VietBF
Page 13 of 20
« First 3101112 13 141516 Last »

VietBF (https://www.vietbf.com/forum/index.php)
-   Member News | Tin thành viên (https://www.vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=189)
-   -   Trang của lính (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1202507)

hoanglan22 08-23-2019 02:34

CON GÀ MÁI .
 
1 Attachment(s)


Tôi nhón chân lên cho cao , cố nhìn xuyên qua vai các bạn tù đứng trước mặt , liếc xem tấm bảng ghi tên thân nhân lên thăm . Tôi lẩm bẩm trong miệng :" Hôm nay là 23 Tết rồi , thế nào Má và Hạnh cũng lên ". Các bạn kế bên lao xao bàn tán , người tươi rói ra mặt , kẻ mặt mày ủ dột . Tôi đưa mắt lướt trên tấm bảng , từ trên xuống dưới . À , tên mình đây rồi , kế bên có chua thêm : người thăm , Mẹ và em gái .

Nhà thăm nuôi hôm nay thật đông vì là ngày 23 tết , ngày đưa ông Táo về trời . Các bà , các cô cố gắng đi thăm chồng con rồi còn phải về nhà đưa ông Táo chứ . Chúng tôi, khoảng 10 người được đưa đến một cái bàn dài có thân nhân ngồi sẳn một bên . Một tên " chèo " ngồi ở bàn giấy nhỏ ở cuối phòng để quan sát chúng tôi . Chúng tôi được liệt vào hạng "học tập" kém nên phải có người " chăm sóc " . Xung quanh nhà , la liệt những người " học tập tốt " được ra nhà thăm nuôi trước . Họ trải ny lông xuống đất , ngồi nói chuyện , ăn uống với vợ con trông rất hạnh phúc . Những người nầy được hưởng "chế độ" thăm nuôi một ngày , từ sáng đến chiều , được tự do đi lại . Còn những người ngồi ở bàn như chúng tôi , chỉ được ngồi một chổ và chỉ được gặp người nhà 2 tiếng . Bọn Việt Cộng thâm lắm , dùng chế độ phân biệt để làm đòn bẩy cho việc gọi là "cải tạo" cuả bọn chúng .

Tôi bước vào bàn , ngồi trước mặt mẹ và em tôi . Cảm thấy có một gương mặt quen thuộc . Tôi quay lại , à NCP , một sĩ quan trẻ thuộc một binh chủng nổi tiếng . Anh nhìn thấy tôi nhưng bẻn lẻn tránh ánh mắt của tôi . Gương mặt anh , tổng hợp một tình cảm pha trộn giữa nổi vui sướng và sự thẹn thùng . Tôi tế nhị làm như không thấy anh . Anh đang tiến vào phòng " hạnh phúc " . Ở trong tù , chúng tôi kháo với nhau như vậy . Đó là nơi xum họp với vợ của những người được chấm là cải tạo tốt , cải tạo tiến bộ . Thời gian được tưởng thưởng là 24 giờ , có thể là 48 hay 72 giờ tùy theo mức độ cải tạo. Nhiều người không giữ được tiết tháo , sống theo bản năng trong đó có một viên chức cao cấp từng là Tổng Trưởng , đã thụ hưởng những ân sủng nầy . Anh NCP là một sĩ quan trẻ , rất trẻ mà đã mang cấp bậc thiếu tá . Sau khi bị cùm một tháng , tôi bị chuyển vào chung đội với anh . Anh là người đầu tiên chào đón và giúp tôi mang hành lý vào . Anh sởi lởi nói chuyện vui vẽ . Tôi mến anh vì thấy anh còn trẻ mà cứng đầu và ... nghèo , không ai thăm nuôi , nghe nói vợ bỏ . Anh thường tâm sự với tôi , bọn VC dùng bẩy đàn bà ( ý anh nói vợ con ) để đánh sụp tinh thần sĩ quan QLVNCH và để mua chuộc một vài người làm ăng-ten . Anh nhấn mạnh với tôi : đi tù là mất tất cả chỉ còn lại danh dự . Tôi liếc về hướng anh , chỉ thấy tấm lưng anh đang khuất sau cánh cửa . Không biết tại sao vợ anh đổi bến , đổi lòng lên thăm anh . Tôi lắc đầu , chỉ biết thương cảm anh hơn là chê trách .

Tiếng mẹ tôi đều đều , ngắt quảng , có vẻ tức tưởi . Bà nói :" Người ta đi cải tạo 3 năm rồi về , rồi vượt biên rồi gởi quà về nuôi gia đình . Còn con , 5 năm, rồi 7 năm ,bây giờ 10 năm vẫn không thấy gì hết . Thằng công an khu vực đến nhà thăm hỏi , nói con " học tập " không tốt . Bộ con muốn ở luôn trong nầy sao ? Phải về lập gia đình , có vợ có con như người ta chớ ". Rồi bà sẳng giọng :" Tao biết mầy cứng đầu lắm . Tao nuôi mầy từ nhỏ tới lớn , tao biết mầy to gan . Đầu có 2 xoáy mà ". Tôi ngồi im thin thít , không dám hó hé . Tôi không dám tiết lộ là tôi đã trốn tù hai lần , còn sống là may lắm .

Mắt mẹ tôi hơi đỏ , giọng nói bà nhẹ như cơn gió thoảng : " Má già yếu rồi , mỗi lần đi thăm con , ngồi cả ngày , Má mệt lắm . Thức dậy từ 4 giờ sáng đến 10 giờ tối mới về tới nhà . Lần sau Hạnh sẽ đi thăm con , có thể 3 tháng , có thể 4 tháng , có thể lâu hơn nữa . Con rán dành dụm thức ăn Má cho . Anh mầy mất rồi , Má làm gì có tiền . Má già rồi ...." Tiếng già của bà nhẹ nhàng , kéo dài như tiếng chuông chùa ngân mãi bên tai tôi . Tâm tư tôi chùng xuống . Tình non , tình nước xa lơ , xa lắc đâu không thấy . Tình cảm mẹ già , sờ sờ trước mặt vẫn không nắm bắt được .

Hạnh thấy không khí có vẽ buồn , cô ấy xen vào :" Em có đem cho anh mấy quyển sách ". Hạnh biết tôi mê đọc sách nên nhập đề nói trước , rồi cô tiếp :"Chị Chi định lên thăm anh lần nầy nhưng Má không cho . Lần sau chỉ sẽ đi với em ". Thế là tôi bắt qua hỏi thăm người quen , người nầy , người nọ . Mười năm rồi , vật đổi sao dời . Một xã hội bình thường còn biến đổi , huống chi đây là xã hội bị bọn VC càn qua , quét lại . Bạn bè , người vượt biên , kẻ bỏ xác ngoài khơi , kẻ lên rừng vùng kinh tế mới . Bạn gái , người thì mất tăm hơi , kẻ ở lại tay bồng tay mang . Biết bao nhiêu chuyện mà thăm hỏi . Lật bật gần tới giờ , tên công an ra dấu còn 15 phút . Mẹ tôi nói :" Kỳ nầy , ngoài đồ ăn thường lệ , Má cho thêm một con gà giò để con ăn Tết . Thôi Má về , con rán giữ gìn sức khỏe ". Tôi theo tên công an về lại trại giam . Tôi không dám ngoáy cổ nhìn lại vì tôi biết Mẹ và em tôi đang nhìn theo tôi . Bước chân tôi bỗng nhẹ tênh . Hình như có tiếng nhạc đâu đây :
"Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình , rạt rào .
Tình mẹ như dòng suối hiền , ngạt ngào ....."

Vào trại giam , tôi nằm vật ra sàn nằm , bỏ mặc đống quà một bên . Tôi nằm bất động , cảm thấy bềnh bồng , chơi vơi ở một thế giới khác . Bỗng nhiên đôi mắt tôi đập vào túi cót nhỏ . Nó động đậy và nhúc nhích . Tôi sực nhớ con gà Mẹ cho , kẻo nó chết ngộp . Tôi choàng dậy , mở túi cót ra , ôm con gà nhỏ . Nó vùng vẩy yếu ớt , miệng thè luởi ra , chứng tỏ là khát nước và mệt lắm . Tôi kiếm sợi dây nhỏ , cột vào chân nó rồi đem ra sân cột vào hàng rào dây kẻm gai. Tôi đem cho nó một chén nước . Con gà đứng dậy không được vì bị cột hai chân cả ngày . Hai cánh chưa mọc lông đầy đủ , quạt quạt xuống đất , nó cố truờn tới , chúc mỏ xuống chén nước rồi ngước lên , làm vài lần , gương mặt tái xanh bắt đầu hồng trở lại . Tôi đem ra một ít gạo rải trước mặt nó. Con gà mái tơ ngơ ngác nhìn tôi không buồn ăn . Tôi nói :" Thôi nằm đó nghĩ mệt nha ".

Trại tù VC cấm nuôi thú vật , kỷ luật rất là nghiêm ngặt nhưng mấy ngày Tết , được nới lỏng . Buổi chiều , tôi bỏ con gà vào túi cót lại , đem vào kho . Đề phòng chuột tấn công , tôi treo túi cót lên cao . Buổi sáng trước khi đi lao động , tôi đem con gà buộc vào hàng rào dây kẻm gai . Con gà yếu sức , đứng chưa vửng . Tôi để cho nó một chén nước và ít gạo . Buổi chiều về thăm , con gà xơ xác , ủ rủ đứng im , nhắm mắt hình như ngủ . Một vài bạn tù đi qua nói :" Con gà bị bịnh , sắp chết rồi làm thịt đi ".
Thật là nan giải . làm sao đây ? Tôi nhớ lại lúc còn nhỏ , khoảng mười lăm , mười sáu tuổi , nhà có giỗ , mẹ và bà chị tất bật nấu ăn . Bà già sai tôi cắt cổ gà . Tôi lỉnh kỉnh rồi trốn mất . Đến khi đi tù , tôi vẫn không biết làm gà như thế nào . Vả lại con gà là quà mẹ cho , tôi muốn giữ lấy . Thôi kệ ,tới đâu hay tới đó . Tôi lấy viên thuốc trụ sinh để dành , tetracycline , bẻ làm tư , bóp nhuyển rồi hòa một tí nước . Tôi bóp mỏ gà cho hả ra , lấy muổng cho nó uống từng hớp một . Sau đó , lấy cơm vo từng viên rồi bỏ vào miệng nó . Tôi làm y tá thú y bất đắc dĩ . Xong rồi , tôi bỏ con gà vào túi cót , treo lên ở nhà kho . Tôi lẩm bẩm :" Rán mà sống nghe ".

Sáng hôm sau , việc đầu tiên là tôi mở túi cót xem con gà như thế nào , may mắn là nó vẫn còn cử động . Tôi lại trổ tài trị bịnh gà , cho uống thuốc và ăn cơm . Tôi lại buộc vào hàng rào kẻm gai rồi đi lao động . Buổi chiều đi làm về , vội vàng chạy tất bật đến xem con gà . Tôi vui mừng khi thấy nó vửng vàng đứng trên hai chân . Tôi thưởng cho nó vài con cào cào , châu chấu bắt được . Con gà nuốt ngon lành . Tôi nghĩ đến một cái chuồng xứng đáng cho nó . . Tôi thấy một anh bạn có một cái thùng ghép bằng các thanh gỗ , đóng xen kẻ có chừa các khe hở . Tôi mặc cả với anh bằng hai gói mì . Con gà bây giờ có một cái chuồng khang trang , sạch sẽ .
Mỗi ngày, sáng sớm tôi đem cột nó ở hàng rào, chiều tối bỏ vào chuồng đem vào kho . Trong lúc đi lao động , tôi cố bắt cào cào , châu chấu đem về cho nó ăn . Con gà bắt đầu quen tôi , thấy tôi về , nó mừng , tôi rờ nó , nó không sợ hãi . Con gà mái bắt đầu mọc lông ra đầy đủ , mập mạp , hồng hào, giống như cô gái đến tuổi trăng tròn. Nhiều anh bạn mặc cả để mua , tôi chỉ cười cười . Độ nửa tháng , tôi thả con gà đi ăn tự do . Buổi chiều tôi về , nó chạy đến mừng để được tưởng thưởng cào cào , châu chấu . Chiều tối , tôi đặt cái chuồng ở gần, nó tự động vào , tôi đem cất vào kho .

Một tháng sau , con gà lớn lên to đẹp , mặt hồng hào , đỏ ửng như một thiếu nữ xuân thì , tôi vẫn nuôi bình thường , xem như con thú cưng ở nhà . Không ai bắt được con gà , chỉ trừ tôi , gọi túc , túc là nó chạy đến . Một buổi sáng , đem chuồng ra ngoài , tôi thấy một trứng gà ở bên trong , tôi biết là con gà mái đẻ . Tôi để ý chu kỳ , con gà mái đẻ liên tục 15 ngày rổi nghĩ 20 ngày sau đó lại tiếp tục chu kỳ kế tiếp . Nhờ vậy mà tôi có thực phẩm bồi dưởng .

Anh Nguyễn bá Quát , dân biểu Tuy Hòa , làm trực sinh , danh từ VC đặt cho những người không đi lao động mà ở nhà lo quét dọn phòng ốc . Anh Quát nói với tôi :" Phước, cho con gà ấp đi . Tôi thấy có trống đó ". Tôi thấy cũng vui vui , để dành 5 trứng bỏ vào ổ , lót bằng quần áo cũ rồi đem gà mái đến ấp . Tạo hóa thật diệu kỳ . Bản năng làm mẹ của con gà mái bật dậy , nó say sưa nằm ấp cả ngày , quên ăn , quên uống . Tôi phải đem nó ra ngoài cho ăn uống rồi nó cũng chạy vào nằm ấp tiếp . Vài ngày sau , nở được hai con gà con .

Ngắm gà mẹ dẩn con đi ăn cũng là thú vui của tôi lúc đó . Gà mẹ nuôi con rất kỷ , kiếm được thức ăn gì cũng gọi con đến. Trới mưa xòe cánh che chở cho con , hai gà con ấm áp, ríu rít dưới cánh mẹ thấy mà thương . Mèo đến gần nó trở nên hung dử như muốn tấn công . Riêng tôi , bắt gà rất dể dàng , tôi kêu " túc túc " là gà mẹ chạy tới , tôi đưa tay nâng bầu diều của nó lên rồi bỏ vào chuồng , các gà con chạy theo . Hai gà con lớn dần , nhưng bộ lông đen tuyền , khác hẳn với lông màu vàng của mẹ .
Ba con gà càng lớn , càng đòi hỏi thực phẩm nhiều hơn . Làm sao tôi có lúa gạo mà nuôi bọn chúng ? Ban ngày , tôi thả gà đi rong . buổi chiều đi làm về , tôi bồi dưởng chúng bằng vài con cào cào , châu chấu . Mùa hè đến , cỏ cây ngoài đồng xơ xác , sâu bọ cạn kiệt , tôi đâm lo . Tình cờ thấy một anh bạn bắt được cắc kè , rắn mối , tôi bắt chước thử . Chúng tôi mỗi lần đi lao động ra đồng , di chuyển vài cây số . Tiếng chân xào xạc trên đường làm mấy con cắc kè , rắn mối sợ hãi bò lên cây lớn mọc ở dọc đường . Đặc biệt là bọn chúng chỉ bò lưng chừng thân cây rồi ngừng lại nhìn chúng tôi . Một anh bạn lí lắc , đi vòng qua thân cây phía bên kia để con vật không thấy, rồi lấy tay choàng qua, chụp đúng ngay chổ con vật đang bám vào thân cây . Cái hay là chụp đúng vị trí con vật . Anh bạn hí hửng bỏ vào hộp , không biết để làm gì . Tôi bắt chước thử , lần đầu tiên ra tay , hơi lo , nhưng cũng trúng đích . Mấy lần sau , quen tay nghề , không trật lần nào . Chỉ cần một con rắn mối thôi là đủ bồi dưởng cho ba con gà .

Đầu tháng năm , trận mưa đầu mùa tới , trong lúc làm cỏ, tình cờ lật mấy tảng đá , vô số ếch con nhảy ra . Thế là tôi có thực phẩm cung cấp cho ba con gà . Rồi chúng tôi được phân công trồng cây mè ( vừng) . Ếch nhái cũng cạn kiệt vì lớn lên chúng nhảy đi mất tiêu . Tôi xoay sang bắt sâu mè . Đặc biệt sâu mè lớn bằng ngón tay , thân hình màu xanh giống như cây mè . Mấy ngày đầu , gà ăn sâu mè , nhưng sau đó thì... chê , tôi không biết tại sao . Cỏ bắt đầu mọc , tôi quay qua bắt cào cào , châu chấu .

Một hôm , đi lao động về, thấy trại giam có vẻ khác lạ . Mấy tên " trật tự , văn hóa " ( các chức tước mà bọn VC phong cho những người phe ta , cam tâm làm tay sai cho bọn chúng) , đang hầm hầm lục soát các dãy phòng để bắt các thú vật mà người tù nuôi . Đúng là :
Người nách thước , kẻ tay đao ,
Đầu trâu , mặt ngựa ào ào như sôi.
Tôi vội vàng cḥạy về buồng giam . Anh Quát đứng trước cửa buồng , cười cười :" Phước đừng lo , con gà mẹ khôn lắm , dẫn con chạy vào rừng rồi , tụi nó không bắt được ". Tôi chạy đến hàng rào , kêu túc túc . Độ 15 phút sau , gà mẹ dẫn con chạy về , mặt đỏ ké , ríu ra , ríu rít , hình như muốn mét với tôi là vừa bị rượt bắt . Tôi thưởng cho chúng vài con cào cào , châu chấu . Gà mẹ lại bình tâm dẫn con đi kiếm ăn .

Tôi bắt đầu lo vì bọn " trật tự , văn hóa " sẽ bố ráp liên tục, rồi có ngày nào đó , bọn chúng cũng sẽ chộp được ba con gà . Tôi phải tìm giải pháp. Nhận thấy anh Thi , trung úy Cảnh sát , trưởng Cuộc bót Lê văn Ken, được ở một căn nhà nhỏ ở bên ngoài trại giam . Anh có tay nghề thợ may rất giỏi , bọn VC ưu ái cho anh ở riêng để phục vụ việc may quần áo cho bọn chúng . Anh Thi chơi thân với anh Chung , Thiếu tá khóa 20 VBĐL . Anh Chung và tôi thường hay đến chơi với anh Hồng , Thiếu tá Hải quân khóa 14 . Do đó tôi quen với anh Chung , tôi nhờ anh Chung giới thiệu anh Thi . Tôi trình bày khó khăn về 3 con gà , anh Thi xởi lởi , vui vẽ :" Tôi có chuồng nuôi gà , cứ đem ba con gà cho ở chung".

Sáng hôm sau , trong khi các đội tập họp trước cổng trại điểm số đi lao động , tôi vội chạy đến căn nhà may giao túi cót có đựng ba con gà cho anh Thi . Buổi chiều , đi làm về , tạt qua ghé thăm . Con gà mái dẩn hai con lủi thủi đi ăn riêng, cách xa đám gà của anh Thi . Thấy tôi , con gà mái dẩn hai con chạy tới có vẽ mừng . Tôi thưởng cho mấy con cào cào , châu chấu rồi vội vàng chạy về đội để nhập trại . Con gà mái chạy theo , tôi đứng lại khoát tay thậm chí dậm chân , làm dử, biểu nó quay trở lại . Tôi bỏ chạy đi , con gà mái đứng ngơ ngác nhìn theo .

Mấy ngày sau , anh Thi gặp tôi cho biết , ngày đầu tiên đám gà của anh Thi ăn hiếp ba con gà của tôi . Anh nói :" Con gà mẹ dử lắm , để bảo vệ con , nó dám đánh lại mấy con gà khác , rồi sau đó cũng huề nhưng mấy con gà của anh dẩn đi ăn riêng ". Tình hình êm ả được mấy tháng , chiều nào đi làm về tôi cũng ghé thăm . Con gà mẹ và hai gà con cũng quen đi với đời sống mới .

Lật bật vậy mà cũng giáp năm , chỉ còn một tháng nữa là Tết . Không khí trại giam có vẽ cởi mở vì chuẩn bị ăn Tết . Tôi đem ba con gà về chổ tôi ở , bọn chúng cũng thích ứng với đời sống gọi là mới mà là cũ nầy . Rảnh rang , tôi hay quan sát đời sống của ba con gà . Tôi thích thú so sánh đời sống tình cảm của bọn chúng với con người . Một hôm , ba mẹ con dẩn nhau đi kiếm ăn , ríu ra , ríu rít , thật là hạnh phúc . Bỗng từ đàng xa , một con gà trống , loại đẹp trai , lực lưỡng sáu múi , vỗ cánh hùng dũng cất tiếng gáy :" Ò Ó O Ò O ....". Con gà mái ngẫng đầu lên nghe rồi quyết định bước về phía con gà trống . Hai gà con lẻo đẻo theo sau . Tôi nhìn thấy rõ ràng và bật cười . Con gà mẹ quay lại mổ vào đầu hai gà con , mỗi đứa một cái , hình như nó muốn nói :" Tụi bây đừng theo tao để tao đi chơi ". Hai gà con ngơ ngác nhìn mẹ , rồi không biết hiểu ý hay không tôi thấy bọn chúng lủi thủi dẩn nhau đi riêng. Tôi liếc về cặp trống mái . Con gà mái e ấp đi kế bên anh gà trống hùng dũng giống như một thiếu nữ , bẻn lẻn , âu yếm đi kế bên người tình . Con gà trống với hai chân khỏe mạnh và móng sắc vừa cào đất kiếm thức ăn vừa kêu túc túc hình như nói lời âu yếm . Con gà mái kế bên , uống tràn hạnh phúc với các con trùng mà gà trống kiếm được. Tôi bật cười , ngẫm nghĩ : Tạo hóa thật diệu kỳ , ban cho loài người và sinh vật một quà tặng vô giá là tình yêu để lưu truyền sự sống và nòi giống . Tôi tiếp tục theo dõi ba con gà . Buổi chiều , sắp sửa vào chuồng, con gà mẹ rời người tình để trở về với hai con. Bọn chúng lại ríu rít thương yêu nhau . Tôi thấy con gà mẹ hơn hẳn nàng Trác văn Quân , bỏ cha , bỏ mẹ để đi theo chàng Tư Mã Tương Như khi nghe khúc nhạc Phượng Cầu Hoàng.

Một tuần lễ sau , một trong hai gà con bị bịnh chết , chỉ còn lại gà mẹ và một gà con . Đến ngày đưa ông Táo , Mẹ tôi và Hạnh lên thăm . Tôi bỏ hai con gà vào túi cót , đem ra nhà thăm nuôi và giao cho Hạnh :" Anh nuôi mấy con gà mến tay , mến chân không nở làm thịt . Hạnh đem về nuôi tiếp dùm anh". Cuối năm đó (1987) , tôi về , chuyến tàu vét của những người mà bọn VC gọi là " có nợ máu với nhân dân".

Một buổi lể " hoành tráng " tổ chức ở hội trường có phóng viên nhà báo và nhiếp ảnh quay phim . Đức Dù và tôi ngồi phía sau , giấu mặt đi để cho các vị tổng , bộ trưởng và đại tá ngất ngưởng , hân hoan ngồi phía trước . Một chiếc xe chở chúng tôi về Sài Gòn . Mười hai năm sau , Sài Gòn không thay đổi , đường phố vắng tanh ,im lìm, chỉ thấy các lá cờ đỏ phất phới đúng như nhà thơ Trần Dần đã viết :
Không thấy phố ,
Không thấy nhà ,
Chỉ thấy mưa sa ,
Trên màu cờ đỏ .

Tôi bước chân vào nhà đúng ngày 11/11/1987, mẹ tôi đang nằm trên ghế xích đu . Trong ánh sáng mờ mờ , mẹ tôi giở kiếng ra hỏi :" Con về đó hả ?". Tôi dạ . Tôi ngồi kế bên bà , nắm bàn tay gầy rạc , nổi đầy gân . Mẹ tôi và tôi im lặng, để hạnh phúc tràn đầy ngấm vào từng sớ thịt, vào tận mỗi tế bào . Lúc đó tôi muốn la lên :" Tôi không cần lý tưởng cao xa gì hết , tôi chỉ muốn hạnh phúc tầm thường vậy thôi ". Hạnh đi làm về , mừng rỡ . Câu đầu tiên , tôi hỏi Hạnh là hai con gà của anh như thế nào . Cô em gái lúng túng , mặt đỏ bừng , ấp a , ấp úng :" Nhà chật quá , em....em.....". Tôi hiểu và không nói gì . Tôi đã trải qua những tình cảm khắc nghiệt , đây chỉ là chuyện buồn nho nhỏ trong dòng đời . Nhưng tôi cũng cảm thấy buâng khuâng , man mác và hình như trong tâm hồn , tôi cảm thấy mất đi một cái gì đó mà không bao giờ lấy lại được .

Phước cafe

hoanglan22 08-23-2019 02:39

TÌNH NGƯỜI LÍNH BIỂN .
 
1 Attachment(s)


Người lính biển được đào tạo và trui rèn trong một môi trường đặc biệt . Biển cả bao la với các trận cuồng phong hay những đêm trăng mờ với muôn ngàn vì sao lấp lánh đã in ấn vào tâm hồn người lính biển những tình cảm mảnh liệt dử dội hay lãng mạn nên thơ. Tình non , tình nước , tình nhà hòa quyện lẫn nhau trong lòng người lính biển cũng như một bóng hình yểu điệu , mượt mà , yêu thương lãng đãng trong trái tim , làm chàng nhớ nhung , ray rức . Ngoài những tình cảm đặc biệt đó , còn có một tình cảm khác âm thầm bàng bạc giữa những người lính biển, giữa các khóa đàn anh và đàn em , không nói mà nên , không hẹn mà đến , nhẹ nhàng , sâu lắng mà cũng thiết tha.

