tàu buôn của Mỹ lớn thật… nhưng mà… ơ ḱa… những gian hầm tàu thay v́ chứa hàng, tôi thấy toàn người với người. Hầm nào cũng đầy nhóc người, kẻ đứng người ngồi. Tiếng nói, tiếng cười pha lẫn tiếng la khóc con nít, âm thanh ồn ào vang vọng echo lên boong tàu. Những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nh́n tôi thân thiện. Mới hôm qua nh́n nhau c̣n e ngại. Tàu chạy rồi tôi vẫn chưa hay, tàu lớn chạy êm quá.

Nh́n xuống dưới biển thấy nó đang nhẹ nhàng rẽ nước. Tôi ngồi bệt xuống boong tàu suy nghĩ. Th́ ra những ngày qua tôi không biết ǵ hết! Người Mỹ đă sắp đặt hết tất cả. Từ tin đồn mất nước, tin đồn trại tị nạn bên Guam, bây giờ với những tàu hàng này tôi đă hiểu ra phần nào. Người Mỹ đặt ‘order ‘ những tàu hàng trống trơn ít nhứt phải hơn một tháng về trước. Họ chuẩn bị cho tàu hàng ở ngoài khơi như tôi đang thấy ít ra cũng cả tuần lễ, có như vậy họ mới ‘lai rai’ nhận người di tản từ trước 30 tháng 4. Người nào đến trước xuống hầm tàu (tàu trống mà) và người nào lên sau cùng sẽ ở trên boong như chúng tôi. Chúng tôi là những người tị nạn chót lên tàu và nhổ neo đi tức th́. Tôi vịn thành tàu đứng dậy nh́n về Việt Nam, giơ tay chào vĩnh biệt trước con mắt ngỡ ngàng của những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ
Phạm Văn Hùng
SVSQVBĐL K28

florida80 12-01-2018 01:07

Chú HL ơi

Chú có ảnh ngày xưa đi lính . Cho N.Ư xem với nghen
Chúc cuối tuần vui . Làm biếng đọc mấy trang lịch sử dài của chú . Chỉ thích xem ảnh lính thôi.

Nếu có thời gian . chú có xem video diễn hành ngày quân lực Việt Nam Cộng Hoà
có một vài nữ quân nhân diễn hành . Một người cầm cờ đi đầu là d́ ruột của N.Y

Nếu chưa xem th́ N.Y t́m video sẽ post ....

xem tam in youtube. Not clear ..

https://youtu.be/GCANWgxlnTc

tbbt 12-01-2018 06:31

Cho thêm tí nhạc mới đúng điệu :)


hoanglan22 12-01-2018 13:56

Người Thiếu Phụ Trong Mưa Phùn
 
( Viết để tưởng nhớ quư chiến hữu đă gục chết trong lao tù , và cũng để tuyên dương những người vợ lính VNCH, đặc biệt là chị quả phụ của cố Đại úy CSQG Trần Thiên Thọ Hải. ....)

... T́nh h́nh sức khỏe anh em khi c̣n ở các trại do quân đội Việt Cộng quản lư đă tồi tệ, th́ nay càng tồi tệ hơn dưới sự hà khắc dă man của bọn Công An, mà anh em tù quen gọi là bọn “Chó Vàng”, tiêu chuẩn ăn uống th́ bị cắt xén ăn bớt. Mỗi bữa ăn chỉ được một th́a cơm với hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục lát sắn khô hay một chén sắn duôi (loại sắn được nạo thành sợi hay xắt thành cục phơi khô), vài muỗng canh đại dương (nước muối với vài cọng rau già), hoặc một vài miếng sắn được nấu với muối cho nhừ để làm canh. Họa hoằn, một đôi ba tháng và các ngày Lễ Tết th́ được một chén cơm trắng với hai ba miếng thịt lợn to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài miếng thịt trâu từ một con trâu già đă không c̣n kéo cày nổi hay bị chết v́ không chịu nổi cái lạnh mùa đông. Với chế độ ăn uống như vậy mà phải làm việc khổ sai, dẫn đến t́nh trạng kiệt lực, người nào cũng chỉ c̣n da bọc xương. Mỗi buổi chiều hết giờ lao động, anh em tù cởi áo xuống ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm đói.

T́nh trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ, bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến. Đă có một số anh em chết mà anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” v́ hầu hết tù nhân chết đều được chôn trên các sườn đồi.


Xin đơn cử một vài cái chết của vài anh mà tôi có dịp ở chung.

Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực pḥng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh th́ thầm tâm sự:

- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một ḿnh, ông bà cụ luyến tiếc tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy năo (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đă ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở tù. Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.

Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh về món quà anh đă cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ.

Sáng hôm sau khi ra khỏi pḥng để điểm danh th́ thiếu một người, tên thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi vào th́ phát hiện anh Phong đă mê man. Chúng tôi vội cơng anh lên trạm xá nhưng anh đă chết vài giờ sau đó.

Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc pḥng 2 Bộ tư lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:

- Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “lăng Bác”. Nó t́m lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa. Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, v́ sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v..

Quả thật những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái t́nh dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh đă chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.

Giữa năm 78 v́ đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đă khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ c̣n trên 30kg. Tôi không c̣n bước đi được nữa, mà chỉ có thể ḅ được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”. Tại đây đă có anh Tư, anh là người hạm trưởng đă sang Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận v́ đă quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày th́ anh chết. Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng B́nh Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lư. Dường như chẳng c̣n ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn c̣n nói đùa: “Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp c̣i”.

Cũng thời gian này, có một bài hát đă được anh sáng tác tôi vẫn c̣n nhớ được ít câu:

“Rồi một ngày mai không có anh,
em không c̣n phải nhớ phải mong
- Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi
- Cô đơn ngồi khóc một ḿnh
- Không một lần kịp vuốt mắt anh
- Ôi mây lang thang về phía trời xa vời,
nh́n trông theo cánh chim từng đàn,
để ḿnh ta với bao ngày tháng xanh rêu,
bụi thời gian lấp kín hồn ḿnh,
đớn đau trong ḷng mà nhớ về nơi xa,
ôi ngày về c̣n dài bao lâu
- Rồi một ngày mai anh chết đi,
em không c̣n phải khóc phải thương
- Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào ḷng đất,
cô đơn phủ kín đời ḿnh.
- Không một lần kịp nói tiếng yêu.”-

Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất. Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đă nhớ cái địa chỉ ở Biên Ḥa, nên chị đă đi t́m báo cho gia đ́nh tôi biết. Nhờ vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm, tên Vinh cán bộ giáo dục của trại trước khi tôi ra gặp đă chỉ cho tôi gặp 5 phút v́ tôi đă gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đă cho tôi gặp gần một giờ. Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu th́ đă hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, ḷng buồn ră rượi, rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù h́nh sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại. Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm đă có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó.

Gần tết năm 79 tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại. Thời gian này do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đ́nh đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em đă dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đă bị đẩy lùi. Hàng đêm tại các pḥng, anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội trà lén mang về. Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang v́ thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không c̣n hoang mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục.

... Anh em đă san xẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ. Một buổi tối cuối năm, sau khi đă điểm danh vào pḥng, anh em đang tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ th́ tên cán bộ trực tại trại đến cửa pḥng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “lao động đột xuất”. Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề pḥng mưa, v́ mùa đông miền Bắc thật lạnh, lại thường có mưa phùn. Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn băo leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân th́ đă thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi.

Dường như đă được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi t́m mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đă t́m được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học tṛ ghi lờ mờ, c̣n nắm đất th́ chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam. Việc đầu tiên là t́m một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ c̣n rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.

Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, v́ trời đă lâm râm mưa phùn. Chúng tôi d́u chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đă đụng lớp ván đă mục, v́ khi tù nhân chết th́ chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù h́nh sự khi đi chôn th́ chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đă rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đă lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:
– Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại th́ họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau th́ em được tin anh Hải đă chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.

Như vậy là họ đă dấu nhẹm không báo cho gia đ́nh, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đă phải cho. Nhưng khi đến đây th́ họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp qua đêm với lư do là ô uế. Sau gần một giờ, thấy có thể đă không c̣n sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nh́n thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lư nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc c̣n lại. Nh́n người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo.

Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:

– Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!
Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về pḥng. Tên thường trực thi đua đă đứng đợi sẵn để mở cửa.

Đă quá nửa đêm, cái lạnh đă thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối băo bùng.

Đoàn Trọng Hiếu

hoanglan22 12-01-2018 14:14

LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM 99 và Đôi Lời Tâm sự của HQ Đại Tá Lê Hữu Dơng
 
1 Attachment(s)
Trong bài phỏng vấn Đô Đốc Chung Tấn Cang, chúng ta đă thấy được sự khéo léo trong việc đem đoàn tàu ra khơi. Qua đó Đô Đốc Chung Tấn Cang đă nhắc đến vai tṛ quan trọng của Lực lượng Hậu bị để ngăn bước tiến của địch và giữ an ninh thủy tŕnh. Đó là nhiệm vụ của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, do Hải Quân Đại tá Lê Hữu Dơng, làm Tư-lệnh. Để có một cái nh́n chính xác về Lực Lượng này, chúng tôi đă t́m gặp Đại-tá Dơng, hiện cư ngụ tại Bakersfield. Qua những lần tṛ chuiyện mặt đối mặt, qua điện thoại, thư tín, điện thư, cộng với những thăm hỏi, đối chứng và cả rất nhiều tài liệu của đối phương, chúng tôi cô đọng và thực hiện bài viết này.