Năm 1983 , tù binh chúng tôi bị bọn Việt Cộng di chuyển bằng xe lửa từ miền Bắc về miền Nam cùng chung với các vị bò lục ( đại tá ) ở trại Nam Hà hay Hà Tây . Hai người bị xích một cùm , nghỉa là tay mặt người nầy xích vào tay trái người kia . Đoàn xe đang chạy , tôi khó chịu , loay hoay ở ghế ngồi vì không được tự do bình thường . Một nhóm người , ồn ào từ toa đầu tàu của các vị bò lục đi tới . Họ được cử đi lảnh phần ăn về chia cho đồng đội . Một người vừa đi len lỏi giữa hai hàng ghế , vừa hô lên như rao hàng bán dầu cù là Mac Phsu :" Có ai Hải Quân không ? Có ai Hải Quân không ?........". Tôi ngước nhìn dáng người quen quen , thân hình dong dỏng , gầy gò , tóc muối tiêu , hớt cao với đôi kiếng trắng . Tôi sực nhớ tới ông, chỉ biết qua hình ảnh , Đại Tá Trần phước Dũ . Tôi chồm tới , chào ông :" Commandant , tôi nè ". ĐT Dũ đứng lại , mặt sáng lên , những người đứng phía sau ông dồn cục lại . Ông hỏi :" Toa ở đơn vị nào ". Tôi trả lời :" Tôi ở Hạm Đội ". Bị mấy người sau dục đi tới , ông nói nhanh:" Về Xuân Lộc , nhớ tìm tôi , nhớ nghe ". Đi gần hết toa rồi , ông còn quay lại, nói :" Nhớ nghe , nhớ nghe ...".

Trại tù Xuân Lộc gồm 3 phân trại A ,B, C . Đại Tá Dũ về phân trại A , còn tôi ở phân trại C . Sau nầy khi lưu lạc qua trại A , tôi có tìm ĐT Dũ . Ông nằm kế bên ông anh ruột , Đại Tá Trần cửu Thiên . Hai anh em có nét mặt gần giống nhau nhưng ông Dũ ít nói trong khi ĐT Thiên gặp tôi là ông huyên thiên về lá bài Bảo Đại . Ông cho rằng hiệp ước Teheran của Đồng Minh trong Đệ nhị thế chiến vẫn còn hiệu lực về phân chia thế giới , vùng Đông Nam Á là vùng trung lập và Bảo Đại là người được lựa chọn để thực thi . Đề tài thật hấp dẩn , tôi ngồi im tiếp thu nhưng là để nghe ... cho vui . ĐT Dũ là người thương đàn em thật sự . Ông ăn chay trường , quà cáp của ông cũng theo hướng đó nhưng là những món ăn cao cấp , có cả nấm đông cô ( thời đó là quí lắm). Mỗi lần gặp tôi là ông trịnh trọng gói cho tôi một bịch quà . Tôi từ chối , ông hăm he là sẽ mang bịch quà đi theo tôi qua chổ tôi nằm . Tôi lân la hay hỏi ông về các chuyện xưa trong Hải Quân . Có lần tôi mạnh dạn hỏi :" Nghe nói commandant có nhiều bà lắm , bây giờ các bà đó ra làm sao ? ". Ông trả lời tỉnh queo :" Tôi cho vượt biển hết , chỉ còn một bà ở lại nuôi tôi thôi ". ĐT Dũ và tôi về cùng một lượt , cuối năm 1987, trước khi chia tay , ông nhét vào túi tôi một số tiền để làm lộ phí đi đường . Vài tháng sau , ông tìm tôi để nhờ lái chiếc ghe vượt biển mà ông đang tiến hành cho đóng . Ông đưa tôi về nhà , ở gần chợ An Đông , nhà ở trên gác , rộng rải , gặp một người đàn bà trông thật đôn hậu, người mà ông nói ở lại để nuôi ông . Rồi bắt được một đường dây khác, ông vượt biên thành công bằng tàu sắt . Sau đó nghe nói ông mất bên Mỹ .

Vào trạc C , tôi được " biên chế " vào cùng đội với Đại Tá Tài , Chánh văn phòng của Tư Lịnh Hải Quân , Đề Đốc Chơn . ĐT Tài ít nói và không hề tâm tình . Trong đội còn có ĐT Sửu , Tham Mưu Trưởng Không Quân hồi thời ông Diệm . ĐT Sửu người Huế , tướng người cao lớn , da ngâm đen . ĐT Tài và ĐT Sửu được phân công cùng nhau gánh cơm từ nhà bếp về phân chia cho đội . Biết tôi là Hải Quân , ông Sửu cứ gặp tôi ở đâu là phân bua ở đấy . Giọng ông Sửu hơi nặng lại có thói quen nói nhỏ , tôi không hiểu gì hết nhưng cứ gật đầu lia lịa ra cái điều thông cảm những điều ông càm ràm về người " đối tác " . Ở trại C , tôi gặp các đàn anh : Trần ngọc Anh ( khóa 12}, Nguyễn văn Thuật ( khóa 13 ) và hai bạn cùng khóa với tôi Hào Râu và Ấn Sẹo .

Ở chưa ấm chổ thì tôi bị chuyển vào trại B , làm mộc . Cùng đội mộc với tôi có các đàn anh : Nguyễn xuân Huy khóa 11, Thùy trinh Bạch khóa 13 , Trần văn Căn khóa 14 và Phan thanh Sử cùng khóa với tôi . Ngoài ra , ở trại B nhưng ở đội khác có các đàn anh : Lê văn Quế khóa 9 , Nguyễn quang Hùng khóa 9 , Hoàng đại Nhân khóa 14 và vài sĩ quan khác mà tôi không nhớ tên . Các sĩ quan Hải Quân ở đây tiếp đón tôi trong tình thân mật và ấm áp . Đặc biệt 2 người đàn anh Lê văn Quế và Nguyễn quang Hùng . Anh Quế và tôi sau nầy cùng ở một đội và nằm kế bên nhau . Anh là người đứng đắn , đáng kính . Đi tù về , chúng tôi còn gặp lại nhau và tình cảm mến mộ kéo dài cho tới tận bây giờ . Anh Nguyễn quang Hùng , tánh tình ít nói , hiền lành , thật dễ mến . Anh xem tôi như người em út , chăm sóc kỷ lưởng . Anh ở đội rau , hôm nào cũng vậy , khi đi làm về là gọi tôi ơi ới :" Phước ơi , Phước ơi ...." để nhét vào tay tôi , khi thì một bó rau thơm , khi thì một bó rau muống hay vài trái ớt . Anh về trước tôi rồi vượt biển . Nghe nói anh mất tích luôn với cả gia đình . Sao người hiền không gặp lành vậy nè , ông Trời?

Lúc đó vào mùa thu hoạch , đội mộc được tăng cường đi phơi bắp . Có một đội khác cột các trái bắp từng chùm một , mỗi chùm 10 trái . Đội mộc chúng tôi , công việc chỉ là cầm từng chùm một , vắt lên một xà ngang xỏ từ vách nầy sang vách kia trong một buồng trống . Chúng tôi vừa làm vừa nói chuyện râm ran cho đở buồn . Tôi đùa giỡn với các bạn đồng tù vừa cầm xâu bắp vắt lên xà ngang . Xâu bắp tôi vừa vắt lên xà ngang , rớt xuống rơi lả tả vì người cột không cột chặc . Tôi cúi xuống lượm mấy trái bắp thì một tiếng nói the thé ở phía sau lưng tôi vang lên :" Các anh lao động như vậy hả . Bọn ngụy các anh chỉ có phá hoại ". Thật tình mà nói , biết thân phận mình đi tù , ráng nín thở qua sông , còn muốn làm anh hùng gì nữa trong hoàn cảnh nầy nhưng khi nghe nói đến tiếng " ngụy " , lòng tôi cảm thấy thương tổn ghê gớm . Vừa bị ăn cướp sạch sành sanh , vật chất lẫn tinh thần , lại còn bị mắng là " ngụy " nữa , tự nhiên tôi phản ứng không suy nghĩ . Tôi quay lại , tên công an nhỏ con , đầu to không cân xứng với thân hình nhỏ xíu , cái đầu ngất ngưởng giống như cục kẹo gắn trên một que kẹo . Sau nầy tôi mới biết hắn là Trưởng Trại B , tên là Tâm Đầu Bò , giống như hình dạng của hắn . Tôi nghiêm trang nói :" Cán bộ không được gọi chúng tôi là ngụy . Báo chí và đài phát thanh cũng không được nói tới chữ ngụy ". Hắn sứng sộ :" Anh cãi tôi hả ? Coi chừng tôi đánh anh :" Lỡ " binh " rồi , tôi " binh " luôn :" Cán bộ đánh tôi là tôi đánh lại ". Hắn nhìn trừng trừng vào tôi , mặt giận xanh lè nhưng không dám làm gì vì hắn nhỏ con hơn tôi . Hắn bỏ đi ra , một lát sau , hai tên công an , vỏ trang súng , kè tôi lên văn phòng bọn chúng . Ở đây cả 10 tên thay nhau thẩm vấn tôi . Chúng kết tội tôi là chống lao động , chống Ban Giám Thị ( VNCH gọi là Quản Đốc ) . Hai tội rất nặng , có thể bị cùm 3 tháng trở lên . Biết vào hang cọp , tôi khăng khăng trả lời : tôi hăng say lao động , tôi chỉ muốn không gọi chúng tôi là ngụy . Bọn chúng hết vuốt ve rồi dọa nạt nhưng tôi cứ một mực khai như vậy . Quần tôi 3 tiếng đồng hồ , từ 9 giờ sáng cho tới 12 giờ trưa , không được kết quả gì , bọn chúng hăm he tôi :" Về trại chuẩn bị hành lý qua trại khác để cải tạo tốt hơn".

Tôi về buồng giam , cả trại như đàn ông vở tổ . Nhiều người đứng thập thò ngoài buồng , có người vào tận giường bắt tay tôi để động viên tinh thần . Một sĩ quan đàn em , Trung Úy Trác ngọc Anh thuộc Quân Đoàn 2 , quen từ hồi ở trại Thanh Cẩm, trèo lên chổ tôi nằm . Anh truyền kinh nghiệm :" Chắc chắn là anh bị cùm . Chuyện nầy em kinh nghiệm nhiều lắm . Em cho anh cái áo nầy ". TN Anh chìa cho tôi cái áo ấm bộ binh , dầy cộm . Anh nói tiếp :" Cái áo nầy hữu dụng lắm , trong nầy có nhiều thứ cần thiết : kim chỉ , dao cạo râu, thuốc sốt rét , thuốc tiêu chảy ". TN Anh chỉ cho tôi đường viền của áo , các thứ nầy , anh để rải rác , vải lại dầy nên mò sơ không biết . TN Anh dặn kỷ tôi:" Nhớ nè , lúc nào cũng mặc áo nầy , khi nào bị đánh thì ôm bụng cuốn tròn lại để ngực và bụng không bị tổn thương" .

Buổi trưa , cả trại tập họp để nghe bọn chúng đọc lịnh cùm tôi với tội danh chống lao động và chống Ban Giám Thị . Tôi bị đưa qua trại A vì ở đây mới có nhà cùm . Nhà giam rộng chỉ có một giường gỗ và một cái cùm chân ở cuối giường . Tôi không sợ lắm vì đã từng trải qua ở trại Cổng Trời , ba tháng bị cùm trong phòng tối , khủng khiếp hơn ở ̣đây , đủ kinh nghiệm để chịu đựng . Chiếc áo của Trác ngọc Anh thật công dụng .
Chiều tối dần , ban nhạc sáo thổi của đàn muổi vang lên. Tôi cuốn mình lại thu tròn trong chiếc áo ấm bộ binh . Hai bàn chân vẫn còn thò ra ngoài , tôi nới lỏng dây lưng quần , kéo quần dài thêm che hai bàn chân . Không bị muỗi cắn nhưng bị chuột bò qua, bò lại trên người nhiều lần . Hai lần bị chúng tẩm quất để trả thù cho tên Tâm Đầu Bò , tôi nhớ lại lời của TN Anh nên cũng tai qua ,nạn khỏi .

Rồi cái gì cũng qua đi . Sau một tháng , tôi được tháo cùm . Trớ trêu , người mở cùm cho tôi là Trung Tá N. , Tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi , sừng sỏ của sư đoàn nổi danh vào bậc nhứt . Cấp bậc của anh luôn thăng cấp tại mặt trận . Bây giờ , anh làm Trật Tự viên cho bọn chúng . Vì đâu nên nỗi ? Bị cùm được một tháng thôi mà chân trái tôi tê cứng , loạng choạng đứng dậy và khập khiểng đi . Tôi bị tống vào đội " hoàng gia " , gồm những người bị liệt kê là không chịu cải tạo . Đội nầy chỉ lao động trong trại , không được đi ra ngoài. Đội gồm đủ thành phần , một số là dân sự , tiêu biểu là Giáo Sư Lê văn Ngôn, Đại học Luật khoa , một số là các linh mục và các nhà sư , một số là quân đội, tôi chỉ còn nhớ Thiếu tá Nguyễn ngọc Xuân ( Quận trưởng) , Thiếu tá Trần khắc Nghiêm , em của Trung tá Trần khắc Kính ( Lực lượng đặc biệt) , Thiếu tá Thiết giáp Nguyễn chinh Phu (sĩ quan xuất sắc của Thiết Giáp , khi xuất trận mang lon Trung uý , hành quân 6 tháng trở về mang lon Thiếu tá , thăng cấp tại mặt trận) ...

Tôi đang loay hoay trải chiếu nằm ở từng trên , kế bên TT Nghiêm , anh đang diện bích , quay mặt vào tường , các ngón tay đang bắt ấn , không màng thế sự bên ngoài . Một bóng người xuất hiện ngoài cửa , tiến vào trong buồng , hô lớn lên giữa những tiếng ồn ào của đội :" Phước đâu , Phước đâu? ...." Tôi nhìn xuống nhận ra ông , gương mặt trí thức , hiền hòa sau đôi kiếng trắng, Trung Tá Nguyễn địch Hùng ( khóa 4 Brest ) , Hạm trưởng chiếc HQ1 , Trần hưng Đạo . Đàn anh và đàn em cách nhau khá xa ,khoảng 10 khóa , tôi biết ông mà ông không biết tôi , không hiểu tại sao ông lại đi tìm tôi? Tôi thò mặt ra ngoài , kêu lên :" Commandant , tôi là Phước nè ". TrTHùng vui vẽ :" Ờ Phước hả . Sáng chủ nhật nầy , nhớ ghé tôi chơi ". Ông bước ra cửa còn quay lại nói :" Nhớ 8 giờ sáng nghe ".

Sau nầy tôi mới biết , tiếng đồn gần xa , vang dội cả trại . Các đàn anh thăm hỏi tôi nhiều lắm . TrT Hùng là người đầu tiên sau đó là TrT Hà hiếu Diệp (khóa 10) , TrT Vỏ duy Kỷ (khóa 11), TrT Nguyễn như Phú( khóa 16 VBĐL thụ huấn khóa 13 HQ), ThT Nguyễn văn Hồng ( khóa 14). Đặc biệt TrT Diệp , ngày nào cũng hỏi thăm tôi có cần gì không mặc dù anh cũng thuộc loại thăm nuôi " nhà nghèo ". Anh ra tù trước tôi nhưng không vượt biên được vì con đ̣ông quá . Khi tôi ra tù , qua một người bạn , một đường dây vượt biên uy tín nhứt mà đài BBC từng đề cập , mời tôi đi . Tôi từ chối vì còn lấn cấn mẹ già , không nở bỏ đi , tôi nhường chuyến đi lại cho TrT Diệp . Chính tay tôi mua la bàn và hải đồ cho anh . Nhà anh lụp xụp ở một hẻm đường Phan đình Phùng sau tòa đại sứ Campuchea . Vài ngày sau khi ghe của anh khởi hành , người liên lạc đưa tôi một mảnh giấy với hàng chữ viết của anh :" Ra khơi an toàn ". Tôi mừng cho anh nhưng hụt hẩng . Chiếc ghe của anh mất tích hoàn toàn , không bắt được liên lạc với một ai trên ghe . Kết thúc một câu chyện buồn .

Anh Nguyễn văn Hồng , đối với tôi là khóa trên , khóa dưới dễ nói chuyện và dễ thông cảm , Anh dặn tôi , sáng chủ nào cũng phải ghé anh . Tôi ngần ngừ. Anh dỏng dạc :" Phước còn nhớ Brimade (huấn nhục) không ? Tôi ra lịnh Phước thi hành ". Tôi biết anh nói đùa , nhưng câu nói hàm chứa một sự thân thương nào đó .

Sáng chủ nhựt , 8 giờ sáng , đến hẹn lại lên , tôi qua thăm TrT Nguyễn địch Hùng như lời ước hẹn . Ông ngồi sẳn chờ tôi trên một chiếc chiếu mà ông đã trải lên trên hành lang lối đi của buồng giam . Thức ăn thăm nuôi bày la liệt trên chiếu . Người đàn anh và người đàn em , chưa từng gặp mặt , chưa từng nói chuyện mà cảm thấy thân thương hơn lúc nào trong hoàn cảnh nầy . Có một sự liên hệ nào đó buộc chặc chúng tôi lại . TrT Hùng và tôi ngồi đối mặt, cùng nhau trải dài tâm sự , kể lại những nổi vui buồn của đời lính thủy . Ông không hề nói tại sao ông đi tù mặc dù ông là Hạm Trưởng HQ1 lừng lẩy , soái hạm của HQ/VNCH . Cuối cùng bắt buộc tôi hỏi :" Tại sao chiếc HQ1 ra đi mà commandant lại ở đây ? ". TrT Hùng nhìn tôi một hồi lâu , gương mặt bình thản , đôi mắt sáng sau đôi kiếng trắng :" Tôi cho lịnh nhân viên trên chiến hạm đem gia đình xuống từ 6 giờ chiều đến 8 giờ tối . Mấy ông ấy muốn khởi hành sớm hơn , tôi không thuận vì chưa tới giờ . Thế là mấy ông ấy lái đi ". Thời gian như ngừng lắng đọng , tôi không dám hỏi thêm mấy ông ấy là ai và ông cũng không nói . Tôi nhận thấy có một cái gì đó không ổn . Ai có quyền lái tàu đi mà không có mặt hạm trưởng ? Sau nầy , tôi đọc được những lý do khác nhưng vẫn là trái luật . Người ta xem đó là chuyện bình thường và có khuynh hướng coi những chuyện đã qua rồi bới móc lại làm chi. Giữa cái đúng và cái sai ngườita không phân biệt được vì vậy cứ tiếp tục mãi. Có một vài " nhà Hải Quân " muốn Hải Quân lúc nào cũng đẹp , cũng hay không tì vết. Lý tưởng và lương tâm của người lính biển nằm ở đâu ?
Nắng lên cao , chiếu qua hàng cây ở ngoài sân . Ánh nắng xuyên qua các tàng cây chiếu vào chổ chúng tôi ngồi . Tôi nhìn ông , bóng lá cây nhảy múa trên gương mặt ông , gương mặt bình yên , không hận thù , không oán ghét . Xuất thân từ trường Hài Quân Pháp , Brest , bạn bè đồng thời với ông đều mang cấp bậc đại tá và giữ những chức vụ cao ở trên bờ , riêng ông ph̉ải lênh ̣đênh trên biển canh giữ kẻ thù . Hạm Trưởng HQ1 Trần hưng Đạo lừng lẩy , tình non tình nước là đó . Không bỏ thuộc cấp , không bỏ gia đình , tình nhà là đây. Ông ngồi đó trước mặt tôi , đôn hậu , vui vẻ với người đàn em xa lơ , xa lắc. Động cơ nào thúc đẩy ông tìm tôi ? Tôi xúc động , hình như mắt tôi ươn ướt, hình ảnh ông nhòe đi , nhưng trong lòng tôi sáng rực lên mấy chữ : TÌNH NGƯỜI LÍNH BIỂN .

Phước cafe

hoanglan22 08-23-2019 03:08

TÔi BẮT BUÔN LẬU .
 
2 Attachment(s)
LỜI NÓI ĐẦU : Người nào cũng có một quá khứ đầy những kỷ niệm êm đẹp hay những sai lầm tiếc nuối hoặc những điều suy nghĩ , trăn trở về những việc làm đã qua . Một mảng ký ức xa xăm hiện về với chàng thanh niên trẻ , đầy nhiệt huyết , đấu tranh với sự cám dổ vật chất xa hoa để tránh những việc làm phi pháp . Các nhân vật trong câu chuyện , kể cả " cái tôi " , được phác họa trung thực , đã góp phần tạo nên quá khứ . Thành hay bại , hay hoặc dở tùy theo sự lượng định của người đọc , tất cả đã đi vào dĩ vàng và bây giờ chỉ còn là những kỷ niệm thấm đẫm một chút hương xưa



Giờ giải lao buổi trưa , tôi đang chơi bi - da ở câu lạc bộ sĩ quan trại Tây Kết ( Nha Trang ) thuộc Bộ Chỉ Huy Vùng 2 Duyên Hải . Đại úy Nguyễn xuân Biên ( khóa 13 , Trưởng Phòng Nhân Viên ) ghé tai tôi nói nhỏ :"
Thằng Kỳ (khóa 14 ) ra Qui Nhơn còn toa ở lại đây , các toa nhận lảnh các đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng ̣̣ của tụi Mỹ giao lại ". Tôi hơi choáng váng vì bất ngờ nhưng sực nghĩ tới ông anh ở Qui NHơn , tôi bảo anh Biên :" Anh trình lại dùm Trung Tá Khuê ( Chỉ Huy Trưởng V2DH , lúc đó chưa cải danh là Tư Lịnh V2DH ) là tôi có người anh là Trưởng Ty Hàng Hải Qui Nhơn , cho tôi hoán đổi với anh Kỳ ".

Tôi gặp ông anh tôi ở văn phòng Ty Hàng Hải Qui Nhơn . Tôi gọi anh là anh Hai ( người Bắc gọi là anh Cả ). Anh lớn hơn tôi 11 tuổi là người dạy dổ và nuôi tôi ăn học . Tôi rất thương và kính mến anh . Hai anh em mừng rở , cầm tay nhau giục giặt . Anh tôi nói :" Mầy về đây , tụi Tàu biết hết . Tụi nó nhắn tao mời mầy chiều nay đi ăn cơm ". Tôi có cảm giác lâng lâng , hơi lạ lùng và không biết điều gì sẽ xảy ra .

Trên bàn tròn đầy ắp thức ăn , ở quán Ngủ Châu , năm người ngồi xung quanh , hai anh em chúng tôi và ba thương gia người Tàu . Họ có vẽ quen thuộc với ông anh của tôi , nói chuyện có vẽ thân tình . Một người Tàu ngồi kế bên , ghé tai tôi nói nhỏ : " Tôi làm ăn là phải vài chục triệu trở lên , một vài triệu , tôi không làm , mà phải chắc ăn ". Rồi anh ta cười ha hả . Thật tình mà nói , tôi chưa có một ý niệm nào về những việc mình sẽ làm . Nhưng khi nghe nói tới tiền , tự nhiên tôi tham lam , liên tưởng tới một căn nhà khang trang , một chiếc xe hơi với người vợ xinh xắn ngồi kế bên . Tôi như người nằm mơ . Tiếng người thương gia Tàu cứ rủ rỉ bên tai tôi . Tôi chỉ nghe mà không hứa hẹn điều gì .

Tiệc tàn , chúng tôi trở về căn nhà ông anh tôi , kế bên văn phòng Ty Hàng Hải . Anh tôi nghiêm trang nói :" Tụi nó nói chuyện với mầy rồi phải không ? Tụi nó nhờ tao lập thủ tục nhanh giúp tụi nó cho tàu vào bến rồi bốc hàng cho lẹ . Chuyện đó trong quyền hạn của tao , tao làm được , còn mấy chuyện khác , tao không can dự . Tao có bao nhiêu , ăn bấy nhiêu . Mầy làm gì thì tự quyết định , đừng để tao dính vào ". Anh tôi là người hiền lành , chất phác. Anh đúng là mẫu người công chức siêng năng , cần mẫn . Anh không đề cập thẳng vào vấn đề , nhưng tôi biết ý anh nói gì . Cảng Qui Nhơn xếp vào hàng thứ hai sau cảng Đà Nẳng về đồ lậu .

Đồ lậu từ PX của Mỹ , đồ lậu từ tàu buôn qua cảng Qui Nhơn . Tôi " nắm " đơn vị Phòng thủ Hải Cảng là đơn vị chống đặc công Việt Cộng và chống luôn cả bọn buôn lậu . Chống buôn lậu rồi bước qua độc quyền buôn lậu cũng rất dể dàng .

Hạ sĩ quan và thủy thủ đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng được bổ sung vào khoảng 80 người . Trong thời gian huấn luyện , vào khoảng một tháng , họ làm việc và ăn ngủ chung với thủy thủ người Mỹ . Các tiểu đĩnh của đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng khác với các chiến đĩnh của các giang đoàn trong sông . Chúng tôi được trang bị 2 Picket Boat , bằng gỗ , rất đẹp , mỗi chiếc có thể chở khoảng 30 người , có thể làm du thuyền . Các tiểu đỉnh chánh dùng để tuần tiểu là 12 chiếc LCPL ( Landing Craft Personel Large ) , bằng nhựa fiberglass , rất nhẹ , một đại liên 50 gắn trước mũi và một sau lái . Ngoài ra còn có 4 chiếc skimmers là một loại hors bord , chạy rất nhanh , lướt trên mặt nước nhờ một động cơ 85 mã lực gắn phía sau , dùng để rượt đuổi , chận bắt . Thời gian huấn luyện qua nhanh , chúng tôi làm chủ căn cứ , đồn trú trên ngọn đồi ở rìa mũi bán đảo Hải Minh mà sau nầy người ta xây bức tượng Trần Hưng Đạo ở đó .


Riêng tôi ở một gian nhà 12 phòng mà trước đó 12 sĩ quan Hải Quân Mỹ ở . Nhà rộng thênh thang ,đầy đủ tiện nghi . Lúc bàn giao nhận đơn vị chỉ có mình tôi là sĩ quan . Khu vực sĩ quan nằm trên đỉnh đồi cao nhứt , cho một quanh cảnh nhìn về Qui Nhơn rất nên thơ .

Đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng Qui Nhơn là đơn vị do Mỹ bàn giao lại nên chưa có trong bản cấp số , việc điều hành tiếp liệu , hành chánh và nhân viên gặp trở ngại vì vậy đơn vị chúng tôi phải sáp nhập vào Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn do Thiếu Tá T. làm Chỉ Huy Trưởng . Tôi được bổ nhiệm là Chỉ Huy Phó kiêm Sỉ Quan Đặc Trách PTHC . Trên danh nghĩa là Chỉ huy Phó , dưới quyền của Thiếu Tá T. , nhưng tôi làm việc biệt lập , đơn vị của tôi nằm trên ngọn đồi của bán đảo Hải Minh , trong khi Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đồn trú trong thị xả Qui Nhơn .

Bạn bè nghe tôi là Chỉ Huy Phó dưới quyền Thiếu Tá T. , Các anh ấy đùa, đe tôi :" Ông T. khó chịu như tên của ổng , đọc trẹo hàm . Mầy coi chừng , ổng đì sói trán ". Nhưng khi tiếp xúc với Thiếu Tá T. , tôi nhận thấy ông ấy là người khả ái và rất lịch sự . Lần đầu tiên gặp ông ở văn phòng CHT Căn Cứ , ông nói chuyện với tôi cả tiếng đồng hồ . Ông thuyết giảng với tôi về Luật Hàng Hải , Luật trong Hải cảng . Ông chỉ tôi một đống sách luật dày cộm trên bàn :" Mình phải nghiên cứu kỷ lưởng để tránh đụng chạm với các đơn vị bạn". Vì ngoài đơn vị PTHC của Hải Quân còn có lực lượng Giang Cảnh , Quan Thuế , Ty Hàng Hải ( thuộc Bộ Công Chánh ) và Hải Đội 2 Duyên Phòng . Mấy lần ông tiết lộ tên Thiếu Tướng Ngô Du như một sự liên hệ nào đó . Tôi chỉ nghe mà không đóng góp một chi tiết nào ngoài bàn về cách làm việc .

Sự tiếp cận của tôi với Thiếu Tá T. đi đến chổ thân mật hơn . Chiều thứ bảy hay chủ nhật , ông hay mời tôi lên căn cứ làm vài ly rượu . Chiều tối dần , ông hay rủ tôi ra quán cà phê ngồi nghe nhạc . Ông lái xe , tôi ngôì kế bên , thỉnh thoảng ông liếc nhìn vào kiếng chiếu hậu , bảo :" Bả đi theo " . Tôi liếc nhìn kiếng chiếu hậu phía bên tôi , thấy một chiếc jeep chạy sau , một người đàn bà ngồi trên xe . Chúng tôi ngừng xe vào quán cà phê , chiếc xe đi theo cũng ngừng bên ngoài , đợi hồi lâu không thấy gì lại bỏ đi . Thiếu Tá T. cười với tôi :" Chỉ vậy thôi " . Ông có thói quen rất ngộ . Ông rất thích ăn mì , ông hay rủ tôi đi ăn mì tiệm Tàu , ở ngoại ô Qui Nhơn , trên quốc lộ 1 , qua khỏi đường rầy xe lửa . Tiệm đơn sơ , mộc mạc nhưng nấu ăn rất ngon , nước lèo ngọt thanh và sợi mì dai nhai sầng sật . Lần đầu tiên đi ăn với Thiếu Tá T. , ông rất tự nhiên khi dặn người chủ quán : " Cho hai tô mì 3 vắt ". Tôi nhìn ông dọ hỏi . Ông giải thích :" Một tô 2 vắt thì không no , hai tô thì mất ngon , một tô 3 vắt thì vừa ". Tôi thích thú với sáng kiến của ông. Người chủ quán bưng ra hai tô mì nóng hổi . Thiếu tá T. cầm hủ ớt ngâm chua còn phân nửa , trút vào tô mì của ông . Chủ quán người Tàu than thở :" Hà cái lầy nị làm ngộ lổ vốn dồi ". Ông trả lời tỉnh queo :" Không sao đâu , tính tiền thêm đi mà ".

Đơn vị tân lập nhưng rất nhàn , nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ tàu buôn neo ở ngoài cảng Qui Nhơn . Hải cảng Qui Nhơn chia làm hai vùng : bên trong cảng có các cầu cặp thuộc ty Hàng Hải , Giang Cảnh và Quân Vận , bên ngoài cảng là vùng hoạt động của đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng Qui Nhơn . Các tàu buôn trước khi vào bến cặp cầu bốc hàng , phải neo ở vùng ngoài cảng . Chúng tôi phái các tàu tuần luôn luôn túc trực xung quanh các tàu buôn nầy. Nhiệm vụ rất đơn giản nhưng tôi cũng siêng năng đi theo tàu tuần thường xuyên để nắm bắt hoạt động của đơn vị . Tôi nhận xét : chống đặc công Việt Cộng thì dễ nhưng chống buôn lậu thì nhiêu khê hơn , bất cứ ghe hay tàu nào cũng có thể lấy hàng lậu từ tàu buôn với sự thông đồng của tàu tuần . Với nhiệm vụ của tôi và với quyền hạn của ông anh tôi , Trưởng Ty Hàng Hải , tôi là người dễ bị dòm ngó .

Một hôm , anh tôi hỏi :" Em có biết Thượng sĩ Hải không ? ". Tôi nói biết vì Thượng sĩ Hải thuộc CCHQ/QN . Anh tôi nói tiếp :" Thượng sĩ Hải có nhà trong khu vực của Ty Hàng Hải Qui Nhơn , đúng ra tao không cho phép nhưng vì nghĩ là binh sĩ , nghèo , nên tao cứ để vậy . Nhưng sáng nào hắn cũng đi dọ hỏi ở các cầu tàu . Mầy cẩn thận ". Để đề phòng hoạt động không kiểm soát được của tôi , Thiếu Tá T. lấy quyền phân bố nhân viên xuống các tiểu đỉnh đồng thời ông cho di dời đài kiểm soát hoạt động Hải Cảng từ căn cứ của tôi ở Hải Minh qua Căn Cứ Hải Quân ở thị xả Qui Nhơn .

Một hôm tôi đang nói chuyện với Thiếu Tá T. thì Thượng Sĩ Hải vào trình việc với ông . Tôi nhận thấy Thiếu Tá T. tín cẩn đặc biệt ở Thượng Sĩ Hải . Trong đơn vị râm rang Thượng Sĩ Hải ( Trần thiện Hải ) là cháu của Thủ Tướng Trần thiện Khiêm . Khi Hải đi ra , tôi hỏi thẳng TTá T. :" Thượng Sĩ Trần thiện Hải có phải thật sự là cháu của Thủ tướng Trần thiện Khiêm không?". Ông T. ngần ngừ một hồi lâu:" Tôi không biết có hay không , nhưng thấy mỗi lần ông Khiêm ra đây là thấy hắn ta lăng xăng ". Tôi không hỏi thêm nữa và biết đây là " mèo mượn hơi hùm " . Ông T. còn đi xa hơn nữa khi bổ nhiệm Thượng Sĩ Hải là Sĩ Quan An Ninh đơn vị .
Thượng Sĩ Hải đối với tôi tỏ ra nhủn nhặn nhưng các thiếu úy , chuẩn úy trực đài Kiểm Soát Hải Cảng cho biết họ bị xem thường và mỗi lần xin đi phép phải làm đơn đưa cho Thượng Sĩ Hải duyệt . Tôi có trình việc nầy với Thiếu Tá T. nhưng ông không nói gì .

Tình hình hơi căng . Lời nói của ông anh văng vẳng bên tai . Vả lại tôi là người nóng tính không muốn bị làm nhục . Tôi nhớ lúc phục vụ ở Duyên Đoàn 21, tôi Xử Lý Thường Vụ khi Chỉ Huy Trưởng Duyên Đoàn về Nha Trang họp , một Trung Sĩ da ngâm ̣đen , mặt rỗ , thuộc Sở An Ninh Quân Đội ( đường Nguyễn bỉnh Khiêm ) trình giấy yêu cầu được giúp đở để thi hành nhiệm vụ . Hắn yêu cầu tôi cho một bàn giấy , đặt ở nơi yên tĩnh và được quyền gọi bất cứ ai trong đơn vị để phục vụ cuộc điều tra . Lỗi lầm là ở các sĩ quan tiền nhiệm nhưng đơn vị náo loạn hẳn lên , hầu như không còn kỷ luật nữa . Tôi ấm ức , tự hứa với lòng mình là không thể để mình dính vào những trường hợp như thế .

Mặt khác , tôi cố giữ những hoạt động riêng tư thật trong sạch . Thỉnh thoảng anh tôi nói dò la :" Mấy thương gia Tàu muốn gặp mầy ". Tôi bảo :" Anh cứ nói với họ là em bận ". Tôi suy nghĩ nếu gặp họ , mình xiêu lòng thì sao , chẳng thà không gặp thì hay hơn . Đi chơi ngoài phố , nhiều người đến làm quen , mời một ly nước rồi kỳ kèo đến nhà chơi . Tôi sợ sập bẩy , tuyệt đối từ chối . Nơi tôi ở , phong cảnh thật hữu tình , thoáng mát , tôi không dám mời ai lên chơi , kể cả người quen . Đơn vị có hai picket boat có thể tổ chức picnic đi chơi ở Cù Lao Xanh hoặc dùng skimmers đi bắn cá ở các ghềnh đá . Tôi cố tiết chế để không xử dụng của công . Tình hình êm ả , nhưng cái gì đến , nó sẽ đến .

Sĩ quan an ninh đơn vị , Thượng Sĩ Hải , báo cáo trực tiếp lên Thiếu Tá T. mà không qua tôi , nhưng vì tôi làm việc sát với thủy thủ trên tàu tuần , mọi hoạt động xảy ra tôi đều biết . Một hôm , một thủy thủ trên một chiếc tàu tuần báo cáo sẽ có buôn lậu tối hôm đó . Khuya 12 giờ , tôi và hai thủy thủ lái một chiếc skimmer đi tuần tra . Biển êm , tôi cho chiếc skimmer thả lềnh bềnh trên biển . Ngoài xa , các thương thuyền bỏ neo , chong đèn sáng choang . Hai giờ khuya , tôi đang ngủ gà , ngủ gật , một chiếc ghe lạ xáp vào một chiếc thương thuyền . Tôi đợi cho họ chất hàng lậu xuống , ghe vừa tách ra là chiếc skimmer của tôi vọt tới . Bên trái tôi , trong bóng tối của rặng đồi Hải Minh , một lằn nước trắng xóa xuất hiện . Tôi nhìn kỷ thấy Thiếu Tá T. trên một chiếc skimmer khác . Tôi gật gù : sĩ quan an ninh đơn vị cũng khá đấy . Chiếc skimmer của Thiếu Tá T. kè chiếc ghe buôn lậu vào cầu tàu của đơn vị PTHC nằm trong khu vực của Hải Đội 2 Duyên Phòng . Người chủ ghe buôn lậu hóa ra là thủy thủ làm việc ở Thủy Xưởng . Đưa hắn lên cầu tàu , Thiếu Tá T. cứ hạch hỏi :" Ai cầm đầu mầy ?". Tôi biết ông ấy nghi ngờ tôi . Tôi đứng kế bên , tỉnh queo không thèm nói gì . Bổng nhiên , ông đấm mấy cái vào bụng tên thủy thủ buôn lậu và quát lên " Khai ra ". Tên thủy thủ ôm gập người xuống , rên rỉ :" Em làm một mình ". Thấy vô ích , Thiếu Tá T. giận dử , quay qua tôi :"Ông Phước , sao ông không báo cáo tôi ". Các nhân viên của tôi đứng xung quanh lo lắng . Lúc đó tuổi trẻ , tôi có một khuyết điểm là rất nóng tính . Biết mình có khuyết điểm , tôi ráng giữ mình mực thước . Bây giờ bị nghi ngờ , mất mặt , tôi giống như thùng thuốc súng nổ bùng lên . Tôi đập tay vào cái bàn nhỏ kế bên một cái rầm và to tiếng với Thiếu Tá T. :" Tôi nói cho cammandant biết , commandant có sĩ quan an ninh ,anh ta không báo cáo tôi , tôi phải làm một mình . Vả lại tôi có quyền đi bắt buôn lậu trước rồi báo cáo commandant sau". Ngày mai commandant báo cáo lên cấp trên , tôi đi hầu ". Nói xong , tôi bỏ về căn cứ .

Sáng hôm sau , ngày chủ nhựt , tôi trằn trọc nằm ngủ nướng . Người thủy thủ tài xế của Thiếu Tá T. vào nói :Thiếu Tá T. muốn gặp tôi . Chiếc xe jeep đưa tôi vào CCHQ/QN , xe vừa vào cổng , tôi thấy một cái bàn phủ drap trắng đặt dưới một tàng cây , Thiếu Tá T. đang ngồi ở đó . Tôi đến chào ông . Thiếu Tá T. đưa tay bảo tôi ngồi , ông cầm chai rượu Hennessy vừa rót vào ly , vừa nói :" Ông nóng tánh quá ". Tôi thật sự hối hận :" Xin lỗi commandant , tôi quả thật cư xử không đúng ". Thiếu Tá T. cười xòa :" Thôi nhắp một tí cho ấm ". Buổi sáng nắng lên hơi cao , gió thổi nhè nhẹ . Ánh sáng chiếu xuống tàng cây . Bóng lá cây lung linh , nhảy múa trên dĩa mồi nhậu , các con chim mía vàng rượm đang nằm chờ đợi . Tôi cảm thấy nhẹ nhàng , bao nhiêu buồn phiền tan biến .

Sau biến cố đó , tôi suy nghĩ mấy ngày . Tôi biết đơn vị tôi , bao nhiêu người thèm muốn . Nhàn hạ , an ninh , đầy đủ tiện nghi và nếu khôn ngoan một tí xíu có thể ... khá hơn . Nhưng tôi biết tôi không có khả năng đó . Tôi còn nghĩ xa hơn , nếu tôi còn nắm đơn vị , tôi sẽ là chướng ng̣ại vật , là ...kỳ đà cản mũi . Ngoài ra , tôi có một chuyện tình cảm cần giải quyết . Tôi phải rời Qui Nhơn . Tôi làm đơn xin thuyên chuyển , ba ưu tiên đều xin về Hạm Đội . Vài ngày sau khi nộp đơn , tôi ghé văn phòng CCHQ/QN , nhân viên ở đó bảo Thiếu Tá T. cầm đơn của tôi về Sài Gòn rồi . Tôi cười . Quả nhiên một tuần sau , tôi có lịnh thuyên chuyển về làm Hạm Phó của Pháo Hạm Lôi Công HQ330 .

Tôi trình diện Thiếu Tá T. trước khi thuyên chuyển . Ông cười , vui vẽ :" Sẳn dịp có phái đoàn thanh tra về kỷ thuật , tôi làm tiệc đãi, luôn dịp chia tay với ông . Tôi có hai món quà tặng ông , tôi đề nghị ông được huy chương kỷ thuật vì giữ đơn vị được hoàn hảo và phiếu phê điểm thuyên chuyển , tôi phê ông 90 điểm ". Ông chìa giấy cho tôi xem . Thiếu Tá T. để lại trong tôi nhiều kỷ niệm và một vài ân tình . Sau nầy khi đi tù Việt Cộng về , tôi có ghé thăm ông. Tôi đưa ông đi ăn mấy lần.

Ông sống trên một cái chòi cao ở đường Trương minh Giảng , như con cọp già đơn độc , vợ con xa vắng . Ông sống cô đơn với hàng chục cuốn sách tử vi bày la liệt trên bàn .

Buổi sáng tinh sương , tôi rời căn cứ trên đồi Hải Minh . Tôi gặp Vũ ngọc Thọ ( khóa 16) ở bến phà bên phía Qui Nhơn . Tôi chào từ giã Thọ . Thọ đưa tôi một ít tiền , tôi không lấy . Hắn cứ nằn nì , chạy theo nhét vào túi tôi :" Tao biết mầy mà , rủi đạp bánh tráng thì sao ". Lòng lâng lâng buồn nhưng tâm hồn thanh thản , tôi rời Qui Nhơn , một vùng đất kỳ bí , trắc trở , một vùng đất mà nhiều sĩ quan cao cấp bị thân bại danh liệt

Phước cafe

luyenchuong3000 08-24-2019 14:55

không biết phải các chú bác bộ binh không nữa







hoanglan22 08-24-2019 15:15

Sứ Mạng Kinh Kha: Người Nhái Lê Văn Kinh
 
2 Attachment(s)

NGƯỜI TÙ HAI MƯƠI NĂM CỦA CỘNG SẢN BẮC VIỆT

Người Nhái Lê Văn Kinh
Anh Lê Văn Kinh lớn hơn tôi 3 tuổi, là bạn học cùng lớp với tôi ở trường Trung Học Đồng Nai, Sàig̣n trong những năm 1951 đến năm 1955. Anh Lê Văn Kinh sanh ngày 15 tháng 2 năm 1935 tại Sa Đéc, Nam Việt Nam trong một gia đ́nh có 9 người con gồm: 3 gái và 6 trai. Sau hai chị, anh Kinh là người con trai lớn nhứt trong gia đ́nh.

Sau khi thi Brevet xong (Anh Kinh học chương tŕnh Pháp. Bằng Brevet tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp của Việt Nam), anh Kinh mất tích trong chốn học đường. Sau đó một tḥi gian khá lâu, tôi mới biết là anh phải đi làm để giúp gia đ́nh nuôi đàn em dại, nên anh đă hy sinh tương lai của anh để lo cho tương lai của các em. Khi lớn lên, đáp lời sông núi, cả 6 anh em đều đầu quân vào QLVNCH và đă thật sự góp xương máu ǵn giữ giang sơn tổ quốc. Người em kế của anh Kinh đi Hải Quân, bị địch pháo kích, đă đền nợ nước. Người em kế tiếp đi Thiếu Sinh Quân, sau trở thành sĩ quan Pháo Binh. Hai em kế nữa đi TQLC, th́ một đền nợ nước tại chiến trường Kontum, một trở thành thương phế binh. Người em Út đi Biệt Động Quân cũng trở thành thương phế binh. Riêng anh Kinh th́ trở thành người tù 20 năm khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt. Tổng cộng trong 6 anh em của anh Kinh th́ 2 người đă dâng mạng sống của ḿnh cho tổ quốc, hai người đă hy sinh một phần thân thể cho quê hương, dân tộc, một người chôn vùi tuổi thanh xuân suốt 20 năm khổ sai trong lao tù Cộng Sản.

Anh Kinh rất to lớn so với khổ trung b́nh của người Việt Nam. Thật ra, anh cao lớn hơn tất cả các bạn cùng lớp, nhưng anh rất hiền và dễ thương như một thư sinh “khổng lồ”...

Khi vào học khóa 9 SQ/ Hải Quân năm 1959, tôi mới biết anh Kinh và người bạn thân khác, cùng lớp, Lâm Văn Hiếu và Nguyễn Văn Thành đă gia nhập quân chủng Hải Quân trước tôi, từ năm 1955. Hiếu chọn ngành Trọng Pháo, Thành, Giám Lộ, anh Kinh, Vận Chuyển. Hiếu và Thành đều đă đền nợ nước: Hiếu trong Nam, Thành, ngoài Bắc (Lực Lượng Hải Tuần). Sau 5 năm dệt mộng hải hồ, anh Kinh thấy chưa thỏa chí tang bồng, muốn t́m những cảm giác mạnh hơn, những công tác khó khăn hơn, và nguy hiểm hơn: Anh muốn đùa giỡn với tử thần, anh muốn trở thành Người Nhái.

Năm 1960, anh t́nh nguyện ghi tên đi học khóa Người Nhái và được gởi đi Đài Loan huấn luyện để trở thành một trong những Người Nhái đầu tiên của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Anh Kinh mà đi Người Nhái th́ đúng quá rồi, v́ anh có đủ yếu tố cần thiết để trở thành Người Nhái: Thông minh, khỏe mạnh, dẻo dai, chịu đựng, nhẫn nại, hiền nhưng can trường và cương quyết, có biệt tài bơi lội, lặn sâu và lặn xa...Và anh đă thành công. Anh đậu hạng nh́ (Lê Quán Thủ Khoa) trong khóa huấn luyện Người Nhái tại Đài Loan. Anh đă trở thành Người Nhái như ước mơ của anh.

Năm 1962, không ảnh của t́nh báo cho biết có 6 chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt, chia làm 2 toán, mỗi toán 3 chiến hạm thay phiên nhau hoạt động và nghĩ bến. Do đó thường xuyên có một toán gồm 3 chiến hạm đậu nghĩ bến tại quân cảng Quảng B́nh, bên trong Ba Đồn, sông Gianh. Người Nhái được lệnh đặt chất nổ phá hủy 3 chiến hạm đậu nghĩ bến. Một chương tŕnh huấn luyện và thực tập đặc biệt về ḿn chống chiến hạm và kỹ thuật sử dụng được thực hiện tại Đà Nẵng. Việc tuyển chọn Người Nhái thích hợp cho chuyến công tác bí mật nầy đă được Sở Khai Thác Địa H́nh, trực thuộc Phủ Tổng Thống, thi hành hết sức kỷ lưỡng và gắt gao: Anh Nguyễn Văn Chuyên được chỉ định chỉ huy tổng quát, hướng dẫn 3 Người Nhái khác được tuyển chọn cho công tác đặc biệt này gồm có: Nguyễn Văn Tâm, Lê Văn Kinh và Nguyễn Hữu Thảo. Chương tŕnh huấn luyện và thực tập chỉ chấm dứt sau khi mỗi người trong toán đều thông suốt cách sử dụng loại khí giới hết sức lợi hại này. Tuy đi chung một toán, nhưng mỗi Người Nhái đều có riêng mục tiêu của ḿnh đă được chỉ định trước, cũng như v́ lư do an ninh cá nhân, mỗi người đều có trang bị riêng và chỉ Người Nhái đó chịu trách nhiệm việc sử dụng và điều chỉnh trang bị của ḿnh chứ không ai khác được kiểm soát hay đụng tới. Cũng giống như nhảy dù điều khiển, người nhảy phải tự xếp dù của ḿnh, chứ không để ai được đụng tới.

Tháng 5, năm 1962, toán Người Nhái sẵn sàng và lên đường, nhưng chiếc ghe chở toán Người Nhái đi công tác bị phát giác, lộ hành tung, phải trở về căn cứ. Độ một tháng sau, tháng 6, năm 1962, toán Người Nhái của Anh Chuyên được lệnh thi hành công tác trên. Lần này, không bị phát giác. Công tác được thi hành ban đêm. Chiếc ghe lớn chở toán Người Nhái đến cửa sông Gianh th́ dừng lại và cho ghe nhỏ hơn chở toán Người Nhái vào quân cảng Quảng B́nh, cách các chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt khoảng 100 thước th́ dừng lại. Cả 2 ghe lớn và nhỏ đều được ngụy trang giống như ghe đánh cá tại địa phương.

Ba chiến hạm Cộng Sản Bắc Việt đậu song song với nhau sát cầu tàu, ở Ba Đồn. Mục tiêu của anh Kinh là chiến hạm đậu bên trong sát cầu tàu, anh Thảo, chiến hạm thứ 2 (đậu giữa) và chiến hạm đậu bên ngoài là mục tiêu của anh Tâm. Anh Chuyên ở lại ghe nhỏ cùng với ba thủy thủ đoàn chờ đợi đón ba Người Nhái kia sau khi hoàn thành nhiệm vụ để đưa ra ghe lớn trở về căn cứ.

Sau khi nhận diện mục tiêu và kiểm soát lại lần chót trang bị của ḿnh, anh Kinh xuống nước trước, kế đến anh Thảo và cuối cùng là anh Tâm theo thứ tự mục tiêu xa gần, như vậy cả ba sẽ tới mục tiêu cùng một lúc. Cho tới giờ phút đó, mọi việc đều xảy ra như kế hoạch đă định sẵn. Kế hoạch dự trù kế tiếp là điều chỉnh thời nỗ 5 giờ sau ḿn mới nổ, để có đủ th́ giờ trở về căn cứ an toàn.

Anh Kinh hoàn tất công tác trước, rời khỏi mục tiêu khoảng 20 thước, trồi lên mặt nước để dùng hồng ngoại tuyến định hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ để rước toán của anh trở về ghe lớn sau khi hoàn thành công tác.