Được hỏi vể sự thành lập Lực lượng này, các đơn vị trực thuộc, nhiệm vụ và vùng hoạt động… Đại-tá Dơng đă trả lời:

“…Lúc ấy, tôi đang làm Tư-lệnh-phó Lực Lượng Tuần Thám, phụ tá cho Đô-đốc Nghiêm Văn Phú th́ được Đô-đốc Chung Tấn Cang gọi về thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm 99. Đó là ngày 08 tháng 4 năm 1975. Trong khẩn cấp, các đơn vị sau đây đă được lấy về, gồm Giang Đoàn 42 Ngăn Chận, Giang Đoàn 59 Tuần Thám, Đại Đội Hải Kích, Địa Phương Quân, một số giang đĩnh lấy ra từ những Giang Đoàn Thủy Bộ, Ngăn Chận và Xung Phong. Kể cả 6 chiếc LCM8 của các căn cứ Yễm Trợ Tiếp Vận. Mấy chiếc chiến đĩnh Zippo phun lửa nữa… Nói chung, đây là một đại đơn vị gồm rất nhiều loại tàu bè, tất cả là 62 chiến đĩnh, một mũi xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân Miền Nam lúc bấy giờ.

Về nhiệm vụ, do khẩu lệnh mà tôi nhận trực tiếp từ Đô-đốc Chung Tấn Cang, Tư-lệnh Hải Quân th́ Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 gồm những trọng trách sau đây:

- Thứ nhứt, Lực Lượng sẽ là đơn vị hậu vệ nặng để bảo vệ Chính Phủ rút về miền Tây, khi t́nh thế xấu.
- Thứ hai là bảo vệ an ninh thủy tŕnh sông Soài-Rạp và sông Ḷng-Tào nếu Hạm Đội phải rời Sài G̣n ra biển.
- Và thứ ba là bảo vệ Bộ Tư-Lệnh Hải Quân, nếu có đảo chánh xẩy ra.

Do đó vùng hoạt động của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 không nhất định.”

Một cách tổng quát, hầu như ai đă có chút quan tâm đến thời cuộc, đều biết rằng ngày 20 tháng 4, mặt trận Xuân-Lộc vỡ, Sài-G̣n đă thực sự bị đe dọa. Với nhiệm vụ được nêu rơ ở trên, một cách cụ thể, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, đă hoạt động như thế nào. Đă có những đụng độ nào đáng kể. Trước những thắc mắc ấy, Đại-tá Dơng thong thả đáp:

“Sài-G̣n kể từ ngày đó, quả là những ngày hấp hối. Trong nhiệm vụ của tôi, của Lực Lượng Đặc nhiệm 99, chúng tôi phối hợp với các đơn vị bạn để ngăn chận bước tiến của địch ở mặt Tây-Nam Sài-G̣n. Cụ thể là bằng mọi giá phải chận đứng bước tiến của các Công-trường 9, Cộng-trường 7 và Công-trường 5 cùng với tiểu-đoàn Nhái của địch từ các ngả biên giới Miên tràn xuống. Trở ngại của những cách quân này là 2 con sông Vàm-Cỏ-Đông và Vàm-Cỏ-Tây. Mục đích của chúng gồm 2 bước: Thứ nhứt là cắt đứt quốc lộ 4, để Sài-G̣n và miền Lục-tỉnh, Quân-đoàn 4 không thể cứu ứng được cho nhau. Như chúng ta dự trù, khi Quốc lộ 4 bị cắt, chúng ta muốn dời Chính-Phủ về miền Tây, sẽ vô cùng khó khăn. Bước thứ hai, nếu chúng vượt qua và khống chế được 2 con sông Vàm-Cỏ, th́ coi như Sài-G̣n đă bị bao vây bốn mặt. Chúng sẽ khóa chặt thủy tŕnh huyềt mạch là sông Ḷng-Tào và sông Soài-Rạp, cửa ngơ yết hầu nối Sài-G̣n với cửa biển sẽ bị bít kín. Đa số tàu bè của Hải Quân như những con cá ḱnh mắc cạn, ta sẽ vô phương xoay trở. Nhưng với sự hiện diện của Lực-Lượng Đặc-Nhiệm-99, ư đồ trên của địch đă thất bại.”

Sau này trong cuốn Tổng Hành Dinh trong mùa Xuân Toàn Thắng, chính Vơ Nguyên Giáp cũng đă xác nhận sự thất bại này, nguyên văn nơi trang 317 như sau: “Đặc biệt ở phía Tây-Nam Sài-G̣n, nơi có địa h́nh śnh lầy, trống trải, bộ đội và nhân dân đă phải vượt muôn vàn khó khăn, đánh thông hành lang Tây-Ninh - Kiến-Tường, làm chủ một phần sông Vàm-Cỏ-Tây, mở ra một vùng giải phóng, lót sẵn lương thực, đạn dược, tạo thế thuận lợi cho một bộ phận đoàn 232 tiến công vào Sài-G̣n. Ở hướng tây nam, Bộ-Tư-lệnh quyết tiến công vào thị trấn Thủ-Thừa và thị xă Tân-An, không đánh chiếm Mộc-Hóa như trong kế hoạch cũ. Trận đánh không thành công v́ quân địch đă pḥng bị sẵn”. Giáp đă không nói rơ những ‘muôn vàn khó khăn’, ‘địch đă pḥng bị sẵn…’ là những khó khăn nào, pḥng bị như thế nào, sức đối kháng từ đâu tới và bộ đội của Giáp đă có những thiệt hại ǵ…

Để chứng minh hiệu quả trên, một số những trận chiến ác liệt trong vùng trách nhiệm, đă được Đại-tá Dơng nhớ lại như sau:

“Sáng ngày 16 tháng 4, khi đoàn chiến đĩnh của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 trên đường giải tỏa áp lực địch trên kinh Thủ-Thừa, chúng tôi thấy ở bên kia bờ rạch Cần-Đót, có rất đông người đang tắm. Lấy ống nḥm quan sát, mới hay đó là một đơn vị địch. Tôi cho lệnh đoàn tàu ủi thẳng sang, tấn công. Chúng chấp nhận giao chiến, không chạy. Hai bên cách nhau rất gần, trên dưới 10 thước mà thôi. Sức phản công của chúng rất dữ dội, gồm nhiều loại súng lớn rất ác liệt, như 82 ly không giựt, 12ly8. Phía các chiến đĩnh của chúng ta được một phen đáp ứng ngon lành. Tôi c̣n nhớ anh Đức, một thủy thủ, bị thương ở mặt và ở đầu, máu tuôn xối xă, nhưng anh Đức chỉ lấy tay vuốt máu trên mặt, đứng thẳng trên nóc chiến đĩnh, ôm khẩu MK19 nă thẳng vào đối phương. Trận chiến kéo dài suốt ngày. Phía ta có các đơn vị Bộ binh và Địa phương quân đến tiếp ứng. Tới 5 giờ chiều địch rút. Trong trận này phía chúng ta thiệt hại nhẹ. Phía địch thiệt hại không dưới một tiểu đoàn. Vũ khí ta thu được gồm 4 khẩu 82ly, 2 khẩu 12ly8, 12 khẩu B40 và rất nhiều súng AK cùng súng trường Nga.”

Vẫn theo lời kể của Đại-tá Dơng:

“ … Kể cũng thật ghê gớm. Vẫn tại Cần-Đót, hôm trước chúng ta giải tỏa, hôm sau địch lại kéo tới, đông hơn. Các chiến đĩnh của ta đụng địch liên tục. Tôi c̣n nhớ một chiếc Monitor của Giang Đoàn 42 Ngăn Chận bị trúng 82ly không giựt trực xạ, khiến 3 nhân viên và Thiếu tá Phạm Ngọc Lộ, khóa 12, chỉ huy trưởng, bị thương. Máu đầy mặt, nhưng tất cả vẫn ở trong các ổ súng, tiếp tục bắn. Cứ như thế, ta và địch giằng co, ’gặp nhau’ đều đều. Trong khi đó, pháo 122ly của địch hàng ngày câu hàng trăm trái vào Long-An, gây rất nhiều đổ nát, thương vong cho dân chúng. Đạn rơi cả vào nhà thương, khiến những người đă bị thương lại bị thương một lần nữa. Thân nhân của họ vội tản thương khỏi nhà thương. Sư Đoàn 22 Bộ Binh, từ miền Trung di tản về đang được tái trang bị, dưới sự chỉ huy của tướng Phan Đ́nh Niệm, đem một Trung-đoàn ra giải tỏa áp lực địch tại Cầu-Voi, nhưng áp lực địch vẫn rất nặng nề. Ta và địch giằng co nhau nhưng Cầu-Voi vẫn không bị phá, giao thông trên quốc lộ 4 nhiều lúc khó khăn nhưng không hề bị cắt, v́ được người Nhái của ta ngày đêm tận t́nh bảo vệ. Những phen Nhái ta và Nhái địch quần nhau ở chân cầu Long-An đầy cam go, hồi họp. Rồi lợi dụng đêm tối, Nhái của chúng lội ra giữa sông, leo lên các chiến đĩnh của người Nhái ta, nhưng chúng ta đă phát giác kịp thời., tất cả Nhái của địch đều bị Nhái của ta hạ sát khi vừa xuất hiện bên mạn chiến đĩnh, ch́m mất xác dưới ḷng sông. Cũng chính v́ thế các chiến đĩnh không bao giờ được neo ngủ, phải luôn luôn di động và dùng lựu đạn ném quanh tàu. Nhiều chi tiết rất khiếp đảm trong việc chống lại người Nhái địch, nói ra không hết. Một thủy thủ đứng gác trên nóc chiến đĩnh bỗng thấy mặt nước khua động, rồi một cái đầu ló lên, một cách tay bám vào mạn chiến đĩnh, rất nhanh như một phản xạ, một trái lựu đạn được quăng xuống nước, nổ ục, tung một quầng nước lớn đỏ thẫm những máu. Tên Nhái địch buông tay, ch́m. Mặt nước lại lững lờ trôi như không có ǵ xảy ra. Đêm cũng như ngày, có thể nói sự nguy hiểm có mặt ở sát bên ḿnh.”