Th́nh ĺnh, một tiếng nổ long trời đẩy anh Kinh văng lên khỏi mặt nước, toàn thân tê dại, anh không c̣n biết ǵ nữa. Khi tỉnh dậy, anh mới biết ḿnh là tên tử tù của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo cáo trạng và nghe lóm cán bộ nói chuyện với nhau trong lúc bị lao tù, anh Kinh cho biết như sau: V́ lư do kỹ thuật, sau khi được đặt vào mục tiêu như đă định, trái ḿn của anh Thảo nỗ liền tức khắc (thay v́ phải 5 giờ sau mới nỗ) anh Thảo chết banh xác tại chỗ, cả ba chiến hạm cùng nổ tung và ch́m theo xác anh Thảo. Sức nổ của 3 quả ḿn cùng nổ một lượt đẩy anh Kinh, ở cách đó khoảng 20 thước, văng lên khỏi mặt nước và làm anh bất tỉnh. Anh c̣n sống quả là phép lạ. Anh Tâm lội ra xa hơn về hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ nhưng sức nổ quá mạnh nên cũng bị bất tỉnh và cũng bị bắt. Riêng chiếc ghe nhỏ, chạy về ghe lớn và lập tức rời mục tiêu, nhưng v́ tốc độ chậm, bị chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt đuổi kịp, chúng ra lệnh đầu hàng, anh Chuyên không chịu hàng, hai bên bắn nhau, nhưng nhờ hỏa lực mạnh hơn nên cuối cùng chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt làm chủ t́nh h́nh và đụng chiếc ghe lớn ch́m, chỉ một người thoát nạn nhờ núp dưới cánh buồm. Anh Chuyên và một thủy thủ đă đền nợ nước, tất cả thủy thủ đoàn c̣n lại đều bị bắt.

Ngày 30 tháng 6 năm 1962, anh Kinh bị kết án hai mươi năm khổ sai, anh Tâm bị kết án chung thân khổ sai. Thủy thủ đoàn bị kết án từ hai năm đến mười tám năm. Nhưng bản án là một tṛ hề, bởi v́ hai năm hay chung thân đều cùng chung số phận, phải ở tù từ mười bảy đến hai mươi hai năm khổ sai mới được phóng thích. Ngày 28 tháng 01 năm 1980, anh Tâm được phóng thích sau 17 năm rưỡi khổ sai. Anh Kinh được phóng thích ngày 30 tháng 6 năm 1982, đúng 20 năm khổ sai.

Anh Tâm hiện cư ngụ tại California, anh Kinh ở Florida.

Mặc dù 4 Người Nhái và thủy thủ đoàn thi hành công tác này đă đền nợ nước hay chôn vùi tuổi thanh xuân trong chốn lao tù khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt, nhưng họ không chết và không bị quên lăng, v́ họ sẽ sống măi trong ḷng của anh em Người Nhái thuộc Liên Đoàn Người Nhái Hải Quân Việt nam Cộng Ḥa và của đồng bào ruột thịt dành cho những đứa con thân yêu của dân tộc đă“VỊ QUỐC VONG THÂN”.

Đối với gia đ́nh anh Kinh, LĐNN xin giở nón cúi đầu bái phục một gia đ́nh ái quốc đă t́nh nguyện hy sinh, dâng hiến tất cả những đứa con trai của gia đ́nh cho Quân Đội để phục vụ cho Tổ Quốc, và làm tṛn nhiệm vụ của người trai trong thời loạn: “Chấp nhận hy sinh mạng sống hay một phần thân thể để bảo vệ từng tấc đất của quê hương xứ sở do tổ tiên để lại, trái ngược với bọn CS phản quốc nỡ ḷng cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang.



California, ngày Quân Lực 19 tháng 6
Phan Tấn Hưng
Người Nhái HQVNCH

hoanglan22 09-14-2019 23:41

I PHỤC VỤ PHI ĐOÀN 225
 
2 Attachment(s)
Mấy năm gần đây, mỗi khi đến gần ngày Quốc Hận, tôi thường viết một truyện ngắn như ôn lại những chuyện thương đau của cái ngày oan nghiệt nầy. Lần nầy tôi lại chọn cái đề tài “Tôi phục vụ Phi Đoàn 225”. Phải nói là khó viết quá. Đây như là một bài viết như kể chuyện thôi mà, sao tôi bảo là khó ? Xin thưa khi viết về đề tài nầy bắt buộc phải nói đến nhiều đến cái tôi mà ai cũng biết “ Le Moi est haissable ” thôi th́ tôi cố gắng đừng để cái 'Tôi' của ḿnh bị ghét nhiều, có vậy mới là thành công được .



Tôi đến PĐ 225 vào tháng 10 năm 1970, sau khi tôi phục vụ một PĐ ở Cần Thơ hơn một năm với số giờ bay trên 1,300 giờ. Kể ra lúc đó tôi cũng có thớ lắm v́ PĐ 225 mới thành lập, chỉ có một số ít các anh đă từng bay cho PĐ nào đó trước khi về đây, c̣n phần lớn là các hoa tiêu mới, họ nhập ngũ vào năm 1968 và ra trường vào thời điểm nầy nên được bổ sung vào đây. Giai đoạn nầy phi đoàn đóng tại phi trường Sóc Trăng cũng là quê hương của tôi. Tôi được cấp một cái pḥng nhỏ gần pḥng hành quân PĐ để có chỗ ngủ khi trực bay đêm, hoặc tạm nghĩ ngơi trong khi chờ phi vụ.

Đêm đến, tôi về trú ngụ nhà mẹ tôi ngoài phố. So với các anh em khác tôi sướng hơn nhiều v́ có nước sạch để tắm gội mỗi ngày chứ không như ở trong căn cứ, nước bị phèn rồi c̣n khổ hơn nữa là khi có, lúc không. Cái chuyện nầy làm ai cũng thắc mắc không hiểu tại sao, căn cứ nầy trước đây do Mỹ đóng quân, ai cũng biết người Mỹ luôn đặt nặng lên hàng đầu cái vụ phải có nước sạch trong đơn vị của họ cho dù bất cứ nơi đâu, thế mà qua tay Việt Nam chỉ một vài tháng thôi, th́ t́nh trạng thiếu nước tồi tệ đến như vậy.

Theo chu kỳ th́ tôi bay 5 ngày và được nghĩ dưởng sức 3 ngày, vào ngày nghĩ nếu có tiền tôi dong về SG du hí xem phim như các anh em khác, c̣n khi cạn tiền th́ về nằm nhà bà cụ ăn bám, như vậy cũng xong. Nói vậy chớ, lúc ở Sóc Trăng tôi đở khổ nhiều lắm nghen, nhờ có mẹ và hai bà chị chu cấp thêm nên trông tôi mập mạp ra, bởi v́ sáng nào cũng được ăn sáng đàng hoàng, khi th́ cơm tấm b́, cơm cà ry khi th́ hủ tiếu, ḿ, phở hoặc điểm tâm kiểu chú Ba: bánh bao, xíu mại, há cảo v.v..trước khi xách nón đi bay. Chiều tối th́ được bạn bè tới kéo đi nhậu.



Tôi c̣n rất nhiều bạn cũ tại đây, hầu hết là bạn học thuở nhỏ, bây giờ phần lớn chúng nó làm việc tại Tiểu Khu, ty Cảnh Sát và ṭa Hành chánh tỉnh, rồi cộng thêm gần một chục ông bạn học gốc người Hoa nữa chi, họ là lính kiểng, lính ma ǵ là chuyện mấy ổng, được cái là mấy ổng có lắm địa nhiều tiền, nhậu với mấy ổng luôn là rượu dư thịt thừa, đă không chỗ chê. Nói vậy chớ tôi cũng biết kềm chế bản thân, như hôm nào sáng phải đi bay sớm th́ đêm trước đó tôi nhậu ít lại, khoảng 10 giờ đêm th́ rút lui về ngủ, chỉ khi nào ngày nghĩ mới dám xả láng, sáng về sớm.

Bây giờ xin kể sơ lượt về chuyện bay bổng lúc nầy nhé, thời gian nầy Sư đoàn IV/KQ có 4 phi đoàn trực thăng để yểm trợ cho Quân đoàn IV gồm: 16 Tiểu khu, 3 sư đoàn chủ lực và một Biệt khu tương đương với cấp sư đoàn, bộ Tư lệnh Biệt khu thường chỉ huy hay điều động các lực lượng Tổng trừ bị được biệt phái đến đây, khi là một Lữ đoàn TQLC, khi th́ một vài Liên đoàn BĐQ. Bốn phi đoàn trực thăng chia làm 2 team, nghĩa là 2 phi đoàn vào một team. Phi đoàn của tôi lại chung team với Đệ nhất PĐ 211, ở chung team với đại ca nầy th́ cũng đă thiệt, không biết đại ca có áp phe ǵ với Quân đoàn hay không, hay lấy l‎ư‎ do tiết kiệm xăng, khỏi phải bay tŕnh diện (T.O.T) nơi xa, thành thử đại ca luôn được yểm trợ phía bắc sông Hậu giang và vùng biên giới Miên-Việt do Biệt khu 44 đảm trách. Thằng em 225 phải yểm trợ phía nam sông Hậu nên ngày ngày : khi th́ tŕnh diện ở Vị Thanh, lúc th́ xuống Cà Mau Bạc Liêu vào ra U Minh Thượng, U Minh Hạ thấy toàn là rừng tràm, rừng đước hoặc rừng dừa nước, không có ǵ vui cả .

Có những địa danh mà người dân thị thành biết được qua tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Dương Hà, Sơn Nam như là : G̣ Quao, Chắc Băng, Cạnh Đền, Giồng Riềng, Miệt Thứ, Kinh Trèm Trẹm, Cán Gáo, Thái B́nh, Tân Bằng, Đầm Dơi, Cái Nước, Năm Căn, sông Gành Hào, sông Ông Đốc v.v…. chớ c̣n anh em chúng tôi th́ tới những nơi ấy hà rầm như ăn cơm bữa. Lại có những nơi thật vô cùng nguy hiểm, bay vô đó thật là hú vía, kinh hồn chẳng hạn như vùng ‘VC Lake’, nằm phía tả ngạn sông Ô.

Đốc, cách con sông lớn nầy chừng 2 miles và cách quận Sông Ô. Đốc ở hướng tây chừng khoảng 10 miles, cái hồ nầy khá lớn và đẹp giống như cái hồ Possum Kingdom ở Mineral Wells của tiểu bang Texas mà tất cả phi công trực thăng đều biết v́ là gần trường bay Fort Wolters. Sở dĩ tôi nói ‘nguy hiểm’ là v́ nơi đây Việt cộng nhiều vô số kể, chính cái tên ‘VC Lake’ là do phi công Mỹ đặt ra đấy, chớ anh em 225 âu yếm gọi tếu là ‘Hồ bao tử kh́a’.

Nếu bạn được dịp bay chiếc vơ trang, bạn có dịp bay rà sát ngọn cây vùng nầy, bạn sẽ thấy phía dưới không c̣n một khoảnh đất nào gọi là lành lặn cả, toàn là vũng rộng hố sâu bởi do bom, đạn đại pháo tạo nên và nếu tiếp tục bay nữa thỉnh thoảng bạn bắt gặp đủ loại thân xác trực thăng bị bắn rơi tại đây như loại : trứng vịt OH6, cụ ông H-34, UH1B, trái chuối H-21 với hai hệ thống rotors trên nóc giống như Chinook và có cả loại phi cơ cánh quạt Cessna, L19. Chiếc th́ sứt gọng, găy càng, chiếc th́ chỉ c̣n lại cái đuôi hay cái cánh, chiếc th́ bị cháy thành đống sắt vụn, chỉ thấy thôi th́ cũng đủ làm bạn đái són ra quần. Chúng tôi cũng cống hiến nơi đây một chiếc vơ trang nằm phía nam cái hồ nầy lối chừng ba dậm, tức là phía bắc của Chi khu Hải Yến độ chừng 5 dậm.

Nhưng rồi như một phép lạ, cuối cùng chúng tôi cũng được luân phiên yểm trợ phía bắc sông Bassac như các PĐ đàn anh, nguyên do là : ông anh 211 đụng phải mặt trận Kompong Trạch, đây là một trận chiến lớn, địch quân hằng cả một Sư đoàn bao vây 3 tiểu đoàn BĐQ (đây là BĐQ biên pḥng) và một thiết đoàn M113 của quân ta, v́ vậy Quân đoàn tăng cường thằng em 225 đến giúp ông anh 211 và sau đó họ thấy thằng em nầy làm cũng được việc quá đi chớ, cho nên kể từ đó 225 có mặt tất cả chiến trường từ nội địa đến ngoại biên giống y những PĐ kỳ cựu. Là hoa tiêu trực thăng (phải kể luôn cả phi hành đoàn nữa mới được, không thôi hai ông em ngồi phía sau cự nự là phiền lắm đó) th́ phải chấp nhận hằng bao cái bất trắc, hiểm nguy đang đón chờ, nội cái tội : tấm thân sồ sề, bay chậm và thấp th́ coi như là tấm bia tập bắn cho đối phương rồi.

Bạn tôi và tôi đă từng nếm trải đủ loại súng đạn của quân thù từ bích kích pháo 61, 82 hay hỏa tiễn cầm tay B40, 41 tại băi đáp, rồi loại súng nhỏ như AK 47, CKC, loại trung liên, đại liên rồi thượng liên RPD, pḥng không 12 ly 8 và loại hỏa tiễn tầm nhiệt địa đối không SA-7. Được sống được tới giờ nầy, chắc là nhờ cái phước đức quá lớn của ông bà, ông văi để lại.

Vào đầu năm 1973, PĐ được dời về Cần Thơ. Chiến trường vùng I và vùng II bắt đầu thật sôi động, các lực lượng Tổng trừ bị được lệnh rút ra khỏi vùng IV để tăng cường cho các vùng I và II. Dù vậy Quân đoàn IV vẫn giữ vững t́nh h́nh, có lẽ là nhờ các chiến sĩ Quân đoàn IV rất siêng năng hành quân tảo trừ, luôn bẻ găy những chiếc đũa lúc c̣n riêng rẽ của cộng quân trước ‎‎cái ư ‎đồ gom lại thành từng bó lớn của chúng và t́nh trạng yên tỉnh tốt đẹp của vùng IV vẫn tiếp tục kéo dài cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Vào đầu tháng 3 năm 1975, PĐ 225 c̣n tăng phái cho Sư đoàn VI/ KQ tại Pleiku có nghĩa là PĐ chúng tôi c̣n góp mặt chiến đấu cùng với Quân đoàn II chống lại giặc thù chung nữa đấy.

Chiến trường mỗi ngày thêm khốc liệt sau khi đồng minh rút đi. Tôi càng ở lâu trong quân ngũ tôi càng hư đốn. Tứ đổ tường : Tửu, sắc, tài, khí th́ tôi làm đổ mẹ hết 3 bức tường rồi, chỉ chừa lại cái bức tường thứ tư là nằm thủ cây Bazoka bắn khỉ hay hít cocaine th́ tôi chưa dám thử. Cái tôi mê nhất là Tửu v́ nó giúp tôi dễ ngủ, thêm can trường, dũng cảm để mỗi ngày phải bay ra mặt trận. Và rồi cũng chính cái tánh nết bê tha phóng túng khiến tôi mắc nợ như chúa chổm. Những hàng quán gần quanh khu cư xá độc thân đều cho tôi ăn nhậu “À la ghi”.

Để coi tôi nợ ai, nếu tính con đường từ pḥng hành quân cũ đến cuối khu cư xá SQ độc thân th́ : xe bánh ḿ thịt của bà phi đoàn phó, tôi nợ nơi đây năm bảy bao thuốc lá 555 mỗi tháng; kế đến là quán anh chị Hưng râu, tôi nợ hơi nhiều cũng bởi anh Hưng biết tôi từ lúc ở quân trường Nha Trang nên anh chị cho tôi ghi sổ ‘líp ba ga’, trong quán nầy c̣n có ‘gian hàng’ của chị Tần. Xin phép chị, đùa với chị một chút cho vui chớ chị Tần làm ǵ có được gian hàng, chẳng qua là một quang gánh được ông bà Hưng râu thương t́nh cho đặt trong một góc xó xỉnh, bên nầy gióng chị có cái nồi nhôm to đặt trên hỏa ḷ để hâm nóng sản phẩm của chị, bên kia gióng chị bày trí nào là tô, đũa, lọ tương ớt, hũ tiêu đen, chai nước mấm, thau rửa tô bát, khăn giẻ lau khô v.v…

Món ăn của chị được thay đổi luôn khi th́ cháo cá, cháo vịt khi th́ bánh canh, hủ tiếu v.v…Chị nấu không ngon lắm nhưng được cái là giá cả rẻ mạt, chỉ chừng 1/3 đến nửa giá tiền nếu so với các quán ăn dưới dốc cầu B́nh Thủy, chính v́ thế gánh hàng của chị luôn hết sạch vào lúc 10 giờ sáng mỗi ngày. Chị Tần có gương mặt chơn chất, thiệt thà của phụ nữ miệt vườn miền Tây, chị luôn nói cười hệt hạt với mọi người nên tạo cho người đối diện có cảm nhận là chị rất dễ mến, v́ vậy tên ‘chúa chổm’ nầy chưa dám ăn thiếu nơi gánh hàng của chị. Quán kế tiếp là ‘Sơn Sỏi Đá’, quán nầy bán giống y chang như quán anh chị Hưng, nghĩa là chủ yếu vẫn là cà phê, nước ngọt, sinh tố giải khát, trong quán cũng có nhạc xập x́nh từ chiếc máy ‘AKAI reel to reel’ và kèm theo vài món ăn sáng dễ làm như xôi mặn, bánh ḿ kẹp thịt hay bánh ḿ trứng chiên ‘ốp la’.

Họ c̣n giống nhau ở cái 'mode' tăng cường thêm một vài cô em họ hàng bên vợ, bưng nước dọn bàn bẹo h́nh bẹo dạng để thu hút khách hàng. Tôi ít khi lui tới quán ni, l‎‎ư do là không có ǵ khác biệt so với quán anh Hưng, c̣n l‎‎ư do chánh nữa là ḿnh đang ghi sổ bên quán anh ấy, lại chui vào quán nầy th́ coi sao đặng. Quán cuối cùng trên con đường nầy là quán ông bà Tr/u Phương, ối giời ơi cái quán nghèo ơi là nghèo, vỏn vẹn hai chiếc bàn cây nhỏ và tám chiếc ghế đẩu con. Ông bà nầy chỉ bán bia và nước ngọt thôi, đồ nhấm để nhậu bia có mỗi món tôm khô củ kiệu ngoài ra không c̣n thứ ǵ khác.

Tôi bày cho bà Phương là nên mua thêm vài loại cá khô như : khô cá đuối, mực, cá kèo, cá khoai v.v…rồi pha luôn một keo nước mắm tỏi ớt có điểm dưa chua như củ cải, củ sắn, cà rốt xắt que tăm và bán thêm rượu thuốc, rượu nếp than hoặc rượu đậu nành v.v… ít ra phải như vậy mới lôi kéo được nhiều người. Tôi hỏi đùa bà ấy “Có cho tôi ghi sổ không ?” Bà vui vẻ trả lời “Được chứ, nhớ khi lănh lương anh phải trả cho em trước à nghen”.

Đùa vậy thôi, chớ thấy cái khó khăn của ông bà nầy, ai nở ghi sổ. Các quán tôi vừa kể chỉ là quán để bạn ăn vặt hay uống nước giải khát thôi, c̣n muốn ăn cơm trưa th́ phải vào quán Đ/u Thông cũng ở gần đó. Đúng ra‎ chúng tôi ăn cơm ở câu lạc bộ Cửu Long nhưng trở ngại là đi bộ quá xa, vậy th́ chui vào quán cơm phần của ông Thông coi như là thượng sách, đó là chưa kể anh ấy cho bạn ăn ghi thỏa mái, thật thích hợp với tôi. Các quán ăn sáng ăn trưa coi như tôi kể đă xong, bây giờ nói qua quán nhậu, tôi tâm đắc nhất là quán Song Mă của Tr/u Ba Lang ở ngoài cổng phi trường, nơi nầy khá khang trang, nhiều món ăn tương đối hấp dẫn dân nhậu, cũng v́ thế mà tôi nợ ở nơi nầy hơi nhiều đấy.

Mỗi cuối tháng sau khi thanh toán nợ ăn nhậu chịu, tiền lương của tôi c̣n lại chừng một phần ba, hoặc nhiều lắm là gần một nửa, vậy làm sao đủ sống cho hết tháng? Thôi th́ ḿnh tự an ủi : ‘Trời sanh voi th́ sanh cỏ mà’, không thấy trong Kinh Thánh, Chúa Kitô dạy sao : "Loài chim Sẻ nào có biết để dành để dụm được hạt thóc nào đâu, thế mà Đức Chúa Trời đâu có để chúng nó chết v́ đói". Vậy th́ ta hơi sức đâu mà lo cho hao gầy thân xác.
Phần tiếp theo cũng là đoạn cuối bài viết nầy chắc tôi phải nhắc vài chuyện vào những ngày cuối cùng tại Quân đoàn IV cũng như tại PĐ 225 . Vào tháng Tư (năm 75) t́nh h́nh chiến sự vô cùng ác liệt, phần thua thiệt đă nghiêng hẵn về phía VNCH. Hai Quân đoàn I và II tiêu tan và triệt thoái, lănh thổ Quân khu III phải thu hẹp lại, pḥng tuyến xa nhất (Xuân Lộc) chỉ cách Thủ Đô Sàig̣n chừng lối 60 dậm (100 kilometres), nơi đây Sư đoàn 18 và vài đơn vị Tổng trừ bị đang dũng cảm chiến đấu để ngăn chận cơn sóng bạo tàn của cộng quân đang vỗ ập về phía nam.

Dù vậy Quân khu IV vẫn c̣n kiểm soát được, nói chung tinh thần chiến đấu của binh sĩ nơi đây chưa suy sụp, tất cả quân nhân đều hớt tóc ngắn gọn theo lệnh của Tướng Nam, răm rắp thi hành mọi chỉ thị của thượng cấp giao phó, sẵn sàng trực diện với quân thù nhất là bằng mọi giá phải giữ an ninh cho bằng được quốc lộ 4 đó là con đường huyết mạch tiếp tế về thành đô. Nhưng than ôi, trung tuần tháng Tư th́ pḥng tuyến Long Khánh bị chọc thủng, cộng quân ráo riết tiến nhanh về Thủ đô nhưng gặp nhiều ổ kháng cự của quân ta làm chậm bước của chúng, phi trường Biên Ḥa bị chúng nă pháo dữ dội, tất cả phi cơ đều phải di tản.

Ngày 29 tháng 4 phi đội II của tôi lên ca chánh, chúng tôi thi hành phi vụ 'package nhẹ' : 1-2-2 (1 C&C, 2 slicks, 2 gunships) làm việc cho Tiểu khu Sóc Trăng, đến 5:30 pm chúng tôi được họ 'released'. Trên đường về chúng tôi nghe rơ mồn một trên tần số FM Emergency, ôi thật là ồn ào kinh động, họ gào hét inh ỏi y như là cảnh mổ heo hay nhóm chợ ở miền quê, kẻ nói tiếng Mỹ người nói tiếng Viêt, họ báo cáo bị emergency, kẻ hỏi : Đệ thất hạm đội HK hiện ở tọa độ nào ? Người hỏi : lấy heading mấy, nếu bay từ Phú Quốc qua Utapao ? Kẻ hỏi : liệu khi đáp ở Côn Sơn có chắc là có tàu rước ḿnh đi không ? v.v..và v.v…

Những âm thanh đối thoại nầy không khỏi làm hoang mang xôn xao thêm cái tâm tư của anh em chúng tôi, mà nỗi ưu tư nầy vốn có sẵn cách đây vài tuần khi mà lănh thổ VNCH chỉ c̣n lại một nửa. Liệu rồi đây có giải pháp nào cứu văn t́nh h́nh nầy được chăng ? Đất nước chúng ta sẽ ra sao ? C̣n tương lai của chính ḿnh nữa ? Lại c̣n thêm cái tin Hoa kỳ có kế hoạch di tản gia đ́nh của những người làm sở Mỹ và vợ con mấy ông tướng tá thuộc hàng sĩ quan cao cấp của Quân đội VNCH.

Vậy ta nghĩ sao về mấy cụ tướng tá nầy, họ có c̣n tinh thần chiến đấu nữa không ? Hay mấy cụ cũng đang tính đường “vọt” theo vợ con ? Chắc là chúng ta đă có câu trả lời cho câu hỏi nầy, bởi chính chúng ta đặt ra mà. Hàng ngày h́nh ảnh và tin tức được báo chí đăng tải ở trang đầu về những trại tỵ nạn dă chiến do Mỹ thiết lập để tiếp nhận người tỵ nạn như Utapao ở Thái Lan, Subic Bay ở Phi Luật Tân, trại Asan và trại lều vải Orote Point tại đảo Guam, Trại ở Wake Island v.v…Tất cả các tin tức trên đă tàn nhẫn kết hợp lại làm nản ḷng người vô vạn, và tạo ra muôn ngàn câu hỏi dồn dập bủa vây trong tâm trí mọi người. Rồi từ đó những lần đi bay chung một hợp đoàn, các anh đâm ra biếng nói ít cười, không c̣n chọc phá, kể chuyện tiếu lâm hay trêu cợt nhau trên radio như lúc trước nữa.

Bỗng tôi nghe giọng anh Th. trong hợp đoàn hỏi tôi qua làn sóng VHF nội bộ : “Anh định thế nào hả anh Q ?”. Đang mơ mơ, màng màng theo dơi diễn biến trên FM thế mà nghe câu hỏi nầy, tôi tỉnh lại ngay, không phải suy nghĩ tôi trả lời dứt khoát : “Tôi không tính ǵ cả, đơn vị ḿnh c̣n nguyên vẹn, tôi không hề có ‎ư định đào ngũ đi trước, tôi không thể phản bội anh em”. Và rồi cả 5 chiếc về đáp phi trường B́nh Thủy lúc gần 6 giờ chiều, tất cả 20 anh em vào pḥng hành quân, 5 anh hoa tiêu phó làm bổn phận ghi báo cáo giờ bay vào quyển sổ Phi Vụ như thường lệ, sau đó các anh em chia tay về nghỉ.