Bằng một giọng nửa đùa cợt, nửa thắc mắc, Ông nói:

“Không biết tụi nó tưởng tàu ḿnh bằng giấy bồi, lính của ḿnh là lính gỗ chắc. Hết Nhái của tụi nó bơi ra, lại có cả những ghe gỗ, chở lính, cũng cứ nhào ra, một lúc mấy chiếc. Chúng dùng đủ loại súng bắn vào các chiến đĩnh của ta. Đạn súng nhỏ bắn vào thành chiến đĩnh rào rào như mưa. Chúng ta phản pháo bằng súng thường không xuể. Các ghe chở đầy lính của địch lại túa ra. May mà hai chiếc Zippo vừa nạp đầy nhiên liệu, loại xăng đặc dùng cho bom Napalm, đă sẵn sàng. Hai chiếc Zippo, dưới sự bảo vệ của các chiến đĩnh khác, tiến sát vào bờ, lưỡi lửa phun ra dài cả trăm thước. Trong nháy mắt cả một vùng bờ cây xanh từ gốc tới ngọn cháy rực, găy đổ, lửa khói bốc cao, khét lẹt. Từng lớp người ở sát bờ sông ngă ra, tràn xuống mặt nước. Các đợt xung phong dại dột của địch khựng lại, pḥng tuyến địch rối loạn. Nhưng quân trên bờ của địch, người ở đâu vẫn đen đặc, kêu thét chạy tán loạn, đặc nghịt. Pḥng tuyến của chúng vỡ. Ông Tỉnh-trưởng Trần Vĩnh Huyến chứng kiến cảnh này, lắc đầu. Ta không đủ quân để lên bờ thu chiến lợi phẩm. Nhưng thiệt hại của chúng không dưới một tiểu đoàn. Sau trận ‘hỏa công’ này, mặt trận hai con sông Vàm-Cỏ trở nên yên tĩnh. Có lẽ nhờ thế chúng đă không thể nào vượt qua 2 con sông Vàm-Cỏ, để áp đảo Sài-G̣n. Nh́n mấy chiếc ghe cháy xám, trôi lềnh bènh, đúng là những chiếc thuyền ma, ḷng vừa giận, vừa thương, vừa hú vía…”.

Loại Zippo phun lửa

Lau mồ hôi và thở một hơi dài, Đại-tá Dơng lại tiếp:

“Mấy ngày sau, mặt sông có những xác người trôi đen đặc. Mùi tử khí bay nồng nặc. Nghĩ lại cuộc chiến thật đau ḷng…” Vẫn lời của Đại-tá Dơng: ”Đó là một trong những cuộc tao ngộ chiến, mà sau này đọc tài liệu của họ tôi mới biết. Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đă cản đường tiến của đoàn 232, tương đương với 1 Quân Đoàn, do tướng Lê Đức Anh chỉ huy, nằm ém quân bất động ở ngă ba sông Vàm-Cỏ, đợi sẵn khi có thể là vượt sông, tiến vào Sài-G̣n. Tại đó, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 lúc nào cũng có 6 chiến đĩnh hiện diện. Vậy mà chúng nín khe, suốt mười mấy ngày không một tiếng súng bắn ra. Bây giờ cuộc chiến đă tàn. Mọi việc đă nhạt nḥa như không có thực. Nhưng giả thử Cộng quân không bị cản đường, chúng qua được sông Vàm-Cỏ, nằm sẵn ở 2 bên sông Ḷng-Tào và Soài-Rạp, khi đoàn tàu thuyền trong đêm 29 rạng 30 tháng 4, chở đầy quân, dân, đàn bà và trẻ con túa ra biển, những điều ǵ đă phải xẩy ra. Với hỏa lực của mấy sư đoàn địch trên bờ và mấy trăm cổ hải pháo trên các chiến hạm cùng thi nhau nhả đạn, hai con sông Ḷng-Tào và Soài-Rạp chắc chắn sẽ là hai con sông kinh hoàng ngập máu, sẽ tàn khóc và rùng rợn nhiều lần hơn Đại Lộ Kinh Hoàng trong mùa hè Đỏ Lửa 1972”.

(Người viết thoát khỏi Sài-G̣n trên Dương Vận Hạm Thị-Nại, HQ502, một con tàu hư hỏng, chỉ c̣n một máy, do HQ Thiếu tá Nguyễn Văn Tánh làm Hạm-trưởng. Trên tàu chở theo 5000 người. Trong đó có vợ và 4 con của Đại tá Dơng thoát đi vào phút chót cùng với gia đ́nh Trung-tá Ṭng, mà Đại-tá Dơng không hay. Đại-tá Dơng nhiều ngày sau mới gặp lại gia đ́nh tại khu Liều Vải, Orote Point, ở Guam. Khi Cộng sản đă vào Dinh Độc-Lập, ông Minh đă tuyên bố đầu hàng, con tàu HQ 502 chết máy, vẫn chưa ra khỏi cửa sông Soài-Rạp, và vẫn tiếp tục vớt thêm người từ các ghe dân táp vào tàu.. Có nghĩa là cho đến trưa ngày 30 tháng 4, địch chưa hiện diện trên khúc sông này, sông Soài-Rạp vẫn c̣n an ninh. Được như thế tất nhiên không phải là môt sự t́nh cờ. Đó là công lao to lớn cụ thể của đơn vị hậu bị, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, và do sự khéo léo dự trù của Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, Bộ Tham Mưu và sự hợp tác của tất cả Thủy Thủ Đoàn mọi cấp bậc. Nếu không, thí dụ chỉ một trái B40 bắn vào HQ502, tàu bốc cháy, 5500 người trên tàu sẽ là nạn nhân trong một ḷ lửa… Chỉ mới nghĩ thế, tôi đă thấy rung ḿnh.)

Được hỏi “Khi đoàn chiến hạm ra đi, Đại-tá có được thông báo không”.

Đại-tá Dơng đáp:

“Có chứ. Trước khi hạm đội khởi hành. Đô-đốc Cang có hỏi tôi là an ninh thủy tŕnh sông Ḷng-Tào và sông Soài-Rạp ra sao. Tôi xác nhận là an ninh tốt. Rồi trong đêm 29 tháng 4, Đô-đốc Cang đă 2 lần nhờ Đại-tá Cổ Tấn Tinh Châu, Chỉ-huy-trưởng Đặc Khu Rừng Sát và Trung-tá Dương Hồng Vơ t́m tôi, kêu tôi hăy mau rời vùng hoạt động, ra khơi với đoàn tàu.”

Một thắc mắc được nêu lên. Đại-tá đă ra đi bằng cách nào. Và Lực Lượnf Đặc Nhiệm 99 vào phút chót ra sao. Và chẳng may ông kẹt lại, ông sẽ nghĩ ǵ, phản ứng ra sao… Đại-tá Dơng cười và tiếp:

“Lúc đoàn tàu ra khơi, tôi c̣n lênh đênh trên ngă ba sông Vàm-Cỏ. Vẫn cố giữ sự hiện diện của ḿnh ở đây để cản đường tiến của địch, như nhiệm vụ đă được thượng cấp giao phó. Nếu chẳng may mà kẹt lại th́ cũng đành vậy, rồi liệu sau. Có điều lúc ấy, đâu đă rơ t́nh h́nh ra sao. Đại-tướng Minh đâu đă đầu hàng. Trên bờ th́ khác, chứ trên sông nước, ḿnh vẫn c̣n bảnh lắm… Rồi như chúng ta đều biết, hôm sau, 30 tháng 4, trước khi ông Minh ra lệnh đầu hàng mấy phút, tôi trở lại Long-An, nhà Ba tôi, đón hai đứa con tôi. Cho đến 16 giờ hôm ấy, 30 tháng 4, tất cả chiến đĩnh thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đều có mặt tại ngă ba sông Soài-Rạp. Bên cạnh tôi có Đại-úy Hải CHT/GĐ59 Tuần Thám, tôi đích thân ra lệnh giải tán Lực Lượng. Tôi đă nghẹn lời có nói một câu ngắn rằng: ‘Hẹn gặp lại anh em…’

Qua lời kể của Đại-tá Dơng, ta thấy trận chiến kinh khiếp như thế, đạn bắn vào tàu như mưa, là người chỉ huy và trực tiếp xông pha cùng với đoàn viên các cấp, một câu hỏi đùa: “Chắc ông có bùa Miên, nên đạn đă tránh ông”. Đại-tá Dơng cười đáp:
“Đâu có. Nhiều lần tôi đă bị thương. Nhưng lần đi trận cuối, và bị thương lần cuối là ngày 17 tháng 4 năm 1975, tại Long-An. Nhẹ thôi. Cũng không biết ḿnh bị bắn lúc nào. Một mảnh đạn nhỏ ghim vào ngực bên trái. Hồi 9 giờ 15, hay tin tôi bị thương, Đô-đốc Phú đă phóng PBR lên tại mặt trận thăm tôi, hỏi tôi có chịu đựng được không. Lúc đó v́ đang đụng nặng, tôi đă vui vẽ đáp là không có ǵ, chỉ biết là bị thương ở ngực thôi, và bị rát quá, máu ra chút đỉnh thôi. Khi mặt trận đă văn, tôi về đến nhà, nên nhớ là nhà tôi ở Long-An, Bác-sĩ Truyền đă cứu chữa cho tôi ngay, lấy viên đạn ra. May là viên đạn không vào sâu bên trong. Tôi có báo cáo cho Đô-đốc Cang, nhưng Trung-tá Vĩnh Giang, bạn cùng khóa nghe tin, liền thông báo cho các bạn là tôi bị thương nặng, sắp chết. Vết thương này, cả tháng sau, khi đă ra khỏi trại Indiantown Gap, mới thực sự b́nh phục.”

Vẫn lời Đại-tá Dơng:

“Sau khi giải tán Lực Lượng 99, tôi và Đô-đốc Phú dự định dùng 2 chiếc PCF để ra đi, cuối cùng HQ 402 đi qua. Anh em trên tàu thấy chúng tôi trên LCM8, nên kêu gọi, tôi lên HQ402, sau tôi mời Đô-đốc Phú lên. Trên HQ402, tôi và ông sau 2 ngày nhịn đói, ăn chung một đĩa cơm do Thượng-sĩ Vơ Văn Hiếu đưa lên. Rồi ông từ giă tôi lên Soái Hạm, ông không nói ǵ, nhưng ánh mắt ông nh́n tôi như nói lên tất cả. Tánh ông thế. Qua Mỹ, h́nh như ông không liên lạc với ai. Ông có gọi thăm tôi tất cả 5 lần. Ông buồn, mới mất, chẳng để lại một nhắn gửi ǵ”.

Đại-tá Dơng nói thêm:

“Có một chuyện ít ai biết là chiều ngày 29 tháng 4, tôi và Đô-đốc Phú ngồi trên một PBR đậu tại bến đ̣ Long-An. Cầu Long-An, thị xă Long-An chưa lọt vào tay địch. Tại đây chúng tôi đă làm được 2 việc như sau: Thứ nhứt là khi ra lệnh cho Liên Đoàn Đặc Nhiệm ở G̣-Dầu-Hạ, Thiếu-tá Sơn có hỏi tôi, có ông Quân-trưởng G̣-Dầu-Hạ xin tháp tùng, có cho đi không. Tôi đáp chở hết và đánh đắm tất cả các chiến đĩnh hư hỏng, đi vận tốc tối đa ra sông Soài-Rạp. Sơn hỏi ‘Lệnh của ai’. Tôi đáp có ‘một sao’ ngồi đây. Đô-đốc Phú cười. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy ông cười. Và đoàn giang đĩnh G̣-Dầu-Hạ đă ra đến Soài-Rạp an toàn trưa ngày 30 tháng 4. Nếu Liên Đoàn Đặc Nhiệm ở Tuyên-Nhơn của Thiếu-tá Lê Anh Tuấn lên máy liên lạc với tôi, tôi cũng sẽ bảo đi như G̣-Dầu-Hạ. Tiếc thay! Thứ hai là, cho đến phút chót, chúng tôi vẫn giữ đuợc trật tự, an ninh trên tất cả chiến đĩnh thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 và cho Đại Đội Tuần Giang và Giang Cảnh Long-An tháp tùng ra sông Soài-Rạp. Tiếc rằng Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và Ông Tỉnh-trưởng Long-An từ chối không ra đi, ở lại. Một điều nữa là cho đến giờ này tôi rất yên ḷng là suốt thời gian đụng nhiều trận nặng, trước những đợt tấn công ào ạt biển người của địch, như đă mô tả ở trên, nhưng chỉ có mấy anh em bị thương (khoảng 5 người) mà không mất mát người nào, cho đến khi tôi lên HQ402, giă từ nhiệm vụ Chỉ huy Lực Lượng Đặc Nhiệm 99.”

Lên HQ402, một con tàu hư hỏng với trên 2000 người trên tàu. Chính Đại-tá Dơng đă nhọc công lái HQ402 ra biển, chỉ huy con tàu ấy, cho đến khi tất cả số người trên tàu được chuyển sang tàu khác. HQ402 được lệnh đánh ch́m. (Hoàn cảnh của HQ402 đă được Bà Diệp Mỹ Linh kể lại rất chi tiết trong cuốn HQVNCH Ra Khơi, nơi trang 261, 262).

Một Chút Riêng Tư

Hải Quân là một quân chủng, nhưng trên thực tế lúc đông nhất chỉ trên Bốn Chục Ngàn người. Với những sĩ quan cấp tá, th́ hầu như ai cũng biết nhau. Biết khá kỹ về khả năng, tính t́nh của nhau. Ông này điềm tĩnh, uyên thâm, hợp với vai tṛ tham mưu. Ông kia trầm tĩnh, chịu sóng, thích đi tàu. Ông khác th́ ồn ào, xông xáo chỉ thích hợp với các đơn vị trong sông… Nhưng trường hợp của Đại-tá Dơng th́ hơi khác. Tuy xuất thân khóa 8, khóa đầu tiên được giảng dạy bằng việt ngữ của trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, ra trường năm 1960, nhưng ông đă may mắn trải qua những thời gian đi biển, đi sông, đă từng giữ các chức vụ Hạm-trưởng, đă đi du học, đă làm Hạm-trưởng vượt Thái-B́nh-Dương, đem tàu từ Mỹ về nước. Đặc biệt chỉ 4 năm sau khi ra trường, ông đă được chỉ định làm Chỉ-huy-trưởng Hải Đoàn 22 Xung Phong, một đơn vị khét tiếng với những chiến công trong sông. Và cuộc chiến trong sông hầu như rất thích hợp với ông. Ông liên tiếp tạo được nhiều thành tích, khiến ông vừa từ giă Hải Đoàn này, lại tiếp tục Chỉ huy Giang Đoàn khác. Cùng lúc với cuộc chiến bùng lên, Hải Quân bành trướng mau lẹ, ông là vị sĩ quan khóa 8 đeo lon Đại-tá sớm nhất, vượt qua nhiều khóa đàn anh. Chúng tôi có hỏi: “Yếu tố nào đă khiến ông ra gia nhập Hải Quân. Và lúc vào Hải Quân ông có nghĩ rằng, mới ngoài 30 tuổi, ông đă đeo lon tới Quan Năm tàu thủy không… Ông cười và đáp:

“Trong một buổi tối, ngồi chơi tại bến Bạch-Đằng, nh́n những thủy thủ lên xuống chiến hạm, thấy những con tàu xám uy nghi, tôi xúc động và t́m cách vào Hải Quân qua người bạn thân là Đại-tá Nguyễn Ngọc Rắc. Lúc vào trường c̣n đội nón như Hạ-sĩ-quan, vành nón đen bóng, chỉ mong sớm măn khóa để có cái vành vàng vàng trên nón là thích rồi. Ra trường, đơn vị đầu tiên của tôi là HQ330, Hạm-trưởng là Hải-Quân Trung-úy Lê Triệu Đẩu, cũng là Sĩ quan Đại-Đội-trưởng Khóa 8. Lúc ấy lên cấp khó khăn, từ Hạm-trưởng, Hạm-phó, Cơ-khí-trưởng…ai cũng là Trung-úy cả. Tôi cũng chỉ mong đến lúc có 2 vạch trên vai như mọi người thôi. Ai dè cuộc đời đưa đẩy…”

Dù sao cuộc chiến cũ cũng đă nhạt nḥa, có điều ǵ được coi là vui, là đáng nhắc lại. Đại-tá Dơng đáp:

“Quê tôi là Long-An, cùng quê với ông Huỳnh Duy Thiệp. Tôi sinh năm 1936. Qua đây thấp thoáng gần 30 năm. Cuộc đời chẳng c̣n mấy chốc. Tôi cũng mới nghỉ hưu. Tụi nhỏ 6 đứa đều đă nên người, 5 đứa đă có gia đ́nh. Sao mà nhớ lại những ngày tháng cũ, vẫn cứ bồi hồi. Kỷ niệm vui nhất là vào khoảng tháng 4 năm 1964, tôi được ân thưởng một Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng do Đại-tướng Lê Văn Tỵ kư. Đó là kết quả sau cuộc hành quân tại Lương-Ḥa-Thượng, sông Vàm-Cỏ-Đông. Hải Đoàn được tăng phái một Đại Đội Biệt Động Quân. Chỉ-huy-trưởng Hải-đoàn lúc đó là HQ Đại-úy Huỳnh Duy Thiệp. Ông đă ủy nhiệm cho tôi ‘làm ăn’, với câu dặn ḍ: ‘Ê, đ.m. Đây là chuyến thử lửa đầu tiên của mày đó nha mậy’, rồi ông cười hề hề coi như chuyện nhỏ. Tôi cố gắng và thi hành tốt đẹp chuyến hành quân này. Từ đó, ông hoàn toàn tín nhiệm tôi 100%, dù cuộc hành quân trên kết quả rất khiêm nhường: tịch thu 1 CKC và 40 quả lựu đạn. Tôi đi sát ông. Tôi có thể nói rằng cấp bậc Đại-Tá mà tôi có được, một phần không ngỏ là do vị CHT Huỳnh Duy Thiệp tạo nên. Do những kinh nghiệm của ông mà tôi tiếp nhận được, cũng như những tư cách chỉ huy, rất b́nh tĩnh khi đụng trận, nhất là những quyết định bất ngờ, dứt khoát mà chỉ những người có thiên tư về chiến trận mới có được. Những bài học máu xương trong sông tôi đă học được từ ông. Ông đă bắt cái cầu qua sông để tôi tự vạch rừng, làm đường mà tiến. (Phải không anh Thiệp).” Đại-tá Dơng đă nói rất thiết tha với tất cả sự chân thành.