Tôi gặp anh A. trong phi đội của tôi tại nơi đây, A. bảo tôi tối nay đến pḥng hắn, hắn có chuyện cần nói với tôi. Tôi uể oải phóng xe Honda về nhà ḿnh trong khu cư xá Hoàng Hoa III ở ngoài cổng phi trường. Bước xuống nhà sau tôi thấy nước mưa đầy cả hồ chứa th́ khoái lắm, đó là nhờ cơn mưa lớn vào tối hôm qua, thời gian nầy là bắt đầu mùa mưa ở miền Nam và kéo dài trong suốt 6 tháng liền, ngày nào trời cũng u ám chuyển mưa trông thật ủ dột, buồn thảm tưởng như thương xót khóc than cho số phận hẩm hiu của miền nam sắp rơi vào tay cộng sản chăng.

Tôi cởi áo bay ra, tắm một phát rồi mặc y phục ‘civil’ vào, cảm thấy ḿnh khỏe ra và rồi bao tử bắt đầu làm eo, thôi th́ cuốc bộ đến quán Song Mă kiếm cái ǵ ăn vậy, ḿnh đang có tiền mà (Hôm nay tôi gặp anh tôi tại ṭa Hành chánh ST, ảnh dúi vào túi tôi một ít tiền). Trên đường đi đến đó phải đi ngang nhà ông Tư Ch., Tôi định nếu thấy ổng ở trước nhà th́ rũ ổng nhậu với ḿnh vài chai bia cồ cho vui, nói vậy chớ khó gặp ổng lúc nầy v́ ổng mới rước bà từ SG xuống. Bây giờ đă no rồi, tôi lưỡng lự chưa biết làm ǵ đây, vào PĐ gặp ông A. chăng, tôi nghĩ chắc không cần thiết lắm đâu, tôi đoán là hắn muốn báo cho ḿnh biết nội dung của buỗi họp Tham mưu vào tối đêm qua mà ḿnh v́ bận nên phải nhờ hắn đi họp thay, nếu có vậy th́ ngày mai gặp hắn cũng được, dù sao sáng mai ḿnh cũng phải vào PĐ sớm v́ ngày nầy : phi đội tôi xuống ưu tiên II tăng cường nên rất có thể tôi có tên đi bay vào lúc sáng sớm.

Vậy th́ quyết định nằm ở nhà lấy quyển ‘Thiên Long Bát Bộ’ ra đọc tiếp. Dạo nầy tôi rất khoái đọc chuyện chưởng, đó là cách tránh cho đầu óc ḿnh không phải suy nghĩ nhiều về thời cuộc, dẫu biết rằng ḿnh chỉ là hạng tép riu, cấp thừa hành bé tí tẹo th́ có giải quyết được chuyện ǵ đâu nà, nhưng trước t́nh thế nầy th́ đố ai giữ cho đầu óc ḿnh được thanh thản vô tư ? Tôi không biết thiền, vậy th́ đọc tiểu thuyết kiếm hiệp, đó là cách ru tôi vào giấc ngủ dễ dàng thôi.

Sáng hôm nay tôi đă có mặt tại pḥng hành quân rất sớm, tôi thấy Th/ tá Đ. đă ở đó rồi, tôi đến chào ông th́ được ông cho biết : “Đêm rồi Vc pháo kích vào thành phố Cần Thơ, hai chiếc gunships của ḿnh phải bay suốt đêm. Vậy tôi muốn đích thân anh và anh cắt thêm một phi hành đoàn (PHĐ, crew) chiếc số hai nữa, lên thay thế hai PHĐ trên đó, để họ về nghỉ”. Lệnh lạc của ông Alpha như vậy th́ làm kẹt tôi quá, v́ nguyên tắc th́ phi đội nào lên ca chính th́ họ mới có quyền cắt bay. Như tôi đă nói ở trên là hôm nay phi đội của tôi đă xuống ưu tiên hai rồi, nhưng mà : Nhà binh, lệnh là phải thi hành, chuyện khiếu nại là sau.

Tôi nh́n lên bảng phi vụ : Crew của tôi và crew anh S. nằm ở cuối bảng trực bay, thế là tôi sẽ dùng hai crew nầy, c̣n chút thắc mắc là tôi không biết 2 ông cơ phi, 2 ông xạ thủ của 2 crew nầy có bay được gunship không, điều đó tôi phải check lại ông Ch/úy trưởng toán của họ và cũng nhờ ổng điều động họ phải có mặt pḥng hành quân trong 15 phút nữa, đồng thời tôi nhờ ông sĩ quan trực xuống cư xá thông báo đến 3 ông hoa tiêu có tên trong hai crew nầy lên đây gắp, rồi xe pick-up truck chở xuống cư xá văng lai Hồng Lạc.

Tôi phóng xe Honda đến đó trước để bàn giao. Tôi trông thấy tám ‘người hùng’ có vẻ cũng mệt mơi, tôi nói “Thôi các ông chuẩn bị đi về nghỉ, chúng tôi sắp lên đây thay thế các ông theo lệnh ông Alpha Đ.” Tám ông nầy c̣n muốn tiếp tục bay nữa nên họ bảo tôi :“ Các ông cứ 'ground alert' tại PĐ, khi nào mệt, tụi nầy sẽ gọi về, chừng đó các ông sẽ lên thay”. Tôi chào các ổng rồi về lại PĐ, chắc mọi người hiểu rồi đấy : thời gian nầy mà có con tàu trong tay th́ dễ dầu ǵ các ổng chịu nhả ra. Về tới pḥng hành quân tôi thấy bảy anh em sẵn sàng lên xe truck, tôi bảo họ “Thôi, không phải đi đâu hết, hai crew của bọn ḿnh tạm thời cứ trực 'ground alert' tại PĐ, khi nào mấy ông trên đó muốn về th́ ḿnh sẽ lên thay, bây giờ có thể giải tán”. Tôi cũng dặn ông SQ và HSQ trực hăy gọi chúng tôi lên thay thế, khi nào các ông trên đó muốn về.

Xong xuôi tôi đi qua văn pḥng của Th/tá Đ. báo cho ông biết chuyện giao ước giữa các crew của chúng tôi. Ông Đ. nói : “Như vậy cũng được, tôi c̣n một chuyện nữa là nhờ anh điểm danh anh em thật kỹ lúc 9:00 sáng nầy cho tôi”, rồi ông nói thêm : “Đây là lệnh của Sư đoàn, ai vắng mặt không l‎ư‎ do th́ bảo ban Văn thư báo cáo đào ngũ”. Tôi đáp : “ Thưa, vâng ” chào ông, rời khỏi nơi nầy. Lại là một chuyện khó cho tôi nữa đấy, v́ theo thông lệ : Điểm danh là nhiệm vụ của phi đội nào xuống ưu tiên III nghĩa là phi đội đang nghĩ xả hơi tại đơn vị hoặc sắp đi phép.

Mà thôi, Sếp bảo tôi làm, th́ tôi làm, nhà binh mà. Cũng xin nói thêm mấy tháng gần đây không hiểu sao Sếp có vẻ chiếu cố tôi hơi ‘kỹ lưỡng’ như : cách đây hơn một tháng, ông bảo tôi lấy xe truck qua PĐ 217 bên phi trường 31 mượn đỡ mấy trăm hộp thực phẩm khô (C ration) về phân phát cho anh em đi tăng phái miền Trung, rồi lần khác ông bảo tôi xuống khu tiếp liệu k‎ư‎ mượn 12 chiếc giường sắt có luôn nệm, đem đặt trong cái Shelter ngoài phi đạo để anh em có chỗ ngũ khi đến đây trực đêm (trực dời tàu qua phi trường 31, khi căn cứ nầy bị tấn công), cũng may cho tôi : mấy chiếc giường đó chưa bị ai chôm chọt, chớ nếu mất một cái thôi, tôi phải đền thấy m..., toàn là những chuyện không phải nhiệm vụ của tôi.

Bây giờ tôi phải trở lại pḥng hành quân, nhờ SQ và HSQ trực thông báo dùm anh em là có cuộc điểm danh bất thường và rất quan trọng vào lúc chín giờ, yêu cầu mọi người phải có mặt đầy đủ. Sau đó, tôi về pḥng nghĩ một chút, v́ sáng tới giờ cứ làm chuyện ǵ đâu không.

C̣n chừng năm ba phút là đúng 9 giờ, tôi trở lại pḥng hành quân với cái danh sách nhân viên 225 trong tay, gần như tất cả mọi người đều có mặt tại pḥng họp. Đúng 9 giờ hai ông Th/tá Đ. và Ch. bước vào, tôi đứng lên chào và hô to :"Tất cả..vào hàng .. phắc", mọi người trong pḥng họp đều đứng lên nghiêm trang chào đón hai ông ấy, sau đó lại hô : "Tất cả…ngồi”, anh em ngồi xuống, tôi bước tới bục, quay mặt xuống đưa tay lên chào tất cả mọi người.

Trước tiên tôi cho anh em biết tại sao có cuộc điểm danh đặc biệt nầy, tôi lập lại y chang những lời sếp Đ. nói với tôi lúc năy và sau đó là điểm danh. Xong phần điểm danh, tôi hỏi hai vị Th/tá nầy có cần nói ǵ với anh em không, Sếp Đ. đứng lên tiến về phía bục, tôi lại chào tất cả pḥng họp lần nữa, rồi đi xuống ghế ngồi. Hôm nay Th/tá Đ. nói năng thật nhỏ nhẹ, ông khuyên anh em : "Đừng có dại dột mà lặn vọt lúc nầy, chính người ngoài phố họ c̣n muốn vào trong đây mà không được, nơi nầy chúng ta có sẵn tàu bay trong tay, nếu có lệnh di tản th́ chúng ta sẽ cùng đi v.v…".

Đến đây phần điểm danh sáng nầy coi như đă xong, tôi làm thủ tục để tiễn hai ổng đi ra, sau đó pḥng họp giải tán, tôi trả lại cái bản danh sách cho ban văn thư. Vừa bước ra cửa tôi gặp anh H. ở mái hiên, anh và tôi tṛ chuyện cũng khá lâu, anh cho tôi biết : nếu có chuyện di tản th́ anh sẽ không đi đâu, anh chỉ muốn trở về quê của anh ở CĐ. Đứng lâu, tôi thấy hơi mỏi chân nên rũ anh vào quán Hưng Râu uống cà phê, H. từ chối v́ anh muốn qua khu cư xá 211 để thăm vài người bạn bên đó.

Bây giờ đă hơn 10 giờ sáng, tôi đi đến quán anh Hưng, tôi thấy các bạn Đ., L., Q., H.Indian, T.(Flight II) có mặt ở đây nên tôi tấp vô bàn của họ để ngồi tán gẫu giải khuây, gọi luôn cho ḿnh một cà phê filtre có đá có đường. Khoảng 10:30 sáng, anh Hưng chủ quán hớt hải mang tới bàn chúng tôi một cái radio cassette đang nói tin tức lỡ dở, Hưng nói: “Các ông nghe kỹ đi, Tổng Thống Minh Cồ đă tuyên bố đầu hàng rồi”, sáu đứa chúng tôi chưa nghe được ǵ v́ ông nói sắp xong rồi, tiếp nối là một bản hùng ca.

Kinh nghiệm xưa nay cho ta thấy trong những lần có biến loạn như đảo chánh, chỉnh lư ǵ đó, th́ đài phát thanh thường hay xen kẽ giữa những huấn thị, hiệu triệu của tướng lănh bằng một bản nhạc hùng ca. Vậy phải đợi xong bản nhạc nầy th́ chắc họ sẽ ‘playback’ hiệu triệu của ông Minh. Đúng vậy, giọng ông Minh thật là monotone, ông nói rất từ tốn chứ không giống như giọng của một vị tướng lănh, tôi chỉ nhớ đại khái ‘…kêu gọi QL/VNCH hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng miền Nam VN…từ trung ương đến địa phương trao lại cho chánh phủ cách mạng lâm thời miền Nam VN ’.

Thế là hết, nỗi uất hận đă hằn lên gương mặt mọi người, muốn khóc mà khóc không được. Tôi uể oải đứng lên định đến quầy trả tiền, anh Hưng chận lại, anh nói : “Coi như tôi đăi các bạn lần cuối”. Thật ra ổng rất muốn tất cả mọi người trong quán rời khỏi đây cho rồi, để c̣n thu xếp chuyện của ổng. Năm ông bạn của tôi trở lại cư xá, c̣n tôi th́ lên văn pḥng của hai ông Thiếu tá nầy xem hai ổng đă biết tin nầy chưa? Rồi tôi sẽ hỏi luôn các ổng : ‘Đă đến lúc chúng ta lấy tàu di tản được rồi chứ? Không lẽ các ông ngồi đây đợi họ tới bàn giao?’ Nhưng tôi không thấy ông nào ở đây cả, thôi th́ tôi trở lại cư xá với mấy bạn lúc năy. Chúng tôi đứng chụm nhum 4,5 người bàn thảo với nhau ngay phía ngoài pḥng ngủ của A. và Đ.

Chừng 10 phút sau th́ thấy Đại tá T.M.Th quá giang xe Honda của ai đến đây, nhập với bọn tôi. Hầu hết chúng tôi đều biết ông Đ/tá Th, ông hiền từ như cái tên của ông, ông đă từng giữ chức Chỉ huy trưởng căn cứ Sóc Trăng trong lúc PĐ 225 đồn trú tại đó. Ông cho chúng tôi biết : “Soleil của ḿnh (Tướng TL Sư đoàn IV/KQ) mới lên Cessna đi rồi, vậy các anh hăy tự lo liệu cho chính ḿnh.” Ông không thấy chúng tôi phản ứng ǵ, nản quá ông từ giă bọn tôi, đi bộ qua cư xá 211. Và rồi chừng 5 phút sau th́ có một chiếc tàu đang Hovering fly từ khu Parking về đến khu cư xá, tàu hover trên cao, canh ngay cái sân vuông ở giữa 4 dăy cư xá 225 rồi hạ thẳng xuống, th́ ra ông pilot đó là H.Indian, thảo nào tự năy giờ tôi không thấy mặt ổng. H. gài controls bằng 'Forced trim', rồi mở cửa bên phải phóng đi t́m vợ con. Tàu bắt đầu cḥng chành v́ H. không giảm ṿng quay của máy (Engine RPM), bọn tôi đứng cách tàu chừng 5, 6m thôi, tôi phóng tới mở cửa trái leo vào, chụp controls điều khiển, các bạn tôi cũng leo lên tàu luôn, L. ngồi vào ghế phải, tôi đợi khi nào H. đem được bầu đoàn thê tử của hắn lên phi cơ đàng hoàng th́ tôi take off, trong lúc đó lại có thêm 5, 3 ông nữa nhảy lên tàu.

Ngoài tôi và L., tổng cộng người lớn và trẻ con cũng khoảng 15, 16 người rồi, ngồi kín cả sàn tàu. Trước mặt tôi là cây trứng cá khá cao, tôi làm cái 'maneuver' : maximum take off, cũng may con tàu nầy rất mạnh nên lên khá dễ dàng nhưng vẫn khốn đốn với giây điện, cột anten TV của cư xá 211, phải luồn qua, lách lại mới ra được. Sau khi đạt được cao độ, tôi lấy heading 150 độ để bay ra Côn Sơn giống như tôi đă nghe lóm từ hôm qua. Rồi từ phía sau chuyền lên cho L. và tôi mỗi người có một chiếc helmet, L. mở tần số FM emergency, và VHF nội bộ của 225 để theo dơi, chúng tôi thấy là chúng tôi đă bay đúng hướng như những người đi trước chỉ dẫn.

Chúng tôi đáp tại phi trường Côn Sơn lúc 12:45 trưa, thấy nơi đó có 2 ṿi Fuel, chúng tôi ghé vào đổ đầy săng cái đă và theo sự chỉ dẫn của một vị Th/tá phi công trực thăng nào đó, chúng tôi đem đậu vào bên hông phi đạo, 'line up' với mười mấy chiếc đậu sẵn tại đây, sau đó chúng tôi tắt máy như những chiếc kia. Viên Th/tá gặp lúc năy lại đến tàu chúng tôi nói chuyện, ông cho biết : “Nơi đây rất an ninh, hiện tại chúng ta đang có một UH1 toàn những ông rất giỏi tiếng Mỹ đang bay orbit gần Đệ thất hạm đội để liên lạc với họ, xin họ cho chúng ta được đáp xuống Hàng không mẫu hạm. Họ trả lời, họ cần phải gọi về Washington trước mà bây giờ bên Mỹ là đêm, nên họ bảo ḿnh ráng chờ, họ tin là WA sẽ chấp nhận thỉnh cầu nầy. Chiếc UH1 đó vẫn c̣n tiếp tục bay gần họ để chờ tin, khi được tin tốt, chiếc UH1 sẽ về cho chúng ta biết ngay. Bây giờ chúng ta phải lập nhiều hợp đoàn V5 sẵn, cứ 5 chiếc vào một hợp đoàn để bay an toàn, tôi nghĩ chắc sẽ có rất nhiều trực thăng nữa bay ra đây sau khi nghe lệnh đầu hàng của ông Minh.”

Thật dúng vậy, sau đó cứ 10 hoặc 15 phút th́ có một hoặc vài trực thăng UH1 hay Chinook đáp xuống, tất cả họ đều ‘refuel’ rồi đem tàu đậu nối đuôi nhau. Tôi thấy có chiếc của ông Alpha Đ., của ông Đ., ông Nh., ông S., ông Th. v.v…Tôi mừng lắm khi thấy anh em ḿnh thoát được cũng nhiều, tôi tới thăm hỏi Sếp Đ., Sếp hỏi tôi “Có cách nào để PĐ cùng bay chung Formation với nhau không?”. Tôi trả lời : “Chắc là không rồi, nhưng Sếp đừng lo, tất cả đều đáp USS Midway ḿnh c̣n gặp nhau dài dài mà”. Tôi cảm thấy ḿnh qu‎ư mến Sếp Đ. hơn v́ cho đến lúc nầy ông vẫn nghĩ tới anh em 225.

Khoảng 16:00 giờ, chiếc UH1 đi liên lạc với Hạm đội 7 trở lại đổ thêm xăng và ra dấu cho mọi tàu quay máy và đổi frecency mới trên VHF để cho tất cả các tàu có thể liên lạc được với nhau. Hôm nay, chiếc liên lạc coi như là chiếc C&C sẽ hướng dẫn mọi người bay phi vụ cuối cùng trong đời ḿnh. Chiếc C&C cất cánh trước rồi lần lượt các chiếc khác thứ tự cất cánh theo, cứ 5 chiếc ráp một 'Formation V5' như 'briefing' trước đó; V5 sau cách V5 trước chừng 10 cánh quạt. Dường như có tất cả là 7 cái Formation V5 (khoảng 30 đến 40 chiếc UH1H), lấy heading 030 (đi lênVũng Tàu) cao độ khoảng 1500 bộ.

C̣n bên Chinook cũng có khoảng 3,4 chiếc, họ bay với formation riêng của họ ở phía sau. Bay độ chừng hơn 30 phút th́ nh́n xa xa thấy Hạm đội 7 của Hoa Kỳ, khi đến gần hơn, tàu C&C ra lệnh cái V5 thứ nhất (I) đổi qua độ h́nh Trail (hàng một) và khi nào thấy hàng không mẩu hạm bật đèn xanh th́ 5 chiếc nầy vào đáp, trong khi đó cái V5 thứ nh́ (II) sẽ lên làm lead, dẫn nguyên hợp đoàn lớn bay ṿng tṛn lớn chờ đèn xanh, khi thấy đèn xanh th́ V5 (II) cũng đổi đội h́nh Trail vào đáp, rồi cái V5 số ba (III) sẽ lên làm lead tiếp tục dẫn hợp đoàn bay ṿng chờ…cứ như vậy đến cái V5 cuối cùng. Sở dĩ chờ hơi lâu là v́ mỗi tàu vừa đáp xuống xong, đợi cho mọi người trong tàu bước ra hết, trưởng phi cơ phải tuân theo sự hướng dẫn của toán phi đạo trên mẫu hạm Hoa Kỳ : là phải dời tàu ḿnh ra sát mé b́a của chiếc mẫu hạm, sau đó tắt máy, hai phi công bước ra khỏi tàu, tức th́ nhóm phi đạo của Mỹ h́ hục đẩy con tàu đó xuống biển ngay.

Tôi vừa bước ra khỏi tàu th́ có một ông thủy thủ da đen cao lớn đến bên tôi, hắn tháo cái dây súng Rouleau P38 của tôi quăng xuống biển rồi bảo tôi qua bên kia đứng với mọi người. Sau đó họ hướng dẫn toán của tôi khoảng ba mươi người đi xuống dưới hầm chiếc mẫu hạm. Tại nơi đây, tôi thấy đă có trên trăm người rồi, họ đang ngồi trong những chiếc tàu nhỏ, loại tàu há mồm đổ bộ của TQLC, phía trước mũi được mở ra để mọi người ra vào. mỗi chiếc chứa khoảng 30 người. Toán của tôi cũng chiếm một tàu giống như vậy, sau đó họ mang cho chúng tôi mỗi người một ít bánh 'Cracker' và một cái ly bằng nhựa chứa chừng 8 oz Coca Cola lạnh.

Được dung nạp một số calories do những thứ nầy tôi thấy khỏe ra, bởi từ sáng đến giờ tôi có ăn cái ǵ đâu. Nội cái chuyện lo âu, hồi hộp đă làm ḿnh quên đói, chỉ thấy mệt trong người thôi. Bây giờ th́ đỡ rồi đó, hết lo cái vụ bị người “anh em” phía bên kia bắt bớ giam cầm, khảo tra trả thù ǵ nữa ... Như vậy ta phải cám ơn người Mỹ mới được, đă giúp ta thật đúng lúc, rồi tôi lại thắc mắc : Tại sao Hạm đội 7 lại vào quá gần bờ ? (giữa Vũng Tàu - Côn Sơn). Tại sao Đặc khu Côn Sơn chỉ là một quận nhỏ của Bà Rịa Vũng Tàu lại rất an ninh vào những ngày cuối, tù chánh trị vẫn bị nhốt kỹ, ngoài phi trường phi cơ lên xuống như b́nh thường ? C̣n cái nguồn nguyên liệu ở đây sao quá dồi dào, nội ngày hôm nay đă cung cấp đầy đủ hơn 40 trực thăng vừa UH1 vừa Chinook và không biết bao nhiêu tàu trong ngày trước đó nữa ? Phải chăng người Mỹ đă có kế hoạch thu hồi lại những phương tiện và chiến cụ của họ, họ thà đổ sông, đổ biển chứ không muốn tặng cho csVN. Tôi nghĩ như vậy, không biết có đúng không ? Tôi ngó quanh t́m kiếm bạn bè để đến nói chuyện hay thăm hỏi cho đầu óc ḿnh bớt căn thẳng.

Khoảng 9:15 đêm, một ông Hải quân Thượng sĩ Mỹ dùng cái Haul-Parleur loại cầm tay nói cho mọi người biết là chừng 15 phút nữa, họ sẽ tắt bớt hàng đèn lớn trên trần để mọi người nghĩ ngơi. Vậy mọi người hăy dừng đi thăm viếng ở tàu khác mà hăy trở lại tàu của ḿnh rồi ông nhờ một người Việt giỏi tiếng Anh thông dịch lại. Đúng 9:30 mọi đèn lớn trên trần đă tắt hết, chỉ c̣n vài đèn nhỏ trên vách cao đủ ánh sáng cho ai cần thiết phải đi nhà vệ sinh. Tàu khá chật chội khi phải chứa đến 30 người, mọi người đồng ‎ư ngầm là nhường cho trẻ con, người lớn tuổi hoặc phụ nữ được ngủ nằm c̣n hạng trai trẻ như tôi phải dựa lưng vào thành tàu, co gối ngồi ngủ. ‘Giang sơn’ của tôi ở phía ngoài cùng (mặt trước của con tàu) v́ khi sắp toán dẫn xuống tàu th́ tôi là người đi sau chót.

Tôi tựa lưng và thành tàu, định chộp mắt ngủ một chút cho khỏe như mọi người nhưng không, không dễ dàng vậy đâu v́ với những kẻ đang mang tâm trạng th́ bóng đêm là điều kiện tốt để thẩm vấn viên lương tâm lấy khẩu cung can phạm, can phạm đó chính là ḿnh đây. Điều tra viên nầy muốn chính can phạm phải trực diện với lương tâm ḿnh. Tội lớn nhất là bỏ nước ra đi, xa ĺa người thân, giờ đây thân quyến của tôi giống như họ đang ở dương trần, c̣n tôi ở nơi âm phủ th́ chắc ǵ kiếp nầy có dịp thấy lại họ ? Nghĩ tới đó, nước mắt tôi tự dưng tuôn trào, tôi ước ǵ đừng có ai nơi đây để tôi được khóc rống như trẻ con, hầu vơi bớt phần nào khổ đau như người đời hay nói như vậy.

Tôi ngồi phía ngoài, bên phải tôi th́ không có ai nên tôi xoay người về phía đó, hai tay bó gối, đầu gục xuống đó để đừng ai nh́n thấy hai ḍng nước mắt của ḿnh cứ đầm đ́a tuôn rơi không ngớt, xen kẽ đó là những uất nghẹn sắp bật thành tiếng, tôi vội nuốt nước bọt nhiều lần mới ḱm hăm lại được. Tôi tự nguyền rủa ḿnh 'chả ra làm sao cả', đối với gia đ́nh : ḿnh là người tắc trách vô tâm, c̣n với Tổ quốc ḿnh là kẻ vong ân bội nghĩa. Một con người tệ bạc như thế đấy th́ tương lai ḿnh sẽ ra sao đây, thôi th́ hăy phó thác cho định mệnh.

“Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem cao tạo xoay dần tới đâu”. ND

Nhờ rơi được nhiều nước mắt nên tôi thấy có chút nguôi ngoai, nhưng không dễ lấy lại trạng thái b́nh thường được đâu mà lúc nầy tâm trạng tôi vẫn rối bời, cứ chuyện nọ lại xọ qua chuyện kia, bây giờ tôi lại nhớ đến đơn vị cũ : PĐ 225 mà tôi yêu quư như một người t́nh sắt son chung thủy v́ đă chung sống với nhau những 54 tháng rồi, đó là tôi phải tính bằng tháng để được hai con số, chứ tính năm th́ chỉ có một con số thôi, mà c̣n dưới con số 5 nữa. Thật là đau đớn cho tôi phải nói lời giă biệt cùng nàng cũng như giă biệt những con tàu gunship mà tôi coi như những đứa con trai kiêu hùng đă cùng tôi hữu xung, tả đột xông pha nơi trận mạc và những con tàu slick như những đứa con gái mũm mĩm trang đài, giàu ḷng nhân ái đă cùng tôi chuyển quân, tiếp tế, tản thương.

Chỉ trong một ngày mà tôi có đến hai lần đầu hàng. Đầu hàng lần đầu là thừa lệnh vị Tổng Tư Lệnh QĐ (nhiệm kỳ hai ngày) : hạ vũ khí đầu hàng, sau khi hạ vũ khí th́ tôi có thể ra đi được rồi chứ, bởi v́ khoảng tiếp theo là ‘bàn giao hay trao lại’ ǵ.. ǵ.. đó, th́ hoàn toàn không có tôi.. bởi tôi chỉ là quân nhân hạng bét th́ có cái đếch ǵ để ‘trao lại hay bàn giao’? Đầu hàng lần thứ hai là đầu hàng định mệnh, chỉ mong sao định mệnh an bày cho tôi số phận nào cũng được trong những ngày sắp tới.

nguyên quân 225.

hoanglan22 09-19-2019 13:16

Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè
 
1 Attachment(s)


Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Thời chiến tranh, ông là YSĩ Quân Y Nhảy Dù. Bài viết sau đây được tác giả viết cho Mùa Giáng Sinh năm 2012. Chuyện là thật, nhưng họ và tên các nhân vật không hoàn toàn đúng sự thật.

Kèm theo bài viết là h́nh ảnh trực thăng hành quân sưu tập từ internet.

Bất cứ một chiến tranh nào cũng có những hoạt động quân sự được che dấu bảo mật. Với những phi cơ màu đen không số không tên không cờ, Phi Đoàn 219 Thần Phong của Không Quân VNCH, trực thuộc Pḥng 7 Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, có nhiệm vụ thả người ra phía Bắc vĩ tuyến, đưa đón và yểm trợ những toán tiền thám Lôi Hổ, Biệt Kích đi sâu vào ḷng địch… Bài phóng tác dưới đây được dựa trên câu chuyên của Trần Khánh, một người con của Huế và là một “Thượng Sĩ Già” của Biệt Đoàn 83 gồm những chiếc trực thăng H34 của phi đoàn 219, với nét mặt vẫn mang đầy vẻ khí khái hiên ngang của một chàng trai thời chiến của ngày nào dù tóc nay đă nhuộm màu thời gian. Ước mong bài viết diễn tả được phần nào công việc hiểm nghèo các phi hành đoàn của Không Lực VNCH thi hành hàng ngày mà cá nhân tôi, một y sĩ QYND, đă chứng kiến qua những phi vụ đánh phá mục tiêu, yểm trợ, tiếp tế, tản thương…trong trận đánh năm 1974 ở Đồi 1062 tại vùng Thường Đức/ Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.


Từ xa về thăm bạn bè trong vùng Nam Cali nhân Mùa Giáng Sinh năm 1981, Khánh cố t́nh quên cái đau răng đă hành hạ anh từ mấy ngày qua. Qua một đêm mất ngủ v́ nhức răng quá độ dù tối hôm trước anh uống rượu khá nhiều với các bạn cùng phi đoàn, Khánh quyết định t́m đến văn pḥng nha sĩ cầu cứu.

V́ không quen biết ở vùng này, Khánh bước đại vào một văn pḥng nha khoa nằm ở góc đường, gần căn nhà người bạn mà ḿnh vừa tá túc. Trong khi đang đứng kể rơ bệnh t́nh với cô nhân viên để xin cho được gặp nha sĩ dù không có hẹn trước, Khánh thấy người nha sĩ bước vào pḥng và ra dấu cho người nhân viên chấp nhận, có lẽông ta nghe được câu chuyện v́ đứng sát cửa pḥng chờ khách.

Nằm chờ trên ghế khám không mấy lâu, Khánh thấy người Nha Sĩ vừa bước vào pḥng vừa đọc hồ sơ cá nhân của Khánh. Qua vài câu thăm hỏi về bệnh t́nh, ông hỏi Khánh có ở trong quân đội trước khi mất nước. Khánh trả lời có và cho biết ḿnh phục vụ trong Không Quân VN. Người Nha Sĩ ngần ngừ một thoáng rồi nói nhỏ “tôi có người em trai cũng ở trong Không Quân, nhưng nó chết rồi”. Rồi như muốn trút đi một tâm sự buồn, ông vội nói tiếp “Nó tên là Ḥa, Nguyễn Đại Ḥa, người rất hiền ḥa như tên của nó vậy đó. Nó là trung úy phi công trực thăng đóng ở Đà Nẳng, và chết trong một phi vụ vào tháng 2 năm 1971”.

Khánh thảng thốt bật thẳng dậy, hỏi ngay “có phải xác của Trung Úy Ḥa được đưa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở Huế bằng trực thăng không?” Người Nha Sĩ bước lui mấy bước và trả lời không ngập ngừng “Đúng rồi. Sao anh biết?”

Như một tia chớp, bao nhiêu h́nh ảnh trong phút chốc bỗng trở về trong đầu Khánh một cách mạch lạc dù câu chuyện đă xẩy ra cả mươi năm qua.

“Thưa Nha Sĩ, nếu đúng với tên người chết là Trung Úy Hoà, chính phi hành đoàn chúng tôi đưa xác anh ấy về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương!”

Người Nha Sĩ đứng yên lặng trong giây lát, như để tự trấn tĩnh lấy ḿnh, rồi bỗng vái lạy Khánh, vừa nói nhanh.

“Mấy lâu nay gia đ́nh chúng tôi muốn biết về cái chết của nó v́ nghe phong phanh phi đoàn nó nói là trực thăng của nó bị bắn rơi, chỉ riêng một ḿnh nó chết thôi và phi hành đoàn 3 người c̣n lại đều bị bắt làm tù binh”

Trong cùng lúc đó, Khánh cũng bật dậy, nhảy vội ra khỏi chiếc ghế khám, chạy đến bên cạnh người Nha Sĩ, làm hành động ngăn không cho ông ta vái nữa; và trong sự cảm thông, hai người xúc động ôm chặt lấy nhau trong im lặng. Rồi người Nha Sĩ mời Khánh bước qua pḥng làm việc. Bấy giờ Khánh mới lấy lại b́nh tĩnh và tuần tự kể từng chi tiết về chuyến rescue mission đặc biệt năm đó.

Trong Chiến Dịch Lam Sơn 719 đánh vào các căn cứ của CS Bắc Việt ở Hạ Lào vào tháng 2, 1971, Biệt Đoàn 83 của Khánh được biệt phái từ Phủ Bài ra Ái Tử. Sau khi thi hành thả những toán Lôi Hổ vào vùng đất địch, trực thăng H34 của Khánh đang trên đường trở về căn cứ Phủ Bài. Trước khi đến cây số 17 gần An Lỗ, liên lạc viễn tuyến trên tần số phi cơ cho biết có một chiếc trực thăng UH1H của phi đoàn bạn từ Đà Nẵng bị bắn rớt ở phía Tây Động Ông Đô. Phi hành đoàn của Khánh lập tức chuyển hướng, quay về hướng Tây, lần theo toạ độ t́m đến nơi chiếc trực thăng bị rơi.
.


Trời lúc đó đă về chiều dù chưa tới 5 giờ và càng vào trong núi càng nhiều sương mù. Từ trên cao, Khánh thấy xác chiếc trực thăng nằm nghiêng ở kế bên ḍng suối nhỏ. Sau khi đảo quanh một ṿng để quan sát t́nh h́nh chung quanh trực thăng bị rơi, chiếc H34 từ từ bay dừng một chỗ trên không và sử dụng hệ thống Hoist thả Khánh xuống ở cách xa trực thăng kia khoảng 80 thước.

Khi đến được mặt đất và tháo gỡ dây Hoist ra khỏi người, Khánh mới biết cỏ tranh xanh cao hơn đầu người anh và triền đồi rất dốc, khiến anh đă bị lăn từ trên triền đồi xuống đến dưới ḷng suối.

Vừa ê ẩm trong người, vừa hồi hộp, Khánh chạy lần theo men bờ suối và đến cạnh chiếc trực thăng ngộ nạn. Khánh nh́n ở bên ngoài và chung quanh trực thăng, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Nh́n vào pḥng lái, Khánh thấy thân thể một người nằm gục không nhúc nhích ở ghế phi công trưởng, đầu nghẹo sang một bên và kính phía trước bị bắn lủng một lỗ to tướng.

Khánh lách người qua cửa hông bên trái, lần đến gần người nằm bất tỉnh ở ghế trước bên phải. Bấy giờ Khánh mới nghe hơi thở ph́ pḥ của người phi công bị thương cùng một lúc nhận thấy khuôn mặt anh bên phải là một khối bầy nhầy đầy cả máu.

Sau khi cố gắng lôi được hai bàn chân của người bị thương c̣n bị kẹt ở pedales phía dưới thân máy bay, Khánh bắt đầu ôm lấy thân h́nh anh ta, từ từ kéo ra khỏi xác máy bay. Khánh nghe được một tiếng thở mạnh từ người phi công vừa trút hơi thở cuối cùng trong tay ḿnh.
Trong khi vác xác đồng đội trên vai chạy dần về nơi an toàn, máu người chết tiếp tục chảy xuống ướt cả áo bên trong của Khánh, cộng thêm với mồ hôi của ḿnh khiến Khánh choáng váng và mệt đến lả cả người. Sau hai lần phải dừng lại nghỉ mệt, Khánh đă đến được điểm hẹn, bấm đèn pin lên hướng trực thăng của ḿnh làm dấu thả dây Hoist xuống cho Khánh móc xác người chết lên trước, rồi đến ḿnh lên sau.

Chiếc H34 bay quành một ṿng nhỏ như để chào vĩnh biệt lần cuối người bạn mới hy sinh, rồi lấy hướng về phía Đông Nam. Ít phút sau, Khánh lấy lại b́nh tĩnh, nh́n đọc bảng tên H̉A trên áo bay của người phi công xấu số.

Phi hành đoàn H34 báo cáo sự việc và nhận chỉ thị đưa xác Trung Uư Phi Công Ḥa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Khánh vẫn c̣n run sợ, thầm nghĩ anh có may mắn không bị VC phục kích và chiếc trực thăng H34 đang bay chờ anh trên trời cũng không bị nhắm bắn trong khi thi hành nhiệm vụ một cách đơn độc vào giờ chót trong một thời tiết rất xấu.

Dù đau buồn v́ 3 người phi hành đoàn c̣n lại đă bị bắt làm tù binh trước khi trực thăng của anh đến vùng, và phi công trưởng tử thương, nhưng Khánh và phi hành đoàn H34 của anh có niềm hănh diện riêng v́ ước nguyện của các chiến hữu Không Quân đă thêm một lần được thực hiện qua châm ngôn “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn bè”

Cả tuần sau, Khánh vẫn bồn chồn đứng ngồi không yên, người cứ mệt mỏi bần thần.Bộ đồ bay màu đen của anh vẫn c̣n thoảng mùi máu của đồng đội dù đă được giặt đi giặt lại khá nhiều lần. Cái chết của người Trung Úy Phi Công Ḥa với gương mặt bị bắn nát một nữa bên của anh,cùng với h́nh ảnh của bao người lính Lôi Hổ, Biệt Kích mà Biệt Đoàn 83 của anh đă từng đưa đi, đón về phía sau lưng địch, có khi đầy đủ có khi thiếu một vài người, đă để lại những vết thương âm ỷ khó quên trong tâm hồn của con người vốn coi nhẹ tính mạng nơi anh.


Nghe xong câu chuyện và với nước mắt lưng tṛng, người Nha Sĩ lên tiếng:

“Chắc vong linh em tôi xui khiến và dẫn đường cho anh đến văn pḥng gặp tôi sáng nay. Câu chuyện anh kể hôm nay về cái chết của Ḥa là một món quà vô giá trong mùa Giáng Sinh năm nay cho gia đ́nh Cha Mẹ và anh em chúng tôi. Nguyện ước biết rơ về cái chết đau thương của Ḥa trong ṿng tay của một đồng đội sẽ mang đến một kết thúc nhẹ nhàng cho gia đ́nh chúng tôi. Thay mặt cho toàn gia đ́nh, tôi xin được nói lời cảm tạ với ân nhân đă đem xác em tôi về…”.

Trong mùa Giáng Sinh năm 1981, sau khi rời văn pḥng nha sĩ, Khánh cảm thấy nhẹ hẳn người, như vừa trút bỏ được một gánh nặng đă cất giữ trong ḷng từ lâu. Và anh bỗng thấy tâm hồn ḿnh thư thái, nhẹ nhàng như muốn vụt lên với trời cao trong xanh.

Vĩnh Chánh

cha12 ba 09-19-2019 13:46

BIỆT ĐỘI 817, LIÊN ĐOÀN 81 BIỆT CÁCH DÙ
 
3 Attachment(s)
9/19/19

Biệt Cách Dù

Vâng ! Chúng tôi thuộc Biệt đội 817 của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, một biệt đội tân lập để nhằm đáp ứng nhu cầu chiến trường thật sôi động vào những ngày cuối tháng tư đen.

NHẬN ĐƠN VỊ

Sau lễ ra trường vội vă tại căn cứ Long Thành, tôi và một số anh em khoá 28/29VBĐL, những người trai trẻ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm, đă chọn bộ đồ dù với chiếc nón xanh ngạo nghễ làm chiến y. Nếu ai hỏi tôi: Cái ǵ làm mày chọn binh chủng oai hùng đó, tôi sẽ trả lời bằng hai câu thơ cảm khái của một nữ sinh ở chiến trường đẫm máu An Lộc:

An Lộc địa, sử lưu chiến tích,
Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân.

Tuổi trẻ là vậy đó: thèm khát chiến trường, sau gần bốn năm trui rèn gian khổ mong được thử lửa, thêm với bầu máu nóng của tuổi trẻ muốn bảo quốc an dân, chúng tôi đă xông pha vào trận chiến vói hành trang thật đầy đủ từ tinh thần, thể lực lẫn trí tuệ của một sĩ quan đa hiệu, và c̣n nữa: trên vai chúng tôi c̣n cả một truyền thống oai hùng của các bậc đàn anh. Ôi ! Kể sao cho hết ḷng tự tin, hăng say náo nức của ngày đầu tiên tôi được khoác lên ḿnh bộ quân phục khét tiếng chiến trường ấy.

Tôi và Xuân, một tay có dáng người cao,đen,đẹp trai của khóa 29, sau khi cùng anh em tŕnh diện Trung tá Thông ở bộ Tư Lệnh Tiền Phương 2 Suối Máu, được phân phối ngay về Biệt Đội 817 đo Đại úy L. chỉ huy, không một ngày giờ phép.

Tôi xin nói sơ qua về cách phối trí đơn vị và danh xưng trong liên đoàn một cách tóm lược v́ sự hiểu biết hạn hẹp và cũng để bảo mật cho một đơn vị đặc biệt nàỵ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn là Đại tá Huấn, Hậu cứ của Liên đoàn đóng ở An Sương,Hóc Môn, có hai Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đặc nhiệm cho từng vùng hoạt động. Dưới quyền cuả Bộ Tư Lệnh Tiền Phương là những Biệt Độị . Biệt Đội có quân số của một đại đội, lúc nào cũng được bổ sung thật đầy đủ, và được chia ra làm 03 Trung Đội Xung Kích, một Trung Đội Thám Kích và một Trung Đội Súng Nặng. sau đó được chia thành Toán và Tổ. Khi hành quân, các trung đội xung kích thường đánh trực diện và trung đội thám kích được phân phối thành 06 toán để nhảy thăm ḍ, đột kích, t́m diệt, thu thập tin tức, hay hoa nở trong ḷng địch. Biệt Đội được yểm trợ đặc biệt như một Tiểu Đoàn khi hành quân.

Đại Úy L. là một người chỉ huy dày dạn và b́nh tĩnh. Sau khi chúng tôi chào tŕnh diện, ông chỉ nói vỏn vẹn “Chào hai anh” rồi lặng yên nh́n hai đứa tôi như ḍ xét khả năng, nhưng chúng tôi như một cặp gà ṇi ế độ, đứng lặng yên chờ nhận nhiệm vụ, không chút bồn chồn, dù trong ḷng có chút băn khoăn.

Sau khi yên lặng soi vảy và xem gị cẳng, Đại Úy L. từ từ nói: “Biệt Đội cần một Trung Đội Trưởng súng nặng và một Trưởng toán Thám Kích, hai anh chọn cái nào”. Xuân K.29 e dè nh́n qua tôi, bắt gặp cái nh́n của Xuân tôi hiểu rằng “em muốn nhường anh”. Tôi không ngần ngại, bước lên một bước, đưa tay lên chào và dơng dạc nói: “Tôi nhận Trưởng toán Thám Kích”. Quả thật cái ǵ đă in sâu trong tôi: Truyền Thống -T́nh Anh Em ? Em nhường Anh và Anh gánh vác hiểm nguy cho Em…và cùng lúc đó trong đầu tôi thoáng qua h́nh ảnh người tôi yêu với đôi mắt đợi chờ sâu thẳm.

Sau thủ tục giấy tờ và giới thiệu sơ qua về đơn vị đo một Sĩ quan khác đảm nhiệm, hai đứa tôi được đi ăn bữa tối đầu tiên của đời lính thật sự trong căn lều lớn có những lớp bao cát dày che chở chung quanh.

Trên đường đi, Xuân lo ngại hỏi tôi: Làm sao Niên trưởng, tôi quên hết rồi, Niên trưởng chỉ tôi với..Tôi trấn an Xuân: “Ông đừng lo, chỉ cần ông định điểm đứng và chấm tọa độ cho chính xác là đủ, tụi nó sẽ làm hết cho ông.” Xuân vẫn c̣n lo ngại nói tiếp: “Tối nay tôi qua hỏi thêm Niên trưởng vài chuyện”. Tôi gật đầu và sụyt khẽ với Xuân khi có vài người lính đi lại gần.

Trong đầu tôi lúc đó cũng mang nặng nỗi lo không kém : Làm sao để thu phục được những người lính gan ĺ đă từng vào sinh ra tử này.

Buổi tối hẹn với Xuân không bao giờ đến, v́ sau bữa cơm chiều, chúng tôi đă nhận được lệnh hành quân cấp tốc vào sáng sớm ngày mai.

VÀO VÙNG TRÁCH NHIỆM.

Biệt đội chúng tôi được chuyển vận về sân vận động quận Nhất ở bên hông bộ Tổng Tham Mưu đúng vào ngày 23 tháng Tư của năm định mệnh 1975.

Trên đường về Sài g̣n, ngang qua đại lộ Phan Thanh Giản, chúng tôi đă nh́n thấy những căn cứ pḥng thủ được vội vàng thiết lập đọc hai bên đường, nhưng Sài G̣n vẫn c̣n ngơ ngác, chưa sẵn sàng cho một cuộc pḥng thủ qui mô rộng lớn trong chiến tranh. Dân chúng hốt hoảng, sợ VC, ủng hộ quân đội Quốc gia, nhưng họ vẫn xem cuộc chiến chống lại VC là của Quân Đội VNCH, người dân chỉ đóng vai tṛ như một cổ động viên trong một trận tranh tài thể thao không hơn không kém. Những căn cứ pḥng thủ được thiết lập lẻ loi trơ trọi, không kết hợp được với địa h́nh bao quát chung quanh, chưa thiết lập được sự liên kết chặt chẽ cần thiết giữa dân và quân cũng như giữa những đơn vị chính qui và địa phương cho một pḥng tuyến liên hợp cần thiết khi chiến tranh đă đi vào thành phố.


Nh́n những lô cốt bằng bao cát nằm lẻ loi trơ trọi hai bên xa lộ, quan sát những ṭa nhà cao ốc chung quanh không một sự pḥng thủ thích nghi, tôi lo ngại cho sự an toàn bền vững của nhưng chốt pḥng thủ nàỵ Chúng là miếng mồi béo bở của một trái B40 hay cối 61 của một toán đặc công vô danh nào đó len lỏi vào các ṭa cao ốc trước khi tank hay lưc lượng chính qui tiến chiếm trận địa.

Suy nghĩ bâng quơ một lúc, th́ đoàn xe đă đến ngă tư Công Lư và quẹo phải để chạy về hướng Bộ Tổng Tham Mưu. Đến đây, chúng tôi phải chạy chậm lại v́ dân hai bên đường di chuyển hỗn loạn khác thường, một số đă nhận ra chúng tôi và bắt đầu hô lên “Biệt Cách Dù về! Biệt Cách Dù Về!” và làn sóng âm thanh ấy từ từ rộ lên nhịp nhàng lấn át cả mọi tiếng động ồn ào trong thành phố và rồi toả rộng ngân vang: Biệt Cách Dù về ! Biệt Cách Dù về ! Biệt Cách Dù về! hoà với tiếng vỗ tay cách nhịp của các em thiếu niên, và trên khuôn mặt hốt hoảng của những người dân đă dấy lên ánh mắt loé sáng của niềm tin. Vâng! chúng tôi, những người lính của chiến trường đẫm máu, đă về thành phố. Bất giác, tay tôi nắm chặt lại, nh́n gương mặt của những người lính vốn đă gan ĺ nay lại rạng ngời lên ánh mắt cương quyết. Trong ḷng chúng tôi như cùng thầm nguyện lời hứa Kinh Kha.

Chúng tôi đổ quân xuống sân vận động quận Nhất, Sau khi bố trí canh gác pḥng thủ, các sỉ quan trong biệt đội được lệnh họp và chúng tôi được tiếp xúc với một vị Trung Tá từ Bộ Tổng tham Mưu phái đến. Sau khi sơ lược ngắn gọn t́nh h́nh và nhiệm vụ, ông ta dỏng dạc nói: “Các anh là đơn vị cuối cùng được cấp trên tin tưởng đưa về đây pḥng thủ BTTM.và chúng tôi tin rằng đơn vị các anh không phụ ḷng tin đó.” Sau lời phát biểu ngắn gọn hàm chứa ư nghĩa ủy thác, ông ta lên vội xe jeep về lại TTM, chúng tôi về đơn vị ḿnh và tôi băt đầu làm quen với những người lính chai lỳ có gương mặt lạnh lùng u uất, những nét chỉ có trên những người đă từng về từ cơi chết. Quả thật họ là những người đáng gờm, những người lính lạnh lùng ít nói này sẽ gầm lên như hổ dữ khi chạm trán địch quân..

Chiều hôm đó, chúng tôi được cấp phát mỗi người một bộ quân phục của cán binh VC và được huấn luyện sơ qua về các hoạt động trà trộn trong ḷng địch cùng cách xưng hô địch quân thường gọi nhau trong đơn vi.. Măi sau này, tôi mới biết cấp trên đă dự trù một kế hoạch rút vào rừng và tiếp tục chiến đấu nếu Sài g̣n thất thủ. Sau đó, sĩ quan và các trưởng toán dược phát một bản đồ quân sự của Sài g̣n.

Chúng tôi đóng quân hai ngày đêm trong sân vận động để dưỡng quân, huấn luyện và cũng để các binh lính và sỉ quan làm quen với đơn vị mới.Sáng ngày 26/04/75, theo từng vùng trách nhiệm đă phân định sẵn, chúng tôi âm thầm rải quân trấn ngự các dịa điểm trọng yếu.Toán Thám Kích do tôi chỉ huy trấn đóng nhà thương Cơ Đốc lúc bấy giờ c̣n đang xây cất dở dang và một dăy cao ốc đối diện.

Đă được chỉ thị từ trước, tôi cho anh Trung sĩ toán phó chọn hai người lính có kinh nghiệm xử dụng M72, thiết lập hai tổ chống tank di động trải dài dọc theo bờ rào bằng gạch táp- lô (concrete block) nằm cạnh lề đường.Một tổ khác nằm trên cao ốc đối diện. Tôi theo tổ thứ tư đóng ở nhà thương Cơ Đốc. …


Phối trí đơn vị xong th́ trời cũng đă đứng bóng, trong ḷng tôi đầy ắp những lo âu và căng thẳng tột cùng: giặc vào Đô Thành dân chúng sẽ ra sao.Đánh giặc trong thành phố thật là điều mới mẻ trong kiến thức quân sự nhỏ bé của tôị Từ cao ốc nh́n xuống nhũng dăy phố chung quanh, tôi tưởng như những dăy đồi trùng điệp với nhũng địa dạo bí hiểm bên trong. Trong đầu tôi loé lên kế hoạch xử dụng những toán trẻ đưa tin như Huân tước Baden Powell (ông tổ của Phong trào Hướng đạo) để chống lại sự xâm nhập bằng đặc công của đich. Tôi lịm người thiếp đi trên vai người hạ sĩ mang máy PRC25 với giấc mơ tuổi thơ của những tṛ chơi lớn. Những đêm mất ngủ lo âu đă kéo đôi mi tôi sụp xuống.