Ngưng một lát rồi ông êm ả nó:

“Đối với người trên tôi đă học được là từ anh Thiệp. Nhưng như chúng ta đều biết, ở trong quân trường, có bài học nào dạy chúng ta tác chiến trong sông đâu. Trên thế giới, nói đến Hải Quân là nói đến những con tàu lớn hoạt động trên các đại dương, nói đến trận Eo Đối-Mă, trận tấn công Trân-Châu-Cảng của Hải Quân Nhựt. Nói đén những luồng nước, những tai ương, bấc trắc của thời tiết… Có chiến trường nào đầy sông rạch như châu thổ Cửu-Long-Giang. Một vựa lúa của miền Nam, một vùng đất śnh lầy chằng chịt những kinh rạch như mạng nhện. Chính nơi này, nói không ngoa, là vùng đất mà suốt cuộc chiến ngày đêm, mùa nắng cũng như mùa mưa, những người lính Hải-quân chúng ta lầm lủi, đối đầu với địch. Chúng ta đă có những chiến công hào hùng, nhưng cũng đầy gian lao khốn khổ. Từ U-Minh, Đồng-Tháp, G̣-Quao, Tuyên-Nhơn, Năm-Căn, Tam-Giác-Sắt.. khắp vùng sông nước mịt mùng đó, chúng ta đă gian khổ đi qua, và không thiếu bạn bè ta đă nằm xuống. Có người đem được xác về. Có người sau một tiếng ḿn bung nước, mất tăm. Những kinh nghiệm máu xương đó, với tôi, tôi đă học được từ những người lính dưới quyền. Nhiều người đă chỉ cho tôi những lắt léo, nguy nan cần phải tránh. Nhiều người mà sự can trường, ḷng dũng cảm khiến tôi phải kính cẩn cúi đầu. Cấp bậc của tôi, tôi đă mang trên vai, như một vinh dự, đồng thời c̣n là một ân nghĩa từ tất cả những ai mà tôi đă có dịp cùng nhau chiến đấu tạo nên.

Nhớ lại, viết ra không thể hết. Một số những gương anh dũng tôi đă ghi lại dưới đây. Trong đó không thiếu những điều gần như huyền bí, lạ lùng, không thể nào giải thích, nhưng hoàn toàn có thực. Bây giờ cuộc chiến đă phai tàn. Tôi xin mượn những ḍng này để tạ ơn những đóng góp của các chiến hữu một thời xa xưa. Cũng xin thắp một tuần hương gửi tới anh linh những ai đă ngă xuống trên vùng sông nước quê nhà.

Cũng xin gởi lời chào thân quư tới tất cả bè bạn áo trắng bốn phương, cũng như c̣n ở nơi quê cũ. Và nếu những tiết lộ trên đây về cuộc chiến, có lọt tới gia đ́nh nạn nhân ở phía bên kia, tôi cũng cầu xin cho anh linh những người đă chết được êm đềm siêu thoát. Các anh, dưới áp lực này, hay lư do kia mà phải lao đầu vào vùng lửa đạn. Các anh chẳng thể nào lùi. C̣n chúng tôi ở miền Nam, chúng tôi cũng đâu có thể làm khác. Định mệnh hay vận nước chẳng may khiến chúng ta gặp nhau nơi trận địa. Chúng ta cùng khốn khổ như nhau. Gần 30 năm đă qua, biết ra th́ hầu như đă trễ. Tôi đă ghi lại những điều trung thực, hầu để thế hệ sau có thêm tài liệu để hiểu thêm về nỗi đau đớn của một cuộc tương tàn mà người Việt Nam dù Nam hay Bắc, đă không làm chủ được. Chúng ta đều có nỗi đau chung.”

Lê Hữu Dơng, kể
Phan Lạc Tiếp, ghi

hoanglan22 12-01-2018 17:51

55 Năm Rồi Mới Gặp!
 
4 Attachment(s)




51 năm sau ngày tử trận, nghi lễ an táng phi công John A. House II cử hành sáng 27-9-2018 tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington.


Thiếu Tướng Edward D. Banta thuộc TQLC/HK, Chủ Toạ buổi lễ



Tác giả Phan Công Tôn và quan tài bạn cũ. Phía sau là Amy, Fran, Eric và Susan
Trước khi viết, tôi nghĩ đến việc đặt cái tên cho bài viết này. Tự dưng trong đầu tôi bật ra lời một bài hát rất quen thuộc của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên:


“Năm năm rồi không gặp.

Từ khi em lấy chồng.

Anh dặm trường mê măi.

Đời chia như nhánh sông…


… Năm năm rồi trở lại.

Một màu tang ngút trời.

Thương người em năm cũ.

Thương goá phụ bên song …


Câu chuyện thật của cặp vợ chồng bạn thân của tôi đă kết thúc đau buồn hơn. Tuy cùng v́ cuộc chiến Việt Nam, nhưng người “góa phụ bên song” trong chuyện thật này là bà vợ của một chiến binh Mỹ, thời góa bụa cũng dài hơn tới... 11 lần, so với 5 năm trong bài “Chuyện T́nh Buồn” kể trên. Do vậy, tựa đề của bài viết này là: “55 năm rồi mới gặp”.

*
Tôi xin tóm tắt nội dung bài “Vùng Trời Quê Bạn”, phần đầu của truyện ngắn: “Năm mươi lăm năm rồi mới gặp”:

Năm 1963 tôi là một Thiếu Uư Thuỷ Quân Lục Chiến, được gởi đi dự Khoá Căn Bản TQLC tại Trường TQLC/Hoa Kỳ ở Quantico, Virginia. Tôi có một anh bạn Mỹ cùng pḥng rất thân tên là John A. House II, bạn bè thường gọi là Jack. Anh ta có một cô bạn gái người Hawaiian gốc Nhật, tên là Amy, một cô giáo Tiểu Học tại tiểu bang Oregon. Sau này, Amy xin chuyển về dạy tại Virginia. Khi Jack và Amy tổ chức đám cưới tại Baltimore, Maryland, tôi là người bạn duy nhất trong Trường được mời tham dự đám cưới và làm Rể Phụ. Chúng tôi trở thành một bộ ba rất thân thiết trong suốt khoá học. Sau khi măn khoá, tôi về nước vào năm 1964, c̣n Jack th́ học thêm một Khoá Phi Hành để trở thành một Phi Công Trực Thăng của TQLC/Hoa Kỳ.

Chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc với nhau qua thư từ và gởi quà cáp cho nhau. Năm 1966 có hai tin vui, Jack được thăng cấp Đại Uư và Amy th́ đang có bầu. Đầu năm 1967 Jack đưa Amy về Hawaii và theo đơn vị sang chiến đấu tại Việt Nam từ tháng 2/1967. Không Đoàn Trực Thăng của Jack đồn trú tại vùng phi trường Phú Bài, phía Đông Nam của thành phố Huế. Thời gian này tôi và Jack vẫn thường xuyên viết thư cho nhau. Hai đứa hẹn nhau, khi nào có phép th́ sẽ cùng về thăm Sài G̣n và lên thăm quê Đà Lạt của tôi.

Nhưng chưa có phép, chưa có dịp đi chơi Sài G̣n và về thăm Đà Lạt như đă hẹn nhau, th́ đùng một cái, trong một phi vụ hành quân chở Toán Trinh Sát vào vùng phía Nam phi trường Phú Bài, trực thăng của Jack đă bị hoả lực pḥng không của Việt Cộng bắn hạ trong ngày 30 tháng 6/1967. Khi đó bên Hawaii, Amy vừa sanh cháu trai Eric mới được 28 ngày.

Sau ngày 30 tháng 4/1975 tôi bị đi tù “cải tạo” gần 10 năm dưới chế độ Cộng Sản. Khi được thả ra, tôi đă vượt biển 3 lần trong hai năm 1985 và 1986 nhưng không thành công. Lần thứ 4 vào tháng Giêng/1987 tôi may mắn vượt thoát và đến được Thái Lan. Tám tháng sau tôi được đi Mỹ và định cư tại tiểu bang Utah từ đó đến bây giờ.

*
Đến năm 1998 tôi bắt đầu viết truyện ngắn. Tác phẩm “Vùng Trời Quê Bạn” về Jack và Amy là truyện ngắn đầu tay của tôi. Đến năm 2012 tôi cho xuất bản Tuyển Tập Truyện Ngắn mang tên: “VÙNG TRỜI QUÊ BẠN”, đây cũng là tên của truyện ngắn đầu tiên trong tuyển tập có 10 truyện ngắn này.

Khi tôi có dịp nói chuyện với một số bạn bè người Mỹ và nói về câu chuyện của Jack và Amy qua truyện ngắn “Vùng Trời Quê Bạn”, họ rất thích truyện này và họ yêu cầu tôi dịch truyện này sang tiếng Anh để họ và gia đ́nh họ được đọc câu chuyện rất hay và cảm động này. Đó là lư do vào năm 2015, tôi dịch truyện ngắn này với tên “Fatal Skies” và gởi hoặc trao tay cho một số đông bạn Mỹ quen biết. Sau khi đọc và qua chuyện tṛ, mọi người đều khen: câu chuyện rất hay và rất cảm động.

Và chỉ có thế!

Cho đến một ngày




Anh Trịnh Văn Muôn, một người bạn thân của chúng tôi tại Tiểu bang Utah, gia đ́nh anh chị tổ chức đón “Giao Thừa Tây” tại nhà trong đêm 31 tháng 12 năm 2017. Anh chị mời vợ chồng tôi đến dự để chung vui với anh chị và tất cả con cháu, gồm khoảng 20 người đều tề tựu về đầy đủ. Đặc biệt tại bữa tiệc này tôi gặp và làm quen với một người Mỹ tên là Kevin Wheeler (xin phép không tiết lộ tên thật). Kevin có người vợ Việt Nam, cô này ở gần nhà cùng quê với anh chị Muôn (Xă Phú Kiết, Huyện Chợ Gạo, Tỉnh Tiền Giang).

Vợ chồng Kevin nhận lời mời của anh chị Muôn và đă lái xe từ New Mexico tới Utah chiều ngày hôm trước. Vợ chồng tôi được sắp xếp ngồi chung bàn cùng vợ chồng Kevin cho nên suốt mấy tiếng đồng hồ, Kevin và tôi đă trao đổi với nhau qua nhiều vấn đề trong đời sống. Kevin cho biết đă phục vụ trong Cơ Quan An Ninh T́nh Báo thuộc Quân Lực Hoa Kỳ và năm 1970 có qua Việt Nam và hoạt động khoảng 4 tháng trong vùng Dak To thuộc tỉnh Kon Tum. Và hơn 20 năm trong đời binh nghiệp, Kevin đă làm việc và đi qua 23 quốc gia khác nhau…

Khi Kevin hỏi tôi: tới Mỹ lần đầu tiên vào năm nào? Tôi có kể chuyện đi học tại Quantico, Virginia vào năm 1963 và có nhắc đến Jack và Amy; câu chuyện dính líu tới bài “Fatal Skies” mà tôi đă dịch sang tiếng Anh hơn 3 năm về trước. Tôi cũng nói cho Kevin biết, từ khi đến Mỹ vào năm 1987 (sau chuyến vượt biển lần thứ 4 đến TháiLan), tôi có gọi về Trường Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Quantico, Virginia hai lần để hỏi tin tức về Amy, nhưng nơi đó không biết ǵ cả. Kevin cho tôi email address và yêu cầu tôi gởi bài Fatal Skies cho Kevin v́ ngày hôm sau vợ chồng Kevin phải lái xe trở về New Mexico.

Hai ngày sau, qua email, tôi gởi bài Fatal Skies (cho Kevin đọc) và bài Vùng Trời Quê Bạn (cho bà xă Kevin đọc). Đợi gần cả tháng, sao không thấy Kevin ư hử ǵ cả, nên bà xă tôi mới gởi một email hỏi thăm vợ chồng Kevin xem có nhận được 2 bài tôi gởi xuống không? Ngày hôm sau (30 tháng 1/2018) tôi nhận được email của Kevin, ông ta phân trần là sau khi nhận và đọc được bài Fatal Skies, ông ta quá cảm động và đă tự nguyện lao vào “làm việc theo chuyên nghiệp” với mục đích là làm sao có thể t́m ra manh mối của Amy, đứa con trai và thân nhân của Jack, nếu có thể. Cũng giống như cả mấy chục ông bạn Mỹ mà tôi đă gởi bài cho họ đọc trước đây, họ chỉ khen: bài hay và cảm động, rồi … “nín khe”! Do đó, đối với Kevin, tôi cũng không dám “gợi ư” ǵ thêm cả! Vậy mà, “trời xui đất khiến” như thế nào đó, lần này tôi đă … “trúng tủ”!

Qua email, Kevin gởi cho tôi một tấm h́nh của Jack, mới xem ảnh, tôi biết đây là … thứ thiệt rồi! Thêm vào đó là tin tức tóm lược phi vụ hành quân của Jack trong ngày 30 tháng 6/1967, Jack tử trận trong ngày hôm đó và hài cốt được t́m thấy hôm 25 tháng 6/2012; tên ba má của Jack cùng năm sanh và năm qua đời, tên hai người em của Jack và tiểu bang họ đang sống. Cuối cùng, cái tin làm tôi “nổi da gà” là số điện thoại và địa chỉ của Amy tại Kailua, Honolulu County, Hawaii!

Trong ngày 30 tháng 1/2018, tôi phải “canh giờ”, v́ Hawaii đi sau Utah 4 tiếng đồng hồ. Tôi gọi Amy hai lần, không ai bắt điện thoại cả, đành chỉ để lại lời nhắn với đầy hồi hộp và lo âu, không biết số phone này có đúng hay không? Măi tới 9 giờ đêm, giờ Utah, Amy gọi lại. Sau khi hai bên hỏi và xác nhận ra nhau, cả hai đầu dây vang lên những tiếng rú vui mừng lẫn những tiếng khóc nức nở, sụt sùi!

Đă hơn 55 năm rồi, bây giờ mới nghe lại giọng nói của nhau qua biết bao kể lể, tâm sự với biết bao thăng trầm, với biết bao kỷ niệm buồn vui của cuộc sống qua hơn nửa thế kỷ!

*

Trong hai tuần lễ đầu tiên sau khi Amy và tôi liên lạc được với nhau, chúng tôi thật là “túi bụi”! Amy và bà xă tôi cũng có nhiều dịp nói chuyện với nhau qua điện thoại, chúng tôi rất cảm động và quư mến Amy khi biết được rằng năm Jack tử trận, Amy là một goá phụ c̣n quá trẻ: mới 26 tuổi, vậy mà Amy không tái giá, sống cu ky như vậy cho đến bây giờ! (Năm nay, 2018, Amy đă trở thành “bà cụ” với 77 cái xuân xanh!). Nuôi con trai Eric ăn học và thành tài. Năm 2004 Eric 37 tuổi mới lấy vợ, tên Susan.

Qua Amy, tôi liên lạc được với Mark House, người em trai út của Jack. Năm 1963, khi Jack và Amy làm đám cưới, tôi là chú rể phụ và Mark chỉ là một cậu bé mới lên10. Tôi và Mark thường liên lạc với nhau qua điện thoại và gởi h́nh ảnh cho nhau qua email. Năm nay, 2018, Mark (65tuổi), vợ là Francis (mọi người thường gọi là Fran), hai vợ chồng có 3 cậu con trai 37, 34 và 30 tuổi. Gia đ́nh Mark/Fran đang sống tại thành phố Pelham, tiểu bang New York.

Amy và Mark cũng cho biết thêm một tin thật là xúc động: Trong h́nh chụp chung với thân nhân ngày đám cưới của Jack và Amy vào năm 1963, có tất cả 11 người, gồm ba má, các chú, các cô, các d́ của Jack; đến bây giờ, 8 người đă qua đời, kể cả cô phù dâu Ingrid Braren. Ba người c̣n sống là chú rể phụ Tôn, cô dâu Amy và Mark House, cậu em út của chú rể!

Cũng qua Amy và Mark, tôi liên lạc được với Robert House (trong nhà gọi là Bob), Bob là em kế của Jack và là anh của Mark. Ngày Jack và Amy cưới nhau (17 tháng 8 năm 1963) Bob không về dự đám cưới được v́ đang là chuyên viên điện tử trên chiến hạm chống tàu ngầm USS Bennington đang hoạt động trong vùng Biển Hoa Nam (the South China Sea). Bob đă 76 tuổi (năm 2018), vợ là Judy, 72 tuổi; hai vợ chồng có cô con gái lớn 42 tuổi, đang sống ở San Diego và cậu con trai 35 tuổi c̣n độc thân, có nhà riêng cách nhà cha mẹ khoảng 15 dặm cùng thành phố Meridian, tiểu bang Idaho.

Cũng qua Amy và Mark, tôi rất may mắn và thích thú được làm quen với cựu Trung Tá Mark D. Mariska. Ông thuộc Cơ Quan An Ninh Lục Quân Hoa Kỳ (The U.S. Army Security Agency) với nhiệm vụ cung cấp các tín hiệu và các tin tức t́nh báo điện tử cho các đơn vị liên hệ. Thời gian ở Việt Nam, ông đươc chỉ định về làm việc chung với Sư Đoàn 3 Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại phi trường Phú Bài từ tháng Giêng cho đến tháng 12/1967, lúc đó Ông mang cấp bậc Đại Uư. V́ đồn trú chung, nên từ tháng 2 đến tháng 6/1967 Ông và Jack trở thành hai người bạn chí thân. Sau thời gian công tác trở về căn cứ Phú Bài, họ thường bù khú với nhau tại các Bar của đơn vị qua các tiệc tùng và cốc rượu. Nhân dịp sinh nhật của Megan, con gái của Mariska (ngày 4 tháng 5 năm 1967) và của Eric, con trai của Jack (ngày 2 tháng 6 năm 1967) họ làm tiệc ăn mừng chung với nhau …

Từ năm 1972, Mariska không c̣n đảm nhiệm các chức vụ trong Lục Quân và chuyển qua phục vụ Vệ Binh Quốc Gia và Trừ Bị trong 19 năm. Ông giải ngũ vào tháng 8/1991 sau 29 năm phục vụ.