T̀NH QUÂN DÂN:

Tôi giật ḿnh tỉnh giấc v́ những tiếng rè rè cuả PRC 25 từ Tổ 1 gọi lại: K a đây Hắc báo ! nghe rơ trả lờị Tôi đáp : 5/5. “Có 02 con tôm đang ḅ lại nghe rơ trả lời ! 5/5 tôi đáp gọn nhưng trong ḷng hoang mang với danh từ mới mẻ nàỵ Cua là tank của địch, én hay chuồn chuồn là các loại phi cơ, c̣n tôm….tôi đảo mắt nh́n xuống mặt đường, hai chiếc xích lô đang đậu lại, trên mỗi xe là một giỏ cần xé đầy được phủ bao đệm, không biết cái ǵ bên trong. Tôi giật ḿnh thét lên “Đ.M. coi chừng!” rồi nhảy từ lầu một xuống một đụn cát bên dưới, người Hạ sĩ mang máy cũng nhảy theo. Toán phó H. đă nhanh chóng dẫn tổ ba người của anh tràn lên mặt đường, phối hợp với tổ trực đang gác trên đường để cô lập hiện trường, một mặt kềm chế những chiếc xích lô, một mặt chận đứng giao thông. Tôi đích thân gọi các toán trưởng khác cùng lên máy. Một người đàn bà ăn mặc b́nh dân từ sau giỏ cần xé của chiếc xích lô bước xuống với vẻ ngạc nhiên lẫn hốt hoảng: ” Tôi đem đồ ăn tới cho lính ḿnh mà”. Trung sĩ nhất H. quay nh́n tôi chờ lệnh.

Thấy hơi quê với đàn em, tôi làm như tay sành điệu, đưa bàn tay phải ra, chúm năm đầu ngón tay lại rồi dùng ngón chỉ của tay kia chạm vào chúm tay nọ rồi bung năm đầu ngón tay ra ( hiệu lệnh lục soát tôi mới học lóm được). H. hiểu ư, sai một lính dưới quyền trải tấm poncho mỏng bên lề đường, (đời lính ăn ngủ và hy sinh gói trọn trong tấm poncho).

Người đàn bà cùng hai phu xích lô lần lượt chất chả và bánh ḿ xuống poncho dưới sự quan sát cẩn thận của H. rồi tất tả cùng đạp đi như sợ người khác nhận diện, không kịp nhận một lời cảm ơn.Tôi giao cho H. xử lư mọi việc, không quên nhắc anh ta chia đều cho các toán khác và “cúng dường” ban chỉ huy Biệt đội.

Bữa cơm trưa thật ngon miệng, những lát chả thơm ngon lạ lùng sau một tuần lễ gạo sấy , cá hộp làm ấm cả ḷng người (ration C chỉ c̣n là huyền thoại). Nh́n khuôn mặt những người lính tươi lên, có lẽ họ cũng thấy ấm ḷng như tôi và tay súng của họ sẽ gh́ chặt thêm trong trận chiến.

Trời dần về chiều, những tin tức bất lợi dồn dập đưa tới, tiếng nổ xa gần của đại pháo không làm tôi quan tâm đến nữa.Những chiếc xe buưt chật cứng người được Mỹ cho đặc ân di tản chạy về hướng Tân Sơn Nhất báo trước sự chạy làng của cái gọi là “Đồng Minh”, chúng tôi chỉ chận lại xem xét giấy tờ và tịch thâu tất cả vũ khí trên xe để pḥng ngừa rối loạn có thể xảy ra.

Họ ra đi cho bản thân riêng, chúng tôi ở lại v́ nhiệm vụ chung của người lính cho đến giờ phút cuối, không mảy may than phiền thắc mắc.

Tối đến trong căng thẳng, sau bữa cơm chiều, tôi ra lệnh cho các tổ giữ vững cách phối trí nhưng thay đổ vị trí để ngừa đặc công. Tổ chỉ huy của tôi di chuyển qua bên kia đường đóng trên một cao ốc. Khuya hôm đó, H. Toán phó, chuyền tay đến tôi một chai Johny Walker với hàng chữ thật dễ thương ghi bên ngoài: “tặng các anh”. Chúng tôi chuyền tay nhau hết chai, đỏ mắt lên chờ sáng.

NGAO DU SÀI G̉N.

Hôm nay đă là ngày 29, 08 ngày mang chiếc lon Thiếu Úy mới toanh trên trên cổ áo với nhũng nhiệm vụ thật mới lạ và bất ngờ không có trong binh thư, tôi cũng đă quen dần với đời sống lính rừng trong thành phố.. Suốt gần 04 năm quân trường, có bao giờ tôi nghĩ đến t́nh huống ngộ nghĩnh như thế này: Đường đường một đơn vị lính trận mà phải chia nhau đứng gác đường như những anh chàng cảnh sát bạn dân không bằng. Thật rơ chán, ḷng lại nóng như lủa đốt v́ những tin tức bất lợi dồn dập đưa đến không ngừng qua các đài phát thanh. Đất nước tan hoang, gia đ́nh di tản không nơi ăn chốn ở.

Người yêu duy nhất của tôi lúc bấy giờ đă một lần đến thăm tôi nắm tay để nói lời từ biệt, Nàng muốn ra đi với một ông lớn nào đó trong Bộ Dân Vận Chiêu hồi, nơi Nàng đang làm việc.Ḷng tôi thật rối như tơ ṿ nhưng ngoài mặt vẫn lạnh như băng.

Tội nghiệp những người lính đang trông chờ tất cả vào tôi, họ nh́n thẳng vào mắt tôi mỗi khi có biến động dầu chỉ là tiếng nổ của đạn pháo xa xa.

Quả thật pḥng thủ không phải là sở trường của một đơn vị đầy tính chất linh động như thế này.Và chúng tôi bắt đầu cảm thấy ḿnh như những con vật nửa người nửa ngợm. Bộ đồ dù này chỉ đẹp trong những buổi sớm chiều trong rừng già trùng điệp, hay trên băi chiến trường khét mùi thuốc súng.

Ngày 29 trôi qua thật nhàm chán, thỉnh thoảng chỉ nghe vài tràng liên thanh nhỏ, không khí ngột ngạt, một sự yên lặng ngấm ngầm ghê rợn. Lệnh tử thủ vẫn được nhấn mạnh từ Bộ Tư lệnh tiền phương. Trong ánh mắt những người lính gan ĺ đă thoáng lên sự nhàm chán. Tôi chợt nghỉ ra một cách để giải khuây: Hai tiếng đồng hồ phép cho tất cả mọi người, một quyết định thật táo bạo trong t́nh huống bấy giờ, nhưng không biết tại sao tôi lại tin tưởng hoàn toàn ở những người lính chịu chơi nàỵ.

Tôi im lặng phối trí lại các tổ tam đầu chế, mỗi tổ có một người biết đường đi nước bước ở Sài G̣n. Đúng 08 giờ tối, tôi cho tổ đầu tiên âm thầm lên tŕnh diện.

Tôi ra lệnh ngắn gọn:

Tao cho tụi bay đi chơi, đúng hai tiếng, mổi đứa chỉ được mang theo một trái mini, súng đạn để hết lại đây, thằng tổ trưởng giữ cây P38 này của tao nghe. Đi về cho đúng giờ để thằng khác c̣n đi. Nhớ cẩn thận.

Đầu tiên là ngạc nhiên và sau đó là những nụ cười sáng rỡ, hồn lính thật ngây thơ. Một tiếng dạ ngắn rồi ba chàng Ngự Lâm biến mất trong màn đêm, tôi bắt đầu lo âu chờ đợi…Và họ đă trở về đầy đủ, đúng giờ với những nụ cười hồn nhiên pha một chút bẽn lẽn khi nghe tôi hỏi “Dzui không tụi bay”.

Khi các tổ đă về đầy đủ, tôi cũng tự cho phép tôi, mượn chiếc Honda, chạy vội về thăm gia đ́nh đang tạm trú ở nhà người quen gần đó sau khi di tản từ Qui Nhơn. Tôi chỉ kịp ôm hôn Mẹ tôi, trấn an Bà vài câu rồi vội vă ra đi, mang theo ánh mắt luyến lưu chịu đựng của một bà Mẹ VN tiễn con đi trong những giờ phút cuối.

ĐÔI CO TRÊN LỬA ĐỐT.

Khoảng 5 giờ rạng sáng ngày 30 tháng tư, toán thám kích chúng tôi như một chú sư tử ngái ngủ trong cũi sắt giữa một thanh phố bỏ hoang. Bỗng nhiên tiếng gầm của đại pháo và súng chống tank vang lên dữ dội từ hướng Lăng Cha Cả, cùng lúc tiếng rè rè của máy PRC25 vang lên, tôi vươn ḿnh chụp vội cần liên hợp không kịp chờ anh Hạ sỉ mang máy. Lệnh chuẩn bị hành quân từ Đ/U Biệt đội trưởng.

Qua đối thoại ngắn ngủi, tôi biết rằng biệt đội đang chận đứng một đoàn Tank của cọng quân không rơ bao nhiêu chiếc và đă nướng được 04 con. Chúng tôi được lệnh chuẩn bị thật nhẹ để nhảy chân chim, một lối nhảy trải mỏng từng tổ một và thay đổi vị trí liên tục để gây hoang mang trên đường tiến của địch quân. khu vực và phương tiện sẽ được chỉ định sau.


Tôi ra lệnh cho thuộc cấp chỉ mang theo những trang bị nhẹ nhàng nhất và chuẩn bị tinh thần cho những trận cận chiến và chống Tank. Vài người lính rút chiếc dao găm ra ngắm, liếc nhẹ vào ṇng súng vài cái, đút lại vào bao rồi vỗ mạnh, tôi biết họ đă sẵn sàng và thật điệu nghệ. Có người c̣n nhổ một băi nước bọt vào ṇng súng, có lẽ v́ một thói quen cố hữu.

Chúng tôi nóng ḷng đợi chờ lệnh hành quân như những con ngựa chiến bị gh́m cương, mắt trợn trừng lồng lộn, bạn bè cùng đơn vị chúng tôi đang sống chết với giặc ngoài kia, sao chúng tôi đành ôm vó đợi chờ vô tích sự, và tôi như một chàng trai tân đang chờ đợi cuộc hẹn đầu đời với con gái của Ma Vương.

Cái đợi chờ làm tôi bồn chồn nóng nảy lẫn lo âu như một chú cá đang bị nướng sống trên ḷ lửa nóng, mắt tôi đỏ gừ, hơi thở dồn dập, mặt tôi tê dại đi không c̣n cảm giác. Tôi cắn chặt hàm răng, cố thở thật sâu để nén đi cảm xúc của ḿnh rồi lừ mắt nh́n thẳng vào mặt của từng người lính. Bất giác, tôi chưởi thề lớn tiếng: ĐM. tao như đứng trên lửa… và cứ thế thời gian trôi qua như thử thách sự dẻo dai của những dây thần kinh đang căng thẳng đến cùng cực. Để đốt thời gian, trấn an tinh thần lính, tôi trải rộng tấm bản đồ, định hướng chính xác, rồi gọi các tổ trưởng đến phân tách và giải thích từng cứ điểm quan trọng trong vùng.

Tuy sẵn sàng nhưng chúng tôi vẫn duy tŕ nhiệm vụ của ḿnh trong vùng trách nhiệm, các tổ vẫn thay phiên nhau cho người đứng gác đường, chứng tỏ sự có mặt của ḿnh để duy tŕ trật tự. Đang trong t́nh thế căng thẳng đó, một sự kiện buồn cười nhưng cảm động xảy đến làm tôi nhớ măi.

Người đứng gác đường lúc bấy giờ là một anh Trung sĩ tổ trưởng với bộ quân phục đẹp nhất mà anh có được trong túi quân trang. Bỗng nhiên, có chiếc cyclo đậu xịch lại sát bên anh, mọi người đều giật ḿnh chưa kịp phản ứng th́ một cô gái trẻ ăn mặc diêm dúa nhảy ra, cô ta cười toe toét, ăn nói líu lo rồi rút ra một xấp tiền dúi vào tay anh chàng Trung sỉ trẻ, anh ta đẩy tay cô này ra, nh́n về hướng tôi có vẻ lo lắng v́ tôi rất nghiêm ngặt trong nhiệm vụ đứng gác này , sau một hồi đôi co, cô gái t́m cách dúi đại tiền vào túi quần trận của anh Trung sĩ rồi leo lên cyclo chạy đi mất.

Tôi ra lệnh cho người khác lên thay gác, kêu anh chàng này đến chấn chỉnh để làm gương. Anh Trung sỉ này chỉ biết găi đầu bứt tai rồi phân trần với giọng đặc sệt miền Nam:

“Hồi hôm, Trung úy cho tụi em đi chơi (lại lên lon), em quằm con nhỏ này, tiền bạc đàng hoàng, sáng nay ngang qua đây, nhận ra mặt em đứng gác, nó tội nghiệp, nằng nặc đ̣i trả tiền lại cho được.”

Tôi mĩm cười trong bụng, ra lệnh anh ta quay lưng lại, đá nhẹ một cái vào đít cảm thông. Anh ta xoay người chào tôi với nụ cười trên khoé mắt rồi vội vàng chạy đi thi hành tiếp nhiệm vụ canh gác đang được tạm thời thay thế.

NGƯỜI LÍNH MANG MÁỴ

Lúc bấy giờ đă hơn 10 giờ 30 phút trưa ngày 30, lệnh tử thủ vẫn được duy tŕ, lệnh hành quân tôi vẫn đang chờ đợi mặc dù trên đài phát thanh, Tướng Minh đă tuyên bố và kêu gọi đầu hàng. Chúng tôi, những người lính, chỉ biết tuân lệnh cấp chỉ huy trực tiếp của ḿnh. Tôi thấy được trong ánh mắt lính sự hoang mang, trong ḷng tôi cũng tự đặt câu hỏi không biết phải làm ǵ.

Tuy đă quá mệt mỏi với sự đợi chờ và lo âu kéo dài, nhưng tinh thần trách nhiệm trong tôi vẫn c̣n tỉnh thức: mạng sống của thuộc cấp và sự an toàn ổn định của người dân trong khu vực trách nhiệm lúc bấy giờ là mối quan tâm chính yếu của tôi.

Trên vai trái hai khẩu M72, trong túí áo 04 trái mini, vai phải là cây M16 với cấp số đạn đầy đủ trong túi quần, giắt khẩu P38 ngắn ṇng vào dây nịt dưới chiếc áo 4 túi, tôi cố gắng tạo cho ḿnh một dáng đi chững chạc b́nh tỉnh dẫn anh Hạ sĩ mang máy đi một ṿng thăm hỏi nói chuyện với từng người lính, tinh thần họ hơi xao động v́ không biết việc ǵ sẽ xảy ra, nhưng những người lính gan ĺ này vẫn quyết tâm sát cánh bên tôi cho đến giờ phút cuối, thật không hổ danh là những con cọp biết nhảy dù. Không biết tôi trấn an họ hay chính họ đă làm ḷng tôi ấm lại và vững vàng hơn.

Tôi biêt rằng một sơ sẩy của tôi trong lúc này có thể đưa đến cái chết thật oan uổng cho những người lính quả cảm trung thành ấỵ Chúng tôi như keo sơn sống chết có nhau, quan cũng như lính, sự hiểm nguy thật công bằng trong những đơn vị nhảy toán này. Đây đă là giờ thứ 25, tất cả đều im lặng vô tuyến, tôi rít một hơi thuốc dài cuối cùng rồi dùng ngón tay bóp nát đóm thuốc lúc nào không biết. Măi lo nghĩ đến sự an nguy của thuộc cấp, tôi quên hẵn đi thân phận của chính ḿnh.

Đang suy nghĩ vẫn vơ, bỗng nhiên, một chiếc Pờ-giô 404 màu trắng bóng loáng thắng rít cạnh lề đường, gần chỗ tôi đang đứng, một người đàn bà đứng tuổi, ăn mặc sang trọng xuống xe, chạy vội lại ôm chầm lấy người hạ sĩ mang máy, bù lu bù loa:

– Con ơi con! sao giờ này con c̣n ở đây con! về với má đi con.

Trong t́nh huống này, tôi không biết phải làm gi, có nên giữ anh ta ở lại đơn vị trong giờ phút thứ 25 này không?. Suy nghĩ thoáng nhanh trong đầu, tôi vội bước lui vài bước, quay đi hướng khác, để tùy anh ta định đoạt. Qua ánh nắng đỗ nghiêng, tôi thấy bóng anh ta quay lại phía tôi im lặng hồi lâu, rồi với giọng trầm buồn nhưng quả quyết:

– Má về đi, con ở lại với Thiếu uư à.

Tôi bất giác quay lại nh́n anh, nén vội ḍng lệ đang trào dâng lên mắt. T́nh đồng đội, tinh thần trách nhiệm hay khí phách của một người trai đă giữ anh ở lại với chúng tôi trong những giờ phút cuối cùng tuyệt vọng đó. Đơn giản quá một câu trả lời ngắn ngủi, nhưng nó hàm chứa tâm t́nh của một hào kiệt, và tâm t́nh đó không thiếu trong đơn vị dù mũ xanh này.

Người Mẹ không biết làm ǵ, quay lại phía tôi với ánh mắt nh́n cầu cứu, một lần nữa tôi lại phải ngoảnh mặt để tránh đi một t́nh huống ngỡ ngàng khó xử. Trong đầu tôi thoáng hiện lên h́nh ảnh luyến lưu chịu đựng của Mẹ tôi đêm hôm trước.

– Thôi, Mẹ về, con nhớ lời Mẹ dặn.

Bà chỉ nói được bao nhiêu, rồi ôm chầm lấy con thổn thức. Người lính mang máy đứng thẳng người, hai tay trong túi quần trận, đầu ngẫng cao, cắn chặt răng, quai hàm bạnh ra, trông anh vững vàng như một cổ thụ đang cố đè nén những cơn băo táp phong ba dữ dội trong ḷng.

Người Mẹ sau đó lau vội nước mắt, đi chậm chậm về hướng chiếc xe, tôi đưa mắt ra hiệu cho anh trung sỉ toán phó đang ở gần đó đến mở cửa đứng chờ. Bà lẳng lặng bước lên xe nổ máy, ngồi nh́n con một lúc rồi từ từ lái xe đi sau khi quay lại đón nhận cái gập ḿnh cúi đầu chào tôn kính của tôi.

Quả cảm thay người lính, bao la thay ḷng hy sinh của người Mẹ trong chiến tranh. Ḷng tôi chạnh lại dưới ánh nắng dă dượi của Sài g̣n trong ngày tàn cuộc.

ĐỊT MẸ NÓ, ĐẦU HÀNG RỒI

Ḷng bàng hoàng xúc động về ḷng trung thành của anh Hạ sĩ mang máy đối với đơn vị, tôi ngẩn ngơ đứng lặng người, nh́n bâng quơ lên bầu trời ám khói hanh vàng.
Lúc bấy giờ đă gần 11 giờ, dân chúng di chuyển tấp nập, thỉnh thoảng họ lén đưa ánh mắt ái ngại nh́n về phía chúng tôi. Họ đang nghĩ ǵ về chúng tôi?: những nhân chứng của chiến tranh, h́nh ảnh hào hùng đă trôi vào quá khứ, hay những h́nh nộm được trưng bày không đúng thời hợp lúc. Mặc cho những suy nghĩ thị phi, chúng tôi vẫn chu toàn nhiệm vụ của ḿnh trong vùng trách nhiệm: bảo vệ mạng sống của binh sĩ dưới quyền và sự an toàn ổn định của người dân cho đến khi có lệnh mới.
Một tràng M16 nổ ḍn tan kéo tôi ra khỏi những suy nghĩ vẩn vơ, tiếp theo là tiếng thét thất thanh phẫn nộ :”Địt mẹ nó! Đầu hàng rồi. Địt mẹ nó! đầu hàng rồi.Một toán lính Dù gồm một người có vẻ là cấp chỉ huy và 3 người lính xuất hiện ở ngă ba cuối phố, họ di chuyển về phía chúng tôi không được b́nh tĩnh. Thỉnh thoảng, người chỉ huy bắn một tràng M16 rồi lại thét lên: “Địt mẹ nó! Đầu hàng rồi.” Trên vai anh, một ḍng máu chảy dài xuống cánh tay c̣n nhỏ giọt, ba người lính với khuôn mặt đanh lại lạnh lùng im lặng đi theo bảo vệ.
Tôi ra dấu cho thuộc cấp giữ ổn định tại vị trí của ḿnh. Chúng tôi đă dùng áp lực tước vũ khí nhiều toán quân lẻ tẻ không tổ chức khi họ qua pḥng tuyến của chúng tôi để vào Sài g̣n nhằm tránh những hỗn loạn đáng tiếc trong thành phố. Nhưng đây là một trường hợp thật nguy hiểm và khó khăn.

Chúng tôi tôn trọng những người anh em lính Dù mũ đỏ này với những chiến công lừng lẫy. Nh́n t́nh đồng đội của họ trong hoàn cảnh tuyệt vọng hiện nay cũng đủ thấy tinh thần và hiệu quả chiến đấu của họ như thế nào khi lâm chiến. Làm sao đây để chận đứng những hành động nguy hiểm chết người có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cơn cuồng nộ phẫn uất ấy.
Một suy nghĩ táo bạo thoáng qua trong đầu, tôi lột chiếc nón sắt đưa cho một thuộc cấp, gác hai khẩu M72 bên vệ đường, rút trong túi áo ra chiếc nón xanh của binh chủng đội lên đầu, mang cây M16 trên vai, khoác tay ra dấu cho thuộc cấp cùng đứng lên, rồi với thái độ b́nh tĩnh ung dung, tôi dẫn anh Hạ sĩ mang máy chậm bước đến vị trí người lính đang đứng gác giữa đường. Một tràng M16 nữa lại nổ vang, toán lính Dù này chỉ c̣n cách chúng tôi khoảng 30 thước, và họ vẫn chưa nhận thấy sự hiện diện của chúng tôi. Họ tiến gần chúng tôi khoảng 20 thước nữa, một tràng đạn chỉ thiên lại nổ ḍn trên không. Tôi hít một hơi thở sâu, dùng hết sức thét lên
” N-G-H-I-Ê-M “. Đúng là Lính, họ giật ḿnh dừng lại nh́n quanh, thấy chúng tôi với quân trang và vũ khí đầy đủ, có lẽ cảm thấy ấm ḷng trong vùng kiểm soát của một đơn vị bạn, họ dừng chân và hơi b́nh tĩnh trở lại, chúng tôi nh́n nhau, chung bộ đồ Dù, một là chiếc nón đỏ với những trận chiến vang danh, một là chiếc nón xanh với những hoạt động biệt cách đởm lược. Tôi tiến đến bắt tay anh, người chỉ huy toán lính Dù quả cảm. Chúng tôi im lặng nh́n nhau, anh vẫn c̣n th́ thào : Địt mẹ nó!……
Tôi đích thân đưa anh vào một căn bỏ trống trong ṭa cao ốc, kêu toán phó băng bó vết thương ở vai và lưng cho anh rồi vội vă bỏ ra ngoài sau khi đưa cho anh chiếc áo dù c̣n mới toanh của tôi để thay chiếc áo đă bết máu khô. Ba người lính Dù vẫn lặng lẽ bám theo anh không rời một bước.
Tôi không nhớ anh mang cấp bậc nào, nhưng chỉ biết toán lính Dù này rút về đây khi trại Hoàng Hoa Thám đă hoàn toàn thất thủ. Sau khi chuyện tṛ thuyết phục, họ đă đồng ư ở lại với chúng tôi và trở thành một tổ mới trong toán. Về sau toán lính Dù này đă theo chúng tôi cho đến tọa độ cuối cùng.

TOẠ ĐỘ CUỐI CÙNG.

Thời gian như dừng lại, cái nắng ảm đạm của Sài g̣n như chuyên chở tâm tư tôi trở về với những thực tại phũ phàng:
Sụp đổ rồi ư những hoài băo ước mơ vá trời ngang dọc, có làm được ǵ không trong cơn tuyệt vọng cùng đường này.
Đầu óc tôi trống không mụ mẫm. Cổ họng tôi khô quánh lại. Những người lính của tôi dễ thương và tội nghiệp quá, làm sao để bảo vệ mạng sống của họ trong hiện tại và dẫn dắt họ trong đời sống vô định của một tương lai đen tối. V́ trách nhiệm, tôi bám chặt họ để làm lẽ sống.V́ quả cảm trung thành, họ quyết theo tôi cho đến bước đường cùng. Tôi đứng như trời trồng, nh́n sững xuống chân thấy bóng ḿnh dần thu ngắn lại.
Tiếng rè rè của PRC25 làm tôi giật ḿnh, đích thân Đại úy Biệt đội trưởng ra lệnh hành quân, các sĩ quan trong ban chỉ huy Biệt đội đă đồng ư một kế hoạch rút quân về toà nhà Quốc Hội, giá súng tại đây, tuyệt đối không buông súng trong vùng trách nhiệm. Trung đội Thám kích mở đường và tập hậu, chiếm các cao ốc làm điểm tựa cho cuộc rút quân.
Tôi tê dại đánh rơi cần liên hợp xuống mặt đường. Vậy là hết !…
Sững người trong phút chốc, tôi buông thơng:
– Đi .
– Đi đâu thiếu uư. Người toán phó nôn nóng hỏi.
Tôi nh́n anh ta với đôi mắt ngầu lên uất hờn tủi nhục rít qua kẽ răng đang nghiến chặt:
– Lệnh hành quân về quốc hội. Tôi đáp gọn rồi kịp quay đi dấu đôi ḍng lệ trào tuôn không cầm được.
Biệt đội đă bắt đầu di chuyển, ba toán nhảy theo chân sáo mà điểm đậu là các ṭa cao ốc để bảo vệ các trung đội xung kích di chuyển trên mặt đường.. Toán chúng tôi tuy vẫn giữ nguyên tắc tổ tam đầu nhưng tụ lại cho ấm cúng hơn.
Bỗng nhiên, tiếng máy của T54 đồng loạt gầm lên trên khắp ngă đường, những khối sắt đen đồng loạt ḅ ra dừng lại án ngữ những điểm chính yếu rồi đứng lại đe dọa, có tiếng click nhẹ của những khẩu M72 dương ṇng, tôi chưa kịp phản ứng ǵ th́ nh́n quanh, những người lính thiện nghệ của tôi đă vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, tôi vụng về dương ṇng cây M72 rồi ẩn ḿnh sau một gốc cây lớn vệ đường quan sát.
Một sự im lặng căng thẳng cùng cực, T54 gục ṇng trong tư thế trực xạ, M72 đă sẵn sàng với biểu xích đă bật lên, súng gh́m súng, mắt long lên theo từng động tỉnh của đối phương, chỉ cần một tiếng súng nổ là khai hỏa một trận chiến không ai lường được hậu quả. Lúc bấy giờ khả năng tham chiến của biệt đội 817 chúng tôi vẫn đầy đủ.