Tôi và Mariska thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại và email. Vào ngày 26 tháng 2/2018 tôi nhận được một tập tài liệu dày 120 trang cỡ 21.5 x 28 cm do Mariska gởi đến từ thành phố Stamford thuộc tiểu bang Connecticut (nơi ông và gia đ́nh đang cư ngụ).

Trong tập tài liệu này ông đă viết, sưu tập và đúc kết những tài liệu thật là cụ thể, chính xác do các nhân vật có liên quan đến Jack qua quân vụ, những quân nhân thuộc Tiểu Đội Trinh Sát và viên Phi Công Phụ trong cùng chuyến bay với Jack, nhưng c̣n sống sót. Họ đă viết các chi tiết trong “chuyến bay định mệnh” đó! Ngoài ra, ông có thêm vào trong tập tài liệu này bài “Fatal Skies” (bài “Vùng Trời Quê Bạn” do tôi viết lại bằng Anh ngữ).

Trong thời gian khoảng 8 tháng, từ tháng 2 đến tháng 9/2018, qua Amy (cùng con trai Eric và cô dâu Susan), với hai em của Jack (Robert House & vợ Judy; Mark House & vợ Fran), với cựu Trung Tá Mark D. Mariska & vợ Kathy … Chúng tôi thường xuyên trao đổi tin tức với nhau qua đời sống hiện tại và những tin tức cập nhật hoá liên quan đến cái chết của Jack và 4 đồng đội cùng tử nạn trong ngày bị rớt trực thăng.

Ngoài Jack là Đại Uư Phi Công Trưởng, c̣n có thêm 4 đồng đội:

Hạ Sĩ I Trinh Sát Glyn L. Runnels,

Hạ Sĩ I Trinh Sát Merlin R. Allen,

Hạ Sĩ Trinh Sát John D. Killen, III, 4. Y tá Quân Y thuộc Hải Quân Michael B. Judd.


Cả 5 bộ hài cốt này được t́m thấy ngày 25 tháng 6 năm 2012, tức là sau 45 năm, qua các toán Hợp Tác Chung của Hoa Kỳ và Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đi t́m “Quân Nhân Mỹ bị Tử Trận/Mất Tích tại Việt Nam.

Sau khi được thử nghiệm và kiểm chứng qua DPAA (The Defense POW/MIA Accounting Agency) và Armed Forces Medical Examiner System, cả 5 bộ hài cốt này được đưa về “The U.S. Army Central Identification Labatory” (Pḥng Thí Nghiệm thuộc Cơ Quan Nhận Diện Trung Ương của Lục Quân Hoa Kỳ) tại tiểu bang Hawaii.

Đến năm 2013, hai bộ hài cốt của Allen và Judd được giao lại cho hai gia đ́nh liên hệ để được mai táng theo nghi thức vinh danh của Quân Đội.


Trong quan tài đặt tại Hawaii chỉ c̣n lại 3 bộ hài cốt của: Jack (tức Đại Uư John A. House II), Hạ Sĩ I Glyn L. Runnels Jr. và Hạ Sĩ John D. Killen III. (Chỉ có Jack là có thân nhân đến thử nghiệm và kiểm chứng, c̣n hai đồng đội kia không c̣n thân nhân hoặc gia đ́nh đến kiểm chứng nên Bộ Quốc Pḥng và Lực Lượng Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ quyết định: cả ba hài cốt này được nằm chung trong một quan tài và sẽ được mai táng chung cùng một lúc).

Mấy tháng đầu năm 2018, Amy, các em của Jack và cựu Trung Tá Mariska cho tôi biết ngày làm lễ mai táng ba bộ hài cốt khi th́ tháng 6, rồi tháng 7, rồi tháng 8 … Nhưng chính xác là vào ngày 18 tháng 6/2018 tôi mới nhận được email của các người liên hệ nói trên thông báo: đă được Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ chính thức xác nhận ngày làm lễ mai táng hài cốt của Jack và hai đồng đội đúng vào ngày thứ Năm, 27 tháng 9 năm 2018 tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington lúc 9 giờ sáng.

*

Ngày chúng tôi hồi hộp, xúc động và trông chờ… đă đến!

Thân nhân, bạn bè thuộc các gia đ́nh liên hệ từ các tiểu bang khác nhau như Hawaii, Utah, Idaho, Connecticut và New York đă tề tựu về đầy đủ tại Washington, D.C. từ ngày 25 cho đến 30 tháng 9/2018.

Theo chương tŕnh, từ lúc 7 giờ sáng ngày 27 tháng 9/2018, mọi người tập trung tại tiền sảnh của khách sạn “Sheraton Pentagon City Hotel”.

Đến 8:30 AM rời khách sạn Sheraton. Gần 80 thân nhân và bạn bè được hai xe buưt do Ban Tổ Chức Tang Lễ cung cấp, chở đến khu vực hành lễ ở nghĩa trang Arlington (thời gian lái xe khoảng 20 phút).

Khi đoàn xe đang chạy trong khu nghĩa trang Arlington rộng lớn, hai bên là hàng hàng lớp lớp các mộ bia trắng xoá trải dài mút mắt, có một lúc đoàn xe tạm ngừng lại trước Nhà Quàn của Nghĩa Trang, để các thân nhân trực hệ của các quân nhân quá cố trong lễ mai táng này, xuống xe, tập trung lại để được Giám Đốc Nghĩa Trang Arlington chia sẻ niềm xúc động trong tang lễ và gởi đến tận tay mỗi người một cuốn sách nói về lịch sử và sinh hoạt của nghĩa trang Arlington.

Khoảng 10 phút sau, đoàn xe tiếp tục chạy đến một địa điểm có chiếc xe Limosine chở quan tài đang đợi sẵn. Sáu quân nhân TQLC/HK chuyển quan tài từ xe Limosine qua xe thổ mộ, xe này có 6 ngựa kéo và 3 quân nhân TQLC/HK ngồi trên lưng ngựa điều khiển. Lúc này, theo đúng chương tŕnh, có 2 chiếc máy bay cánh quạt của TQLC/HK bay qua bầu trời trên vị trí đang hành lễ chuyển quan tài.

Tiếp theo, đoàn Quân Nhạc của TQLC/HK với hơn 20 nhạc công trong quân phục áo đỏ, quần trắng và một Trung Đội Dàn Chào có súng với hơn 34 quân nhân TQLC trong quân phục đại lễ: nón casquette trắng, áo đen, quần trắng. Hai toán này rời sân cỏ đang đứng để chuyển đến vị trí trước xe thổ mộ (đoàn Quân Nhạc đi đầu).

Đoàn quân dự tang lễ bắt đầu tiến bước, đi đầu là các Sĩ Quan hướng dẫn, sau đó là toán thủ Quốc Quân Kỳ, đoàn Quân nhạc, Trung Đội Chào Kính, các Sĩ Quan Quân Lễ đi trước xe thổ mộ, 6 quân nhân TQLC bước theo sau xe thổ mộ và sau cùng là đoàn xe của phái đoàn dự tang lễ.

Hôm nay bầu trời D.C. u ám và khi đoàn xe đi gần tới vị trí hành lễ, trời bắt đầu đổ mưa, cơn mưa nhẹ chớm Thu của miền Đông nước Mỹ. Tôi h́nh dung những giọt mưa đang thay cho nước mắt, khóc cho cái buồn của tang lễ đầy xúc động này!

Tại vị trí hành lễ, một cái lều đă được dựng lên, trong lều chỉ có hai hàng ghế xếp, dành cho một số thân nhân trực hệ của những người quá cố. Phía trước lều, bên trái, có đặt hai ṿng hoa tang của Không Đoàn Trực Thăng HMM 265 và của Lực Lượng Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ; bên dưới là 5 bảng trắng bọc plastic đen được dựng đứng trên thảm cỏ, mỗi bảng có ghi tên người quá cố với cấp bậc, đơn vị, ngày tử trận và ngày mai táng.

(Nước Mỹ quả thật xứng đáng là một nước văn minh và dân chủ đáng ngưỡng mộ! Các quân nhân có công trận với tổ quốc, không phân biệt cấp bậc, đều được ân thưởng qua những nghi thức trang trọng như nhau).

Sáu quân nhân TQLC/HK nhịp nhàng khiêng quan tài từ xe thổ mộ vào đặt trong lều trước hai hàng ghế.

Amy ngồi đối diện với quan tài nơi hàng ghế đầu, b́a bên phải, kế đó là Eric.

Nh́n quan tài của Jack. Rồi nh́n Amy với ánh mắt đăm chiêu và thật buồn. Tôi liên tưởng đến cảnh trở về của Jack qua bài hát “Kỷ Vật Cho Em”, thơ Linh Phương do Phạm Duy phổ nhạc:

“Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại

Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về.

… Anh trở về, anh trở về, hàng cây nghiêng ngả

Anh trở về, có khi là ḥm gỗ cài hoa …”

Amy ơi! Jack đang trở về đó! Cái hẹn “mai mốt anh về” của Jack sao dài hun hút đến như vậy?!

Jack đang trở về với người vợ hiền, chung thuỷ qua hơn 51năm trời chờ đợi.

Jack đang trở về với đứa con trai duy nhất mà Jack chưa hề gặp mặt.

Jack ơi! Hôm nay có đông đủ thân nhân và bạn bè đến đưa tiễn bạn.

Có lẻ bạn đang vui lắm, có phải không?

Mưa ngừng rơi trước khi nghi lễ chính thức bắt đầu!

Thiếu Tướng (2 sao) Edward D. Banta thuộc TQLC/HK, đại diện cho Tư Lệnh TQLC/HK làm Chủ Toạ buổi lễ. Đại Uư Hải Quân Hoa Kỳ/Kiêm Giáo Sĩ, điều hành các nghi thức tôn giáo.

Sau các nghi thức hành lễ như vinh danh, lễ bắn 21 phát súng và kèn truy điệu cho các chiến sĩ đă hy sinh. Cuối cùng là lễ Thu Kỳ đang phủ trên quan tài.

Sau khi thu kỳ xong, lá Quốc Kỳ Hoa Kỳ đă được gấp lại thành h́nh tam giác, một vị Sĩ Quan trao lá cờ này cho Thiếu Tướng Chủ Toạ. Khi bước vào lều, Thiếu Tướng Edward D. Banta tới trước mặt Amy, quỳ xuống trên đầu gối phải và trân trọng trao lá Quốc Kỳ cho Amy. Sau đó, một vị Sĩ Quan khác cũng trao một lá Quốc Kỳ khác cho một phụ nữ, chị của Trinh Sát Viên Killen. Ngoài ra, các thân nhân trực hệ của những tử sĩ này, mỗi người c̣n được nhận một bản (plaque) cám ơn có chử kư của Đại Tướng Robert B. Neller, Tư Lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

Sau phần nghi lễ, mọi người luân phiên nhau lên đứng cạnh quan tài để cầu nguyện và chia tay với các tử sĩ.

[Mặc dù trong quan tài chỉ c̣n hài cốt của 3 chiến sĩ: John A. House II, Glyn L. Runnels Jr. và John D. Killen III, tuy nhiên, theo nghi thức, vẫn có bảng tên của cả 5 chiến sĩ tại địa điểm hành lễ và họ cùng được làm lễ vinh danh và truy điệu chung với nhau].

Sau đó Ban Tổ Chức đă hướng dẫn một số thân nhân đi thăm vị trí sẽ đào huyệt chôn quan tài, dự trù sẽ chôn vào chiều nay sau khi mọi người đă ra về. Tôi cũng đi theo tới xem vị trí mộ phần, cách vị trí hành lễ khoảng 100 thước, và ghi nhận được, đây là Mộ phần số 11865 trong Khu vực 60.

Khi đang bước trên băi cỏ xanh mướt để trở lại vị trí hành lễ, tôi chợt nhớ lại sáng nay tại khách sạn Sheraton. Điều làm tôi háo hức qua trông chờ, đó là dịp tôi được gặp lại Amy và Mark House sau hơn 55 năm xa cách! Không có ǵ so sánh được với niềm vui và nỗi xúc động trong dịp tái ngộ đầy kỳ thú này!

Cũng trong dịp này, lần đầu tiên vợ tôi mới được giáp mặt với Amy và Mark House. Và vợ chồng tôi, cũng là lần đầu tiên mới được gặp Fran, vợ Mark House và ba cậu con trai; Bob House và vợ Judy; và cựu Trung Tá Mark Mariska, dù đă quen biết nhau qua email và điện thoại từ hơn 8 tháng nay.

Tại tiền sảnh của khách sạn Sheraton, chúng tôi có hơn một tiếng rưởi đồng hồ quây quần bên nhau qua những cái bắt tay, những lần ôm vồ lấy nhau, những câu hỏi ríu rít, những cái nh́n cho nhau diễn đạt niềm vui và nỗi xúc động. Và đặc biệt nhất là với những giọt nước mắt chan chứa buồn, vui với tràn đầy t́nh thương mến …

Sau những vồn vă, rộn ràng với người thân của Jack, h́nh ảnh Jack như hiện về để cùng hoà nhập…

Jack tử trận vào ngày 30 tháng 6/1967.

Hài cốt được t́m thấy ngày 25 tháng 6/2012, tức là sau 45 năm.

Quan tài được mai táng ngày 27 tháng 9/2018, tức là 51 năm sau ngày tử trận.

Jack qua đời, để lại một vợ, Amy và một con trai, Eric. Cháu Eric sanh ngày 2 tháng 6/1967, chỉ mới được 28-ngày-tuổi, ngày bố Jack qua đời!



Jack ơi! Dù có buồn đau, có tiếc thương, có luyến nhớ mỗi khi nghĩ đến bạn nhưng với kinh nghiệm của đời ḿnh qua gần 80 năm, tôi dường như bất lực và đành phải tuân theo định mệnh mà Thượng Đế đă ban cho, đă tạo ra, đă sắp xếp cho mỗi con người của chúng ta trong cơi trần thế này!

Chúng ta, và ngay cả với những người chống tiêu cực hoặc chống yếm thế, cũng không làm được ǵ trong việc muốn xoay ngược hoặc đổi thay sự sống hay cái chết cho đời ḿnh. Và cuối cùng, mọi người đành phải “nhắm mắt đưa chân” đi theo con đường số mệnh đă được Thượng Đế an bài!

Nghĩ đến điều này, tôi cảm thấy nguôi ngoai hơn, trút bỏ bớt được gánh nặng đau buồn v́ bạn, v́ mọi người thân trong gia đ́nh bạn và những bạn bè gần xa của bạn.

Từ tiểu bang Utah xa xôi, vợ chồng tôi về đây tham dự lễ an táng của bạn tại nghĩa trang Arlington này. Suốt trong buổi lễ, h́nh ảnh bạn hiện về và phủ ngập kư ức của tôi. Tôi nói chuyện với bạn và cầu nguyện cho bạn. Lúc đặt bàn tay lên quan tài của bạn để chia tay, tôi đă th́ thầm:

Jack ơi! Bạn chưa chết! Bạn vẫn c̣n đó. Bạn vẫn lái trực thăng. Bạn vẫn tiếp tục bay.

Bạn đang bay qua trái tim của Amy, của Eric và vợ cháu, của các em Bob, Mark House và vợ con họ; của thân nhân và bạn bè (kể cả Mark Mariska).

Mọi người đang nghĩ đến bạn với thật nhiều tiếc thương và nhung nhớ.

Và đặc biệt, trong ḷng người bạn chí thân và đầy t́nh nghĩa này qua hơn 55 năm… bạn măi măi vẫn c̣n sống.

Và măi măi vẫn c̣n bay nơi vừng hồng rực sáng trong trái tim tôi!

Phan Công Tôn



PS : T́nh chiến hữu khác màu da chủng tộc, đọc xong thấy ngậm ngùi

hoanglan22 12-02-2018 05:14

5 Attachment(s)
Quote:

Originally Posted by florida80 (Post 3551422)
Chú HL ơi

Chú có ảnh ngày xưa đi lính . Cho N.Ư xem với nghen
Chúc cuối tuần vui . Làm biếng đọc mấy trang lịch sử dài của chú . Chỉ thích xem ảnh lính thôi.

Nếu có thời gian . chú có xem video diễn hành ngày quân lực Việt Nam Cộng Hoà
có một vài nữ quân nhân diễn hành . Một người cầm cờ đi đầu là d́ ruột của N.Y

Nếu chưa xem th́ N.Y t́m video sẽ post ....

xem tam in youtube. Not clear ..

https://youtu.be/GCANWgxlnTc

Chú cho cháu xem một tí về các h́nh này trong khóa của chú . Không có chú ở h́nh này đâu nhe ..đưa lên là bị chém th́ chú không gặp cháu đâu

:hafppy::hafppy:











Trường Bộ-Binh Thủ-Đức có nhiều Tiểu-Đoàn Khóa-Sinh, TĐ1: Khăn-Đỏ, 2: Khăn-Tím, 3: Khăn-Xanh, 4: Khăn-Vàng ..., mỗi Khóa vào riêng 1 Tiểu-Đoàn. K9/73 là Tiểu-Đoàn 4, gồm 5 Đại-Đội : 41, 42, 43, 44, 45

Hôm rồi chú gơ 4 đại đội là lộn , Thường là Tiểu đoàn có 4 đại đội nhưng khóa học lại khác ( già hay lẩm cẩm cháu đừng trách ):hafppy::hafppy::ha fppy:

cha12 ba 12-02-2018 05:43

Quote:

Trường Bộ-Binh Thủ-Đức có nhiều Tiểu-Đoàn Khóa-Sinh, TĐ1: Khăn-Đỏ, 2: Khăn-Tím, 3: Khăn-Xanh, 4: Khăn-Vàng ..., mỗi Khóa vào riêng 1 Tiểu-Đoàn. K9/73 là Tiểu-Đoàn 4, gồm 5 Đại-Đội : 41, 42, 43, 44, 45
:handshake::handshak e:
có lẽ Khóa các bạn đông cùng một Khóa mà nhiểu Tiểu Đoàn mới mang khăn màu đễ phân biệt, lúc chúng tôi học từng Khóa từng Tiểu Đoàn chỉ khác bảng tên chứ không mang khăn màu.
Góp chút ư kiến thôi!

hoanglan22 12-02-2018 06:45

Quote:

Originally Posted by cha12 ba (Post 3552280)
:handshake::handshak e:
có lẽ Khóa các bạn đông cùng một Khóa mà nhiểu Tiểu Đoàn mới mang khăn màu đễ phân biệt, lúc chúng tôi học từng Khóa từng Tiểu Đoàn chỉ khác bảng tên chứ không mang khăn màu.
Góp chút ư kiến thôi!

:thankyou::thankyou: handshake::handshake :


All times are GMT. The time now is 02:17.
Page 4 of 20
123 4 56714 Last »

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.39584 seconds with 8 queries