Chiến công cuối cùng của Biệt Đội 817 Liên Đoàn 81 BCD ngay giữa Thủ đô Sài G̣n sáng ngày 30-04-1975

Đang trong phút im lặng tử thần đó, một sĩ quan, nếu tôi nhớ không lầm là một toán trưởng kỳ cựu trong trung đội thám kích, một cánh tay phải của Biệt đội trưởng, đứng thẳng người, mạnh dạn bước ra, nh́n về hướng Biệt đội trưởng như chờ sự chấp thuận. Nhận được thủ lệnh, anh từ tốn cởi bỏ vũ khí để xuống mặt đường, rồi dỏng dạc bước ra đứng giữa đường lớn tiếng:
– Chúng tôi, biệt đội 817 Biệt cách Dù, chúng tôi không buông súng trong vùng trách nhiệm, chúng tôi đang hành quân về quốc hội để trả vũ khí lại cho dân. Giọng anh sang sảng bằng tiếng Bắc 54.
Phía đối phương không động tĩnh một hồi lâu, có lẽ họ đang liên lạc để chờ lệnh trên hay để đánh giá lực lượng chúng tôi trước khi quyết định việc ǵ. Sau đó, từ chiếc T54 phía sau, một người bên đối phương bước xuống nói chuyện với anh Sĩ quan toán trưởng này, hai bên tranh luận dằng co, lúc nhẹ nhàng, khi lớn tiếng, cuối cùng, anh toán trưởng quay trở lại, khuôn mặt đỏ ngầu. V́ sự an nguy của đồng đội, anh đă cố nén đi sự phẫn nộ, có lẽ anh đă quen nói chuyện với địch quân bằng một phương pháp cứng rắn hơn..
Sau khi về lại vị trí, anh toán trưởng này đă gọi mọi người cùng lên máy và chúng tôi nói chuyện bằng bạch văn.
Tôi được biết đối phương đă đồng ư để chúng tôi tiếp tục hành quân về toà nhà quốc hội, nhưng hai bên cùng thỏa thuận: trên lộ tŕnh hành quân, nếu gặp nơi đối phương đang trú quân, chúng tôi phải vác súng lên vai và ngược lại, khi chúng tôi nghỉ chân th́ bất cứ đơn vị nào của đối phương đi chuyển qua cũng phải vác súng lên vai không được ở tư thế tác chiến.
Đại úy Biệt đội trưởng ra lệnh tiếp tục hành quân.
Chúng tôi câm lặng di chuyển, trong ḷng thấm dần niềm đau nỗi nhục, nh́n quang cảnh phố phường lẫn lộn đỏ xanh của màu cờ gạt lừa dối trá.
Dân chúng hai bên đường nh́n chúng tôi như những bóng ma đang đi chuyển trong một nghĩa địa hoang tàn của Sài g̣n sau cơn binh lửa.

Đến ngă tư Trương minh Giảng- Công lư, một lần nữa tiếng gầm rú của T54 lại vang lên như đang cố gắng nghiền nát tinh thần chúng tôi. Đối phương đă huy động một lực lượng chiến xa lẫn chủ lực đáng kể nhằm khống chế chúng tôi tại chỗ. Toán nhảy tiền phương đă bị chận đứng không thi hành được nhiệm vụ v́ đối đầu với những khẩu 3.5 đang theo dơi bước chân của từng người lính thám kích. Nh́n chung quanh, đại pháo của chiến xa trên các ngă đường dang gục ṇng sẵn sàng khai hoả.Toán nhảy tập hậu đă gọi về báo một t́nh trạng tương tự ở sau lưng, trên các cao ốc đối phương đă hoàn toàn trấn giữ.
Chúng tôi nh́n nhau không biết phải làm ǵ, Biệt đội trưởng lắc đầu chậm chạp, từng khuôn mặt lặng câm không cảm xúc. Một cảm giác tê dại chạy khắp người tôi từ bàn chân lên đến đỉnh đầu.Tâm trí hoàn toàn trống không, tôi đứng như trời trồng uất nghẹn, mắt trợn trừng nh́n vào cơi hư vô, tai ù lên chỉ c̣n nghe tiếng mạch máu nhảy lên trong lồng ngực. Tôi nói như trong mơ:
– Các anh về với gia đ́nh đi.
…………………………

Từng người lính rời xa, trái tim tôi quặn thắt.
…………………………

Tôi không nhớ việc ǵ đă xảy ra sau đó, nh́n chung quanh trống vắng lạnh lùng, ṇng đại pháo trên các chiến xa T54 vẫn c̣n nh́n tôi với con mắt chột đen ng̣m lạnh lẽọ
Tôi lặng lẽ trút bỏ quân trang và vũ khí trên người, giắt khẩu P38 ngắn ṇng vào thắt lưng, đặt chiếc nón sắt nhẹ nhàng xuống một gốc cây gần đó, rút chiếc nón xanh của binh chủng đội lên đầu, vuốt sơ lại bộ quân phục đă nhàu nát và bước đi giữa những vết tích tàn lụn ngổn ngang của binh sĩ, như kẻ mộng du, nhắm về hướng Suối Máu, như loài cá vô tri t́m về nơi chốn đă khởi đầu một cuộc hành tŕnh dĩ văng.
Tôi bước đi như vào chốn không tên, tất cả giác quan đều ngưng hoạt động, mắt nh́n đăm đăm trơ dại, tai ù lên những tiếng vo ve nhức nhối, miệng lưỡi đắng khô và chân tôi đều bước nhịp quân hành…..Lúc bấy giờ trời đă nghiêng bóng, có lẽ đă hơn 2 giờ……..
– Niên ttrưởng! Niên trưởng! Trời ơi, giờ này mà Niên trưởng c̣n mặc đồ này đi coi chừng tụi nó bắn chết.
Một khoá đàn em hay một nguời lính nào đó nắm tay tôi, vừa la thất thanh vừa kéo tôi vào một hẻm nhỏ bên kia cầu xa lộ . Anh ta dằng lấy nón, cởi phăng áo tôi ra, rút khẩu P38 gói vào trong áo chung với chiếc nón xanh dấu vào một góc nhà, rồi khoác vào tôi một chiếc áo sơ mi cũ nhàu nát loang đốm vết dầu.Sau đó quăng cho tôi một chiếc quần cũng nhàu nát không kém và một đôi dép Nhật, tôi lặng lờ theo lời anh thay đôi giày và chiếc quần trận ra như một kẻ không hồn.
Anh dẫn tôi ra lại xa lộ, nắm tay khẽ bảo: Niên trưởng về nhà đi.
Và tôi lại lững thững bước đi…..Như một xác âm binh lạc lối……

Bước chân tôi dừng lại trước căn nhà trọ của gia đ́nh đă di tản từ Qui nhơn hơn tháng qua . Nh́n qua khe cửa hé mở, tôi thấy Mẹ tôi ngồi im lặng một góc theo lối Kiết già, Bà đang niệm Phật để nguyện cầu cho Quốc thái Dân an, hay cho hai đứa con trai đang c̣n măi mê ở chiến trường đâu đó. Tôi khẽ lách cửa bước vào, hai người chị gái tôi ngồi bệt dưới đất trong tư thế đợi chờ ngột ngạt không biết chuyện ǵ sẽ xảy đến.
– Mạ! tôi khẽ kêu lên.
Cả nhà nh́n lên tôi, ngạc nhiên, sững sờ, bể dâu của cuộc đời đă thể hiện cả lên h́nh hài tôi qua bộ đồ dân sự nhàu nát.
Mẹ tôi nh́n tôi từ trên xuống dưới, cái nh́n đau đớn đến vô hồn của một bà Mẹ đi nhận xác con.
Vâng! con của Mẹ đă chết trong ngậm ngùi, mang theo những hoài băo ước mơ vá trời lấp biển, và nó đang về đây với cái xác không hồn từ cơi âm ti…..

Tôi viết lên những ḍng chữ này để nhớ đến những người lính quả cảm trung thành cùng binh chủng. Đây là dấu tích sau cùng của riêng tôi trong đoạn đường binh nghiệp ngắn ngủi .

Trong những ngày cuối tháng tư đen, hảy chia xẻ niềm đau với biết bao nhiêu người trai trẻ đă bị sống trong cảnh bức tử oan nghiệt .
Thượng cấp, v́ quá lệ thuộc vào ngoại bang, đă tước bỏ đi của chúng tôi cái quyền căn bản của các cấp sĩ quan trẻ đầy lư tưởng và nhiệt huyết:
QUYỀN ĐƯỢC CHIẾN ĐẤU ĐỂ ĐI ĐẾN CHIẾN THẮNG HOẶC HY SINH BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI LÍNH THÂN YÊU.

MINH CUI
Khóa 28 Vơ Bị Đà Lạt

cha12 ba 09-19-2019 13:47

To HL
Nếu bài này đă có, bác cứ delete.
Thân
c12 ba

hoanglan22 09-19-2019 14:19

Minh cui ( minh gồ ) thuộc Biệt đội 817 nằm trong bộ chỉ huy chiến thuật 3 thuộc Thiếu tá Phạm châu Tài . Biệt đội 817 dưới quyền chỉ huy của TRung úy lợi ( là chú của một nick hải thuyền sát cộng trong forum này ) Biệt đội 818 do đại úy Ánh chỉ huy . Toán của tui rút về từ núi bà đen ( biệt đội 813 do trung úy Hợi nắm quyền ) sau khi phá đài truyền tin ở núi bà dend9e63 bọn chúng khỏi xử dụng và rút lui thất lạc đơn vị rút về sài g̣n sát nhập vào 818 trinh sát

Theo tin tức lúc đó tui c̣n nhớ , một trung đội thuộc biệt đội 819 giải vây cho 2 chuyến xe bus bị bọn nào đó uy hiếp khi tiến vào phi trường . Trung đội này sau đó họ bảo vệ và đưa những người này vào phi trường để di tản

Biệt độ 818 thả dọc từng toán từ trại dù Hoàng hoa thám đến ngă tư 7 hiền cùng phối họp với biệt đột 817

Toán biệt kich 18 người bị bọn nó bắt và giết ở hố nai , tui nhớ mang máng trực thuộc bộ chỉ huy chiến thuật 2 do Thiếu tá sơn nắm quyền

Mỗi người lính nằm trong đơn vị chiến đấu th́ không thể thấy toàn cảnh sự việc , chỉ bổ túc thêm những sự kiện để góp vào quân sử

hoanglan22 09-20-2019 18:34

Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân & Mặt Trận Phan Rang
 
1 Attachment(s)

Bốn mươi năm nh́n lại ngày Phan Rang thất thủ, tôi lại nhớ một khuôn mặt tướng lănh cựu tư lệnh sư đoàn 6 không quân (bản doanh đóng tại Pleiku), người đă bị địch bắt tại chiến trường, bị đem ra Bắc và trở thành người tù có thâm niên cao nhất (17 năm).

Trong số các sĩ quan bị trả thù sau cuộc chiến, ông là người vào tù sớm nhất (16-4-75) và ra trại trễ nhất (11-2-92). Thân tàn lực kiệt ông sống thêm được 10 năm và mất tại Quận Cam năm 2002. Trước khi mất ông dồn sức cố viết một hồi ức về trận đánh Phan Rang và làm một điều chẳng ai bắt ông phải làm là tỏ lời cáo lỗI cùng đồng bào qua mấy ḍng bi tráng, Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào, v́ làm tướng mà không giữ được thành.

Nói đến quân chủng Không quân người ta nhắc nhiều đến những khuôn mặt vừa hào hoa vừa gan dạ, lấy không gian làm nhà, lấy nghiệp bay làm lẽ sống, và trong hàng tư lệnh mang sao đă có hai ông một thời làm tới Phó tổng thống và một ông làm tư lệnh cảnh sát đă tự tay bắn chết tên VC trong tết Mậu thân (mà sau này hăng CNN đă chọn là một trong số 100 sự kiện nổi bật của…thế kỷ 20!).

Nhưng dư luận và báo chí ít chú ư đến vị tướng gốc Nam bộ này, tên ông chỉ được nhắc khi được đề bạt làm tư lệnh một sư đoàn sau chót của không quân mới thành lập cuối năm 1972 nhằm yểm trợ cho chiến trường cao nguyên và trở thành bại tướng khi Phượng Hoàng (danh xưng chỉ huy của ông) găy cánh tại Phan Rang hai tuần trước ngày mất nước.

Ngược ḍng tiểu sử ít ai biết tướng Phạm Ngọc Sang, người đă có gần 25 năm quân vụ, nguyên xuất thân là một sĩ quan bộ binh (khóa 1 Thủ Đức), sau được tuyển sang không quân du học tại Pháp, trở thành một phi công chuyên lái vận tải. Nhờ tài năng và tác phong gương mẫu, ông được tin cậy và là một trong ba người được chọn lái riêng cho tổng thống Diệm. Sau 63 trả về không quân ông tiếp tục bay và có thời đă làm Chỉ huy trưởng trung tâm đào tạo phi công tại Nha trang. Ông cũng là chánh vơ pḥng cho tướng Kỳ khi ông này làm chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương.

Trước khi vào quân ngũ ông cũng từng là nhà giáo, có kiến thức văn hóa, song hành với nghiệp bay, ông là sĩ quan cấp tá duy nhất tốt nghiệp các khóa quân sự về chỉ huy tham mưu và quốc pḥng nổi tiếng của Việt nam và Hoa kỳ, đáng kể là khóa cao đẳng quốc pḥng (VN), chỉ huy tham mưu cao cấp tại Leavenworth (Kansas) và quản trị quốc pḥng tại trường đào tạo hậu đại học của Hải quân Mỹ tại Monterey (California).

Cứ dựa vào thâm niên và tài năng ông xứng đáng trở thành Tư lệnh của quân chủng, nhưng vốn không có tham vọng, lại khiêm tốn, không phe cánh, măi đến 1972 mới lên tư lệnh và được thăng một sao một năm trước ngày găy cánh. Cũng năm này được tuyên dương trước toàn quân với Anh dũng bội tinh kèm nhành dương liễu về công trạng yểm trợ không lực hữu hiệu cho chiến trường cao nguyên.

Là người hay viết về chân dung tướng lănh của Quân lực VNCH khi các vị nằm xuống, tôi hụt viết về chuẩn tướng Sang khi ông từ giă bạn bè và người thân v́ ngày ấy tôi chưa quay lại làng văn làng báo. Nhưng cũng may tôi có dịp gặp ông hai lần trớ trêu thay trong cùng cảnh tù của một trại giam hắc ám nhất miền Bắc, trại Nam hà, rồi khi ra hải ngoại lại có dịp được biết thêm về ông qua các sĩ quan thuộc cấp đă gần gũi ông tại Pleiku và những tháng ngày cuối cùng trước ngày Sài g̣n tắt thở.

Viết về ông hơi khó v́ bản thân ông không thích người khác ca ngợi ḿnh, lại càng kín tiếng v́ không thích chuyện chính trị, ông là một mẫu quân nhân thuần túy, dù là một phi công mang tiếng hào hoa nhưng cá nhân lại hết mực nghiêm túc, trọng quân phong quân kư, có thể v́ gốc nhà giáo và luôn tỏ ra gương mẫu trong nếp chỉ huy của quân trường, nơi một lần ông đă uốn nắn các sinh viên sĩ quan theo đuổi nghiệp bay cả về kỹ thuật lẫn tác phong.

Tôi nhớ lần lén gặp ông trong khu biệt giam tướng lănh, khó ai ngờ ông là tướng một sao, cảm tưởng nh́n ông cặm cụi tưới mảng rau thơm và rau cải để tự cải thiện trong một khu đất khép kín của trại tù, người ta h́nh dung giống như một ông giáo già người Nam bộ đang chăm sóc mảnh vườn nhà èo uột dưới quê.

Nhưng bên trong con người này là một nhân cách đáng kính, lầm lỳ ít nói, ngay cả khi địch bắt cũng chẳng khai thác được ǵ, bảo lên đài nói để kêu gọi binh sĩ ta đầu hàng buông súng ông không chịu làm, bảo thành khẩn khai báo quá tŕnh bản thân để sớm được tha ông vẫn an nhiên tự tại, ông không dại ǵ mà chống khi cánh bay đă găy, nhưng phía cán bộ địch vận ở trung ương và quản lư trại giam nơi nhốt ông, họ biết người này khó mà chiêu hồi, cải tạo, có thể v́ vậy mà khi trại giam tù cải tạo cuối cùng trên đất Bắc đóng cửa, người ta đem ông về Nam để nhốt thêm. Ông là người cuối cùng ra khỏi trại giam sau 17 năm, chính thức khai tử cái chính sách khoan hồng mà cộng sản rêu rao dành cho những kẻ cựu thù của chúng.

Trở lại những ngày cao nguyên di tản, ông là nhân chứng đầu tiên ngoài tướng Nguyễn Văn Phú, người nhận lệnh từ tổng thống Thiệu. Ông vẫn hận về cái lệnh quái đản bằng miệng từ người tổng tư lệnh cho một tư lệnh quân đoàn qua đường điện thoại (từ Khánh Ḥa Nha Trang), áp đặt một quyết định sinh tử cho việc tháo lui bỏ ngỏ một vùng cao nguyên chiến lược mà chính người thi hành chỉ có không đầy… 72 tiếng đồng hồ để sắp xếp!

Ông vẫn c̣n nhớ như in trong cuộc họp tham mưu tại văn pḥng tướng Phú, cú điện thoại gần như độc thoại từ đầu dây bên kia và phía đầu dây bên này chỉ có những độc âm…dạ, dạ, dạ,…rồi ngưng, không kịp để phát thêm một lời xin giải thích và nhu cầu thời gian cho một cuộc di tản chiến thuật vô tiền khoáng hậu. Mặt buồn như người đưa đám, người tư lệnh cấp cao hơn ông chỉ đạo các đơn vị tự lo lấy phương tiện chuẩn bị băng qua con lộ 7, mà mấy ngày sau thành tử lộ trên đường rút về Tuy ḥa, một thị trấn gần Nha Trang, nơi chưa đầy một tuần trước ông Thiệu và đoàn tùy tùng có cả đại tướng Cao Văn Viên đă có mặt tại đây.

Chưa đầy một tháng sau, bản đồ miền Nam được vẽ lại, Phan Rang trở thành tuyến đầu của lănh thổ cộng ḥa. Tướng Thiệu cho gom góp các đơn vị vừa tản hàng sau cuộc di tản, từ cao nguyên đổ về, từ miền Trung dạt xuống, bằng mọi giá phải bảo vệ thị trấn này cũng là hometown của ông, không để cho Bắc Việt lấn chiếm thêm. Từ đây, tướng Sang thêm một nhiệm vụ mới, làm phụ tá cho tướng ba sao Nguyễn Vĩnh Nghi, một cựu tư lệnh đồng bằng sông Cửu đang bị thất sủng nên chịu giữ chức tư lệnh tiền phương pḥng thủ Phan Rang.

Có một giai thoại là tại mặt trận tiền phương, tướng Nghi đă chỉ định tướng Sang đặt bộ chỉ huy trên không để dề bề điều động phối hợp, nhưng ông đă nói đùa, tướng 3 sao dưới đất, tướng 1 sao trên trời coi sao tiện, ông đă xin cùng ngồi ở bộ chỉ huy đóng gần phi trường, để rồi cùng số phận ít ngày sau khi Phan Rang thất thủ cả hai ông trở thành tù binh có cấp bậc cao nhất bị bắt tại chiến trường. Một thuộc cấp cũng là bạn của tôi thuật lại nếu Phượng Hoàng cứ ở trên không th́ chiếc vận tải biết đâu đă quay hướng Sài g̣n và số phận của mấy thầy tṛ đă có ngả rẽ khác.

Viết lại về ông điều đáng nói không phải muốn đề cao một khuôn mặt từng được kính nể cả về tài năng lẫn phẩm chất, cái đáng phục dù không được nhắc nhớ như năm vị tướng đă chết theo thành, nhưng Phuợng Hoàng khi găy cánh đă trả giá bằng những tháng năm tù đầy gian khổ qua các trại giam của kẻ thù từ Bắc vào Nam, rồi trước khi về cơi đă dũng cảm nh́n lại bằng tri nhớ của ḿnh và nhờ các thuộc cấp bổ sung, ông đă viết được một tài liệu mang tính hồi ức thuật lại trận đánh Phan Rang mà những chi tiết có thể dùng làm tư liệu cho người viết quân sử.

Theo dư luận chung ông chẳng có lỗi ǵ, trái lại đă làm hết sức ḿnh trước t́nh h́nh vận nước đă đến hồi mạt vận, dù ông đă tự thân xin lỗi đồng bào v́ đă để mất Phan Rang. Các đồng đội vẫn tự hào khi nh́n lại thấy Thầy ḿnh sống chết có nhau, hơn nhiều kẻ chóp bu đă bỏ thành trước giờ tàn cuộc.

Mọi sự đă thuộc về lịch sử, thắng thua để các người sau phân giải. Bên thắng cuộc họ mới kỷ niệm ầm ỹ 40 năm Sài g̣n mất tên, nhưng cảnh đói nghèo tụt hậu vẫn c̣n là vết thương nhức nhối của một quê hương tan nát.

Tôi mượn lời của các thuộc cấp trong lễ truy niệm với đầy đủ lễ nghi quân cách trong ngày tiễn ông ra đi, “Thôi th́, ân đất nước đă đền, nghĩa đồng bào đă trả, xin Tướng quân thanh thản ra đi”. Chúng tôi, những người lính không cùng quân chủng, với ḷng quí mến của các cựu tù xin Phượng Hoàng cứ yên nghỉ ngàn thu.

Viết tại quận Cam
Đỗ Xuân Tê

hoanglan22 09-20-2019 18:37

Mặt Trận Phan Rang
 
1 Attachment(s)


Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đ́nh quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đă bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ng̣i chờ viện binh. Măi đến ngày 16.4.1975, khi tung ra toàn lực áp đảo, chúng mới vào được Phan Rang

Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, th́ căn cứ Phan Rang đă anh dũng chống cự, và đă làm thiệt hại đáng kể cho quân đội chánh quy Bắc Việt. Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhứt: từ ngày 1 đến 3.4.1975, là giai đoạn h́nh thành tuyến pḥng thủ, với Sư đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị địa phương quân c̣n lại.

Sư đoàn 6 Không quân gồm:
- 3 Phi đoàn A-37, 524, 534, 548
- 1 Phi đội A-1
- 2 Phi đội tản thuơng 259 B và 259 C
- 2 Phi đoàn Trực thăng 229 và 235
Lữ đoàn 3 Dù gồm:
- Bộ chỉ huy
- Tiểu đoàn 5

Giai đoạn thứ hai: từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến pḥng thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định t́nh h́nh sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đă hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.

Lữ đoàn 2 Dù gồm:
- 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11
- 1 Tiểu đoàn Pháo binh
- Các đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận

Giai đoạn thứ ba: từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:

Liên đoàn 31 Biệt động quân gồm:
- 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52.

Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương:
- Toán Thám sát / Nha Kỷ thuật

Sư đoàn 2 Bộ binh gồm:
- 2 Trung đoàn 4 và 5
- 2 Pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly
- 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc

Lực lượng Hải quân gồm:
- Duyên đoàn 27
- 2 Khu trục hạm
- 1 Giang pháo hạm
- 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ

Trong 2 ngày 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về Saigon. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và pḥng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 sư đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên đoàn 27 đă có mặt tại Phan Rang, Hải quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ.

Lực lượng địch:
Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ng̣i chờ đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.)

I. H̀NH THÀNH TUYẾN PH̉NG THỦ

Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, v́ một số lớn quân nhân Địa Phương Quđn canh gác ṿng đai đă bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ v́ lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh trưởng đă rời nhiệm sở, dân chúng th́ ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Vơ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi B́nh Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong t́nh trạng hết sức cô đơn.

Chuẩn bị t́m phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. V́ vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử đoăn III được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp pḥng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng ḷng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong t́nh trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí việc pḥng thủ căn cứ với Không đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn Thiệt v́ căn cứ mênh mông với ṿng đai h́nh vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên đoàn Pḥng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác ṿng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ không quân Phan Rang đă trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung tá Diệp ngọc Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra t́nh trạng bung chạy, v́ quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.
Trung tá Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đê am hiểu t́nh h́nh mới, chấp nhận thực trạng và hết ḿnh nổ lực chiến đấu v́ nhu cầu pḥng thủ.

Vào buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi t́nh h́nh. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Saigon.

Ngày 2.4.1975, Saigon tăng cường một đơn vị Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả.

Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẻ ra cũng đă bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết tŕnh t́nh h́nh, Trung tướng Toàn nói:” kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của quân đoàn.”

Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.

Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xă và nội vi phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xă, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn c̣n rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ đă chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt b́nh thường.

Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. đă sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.

Trung tá Lê Văn Bút Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đă bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm.

Trung tá Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.

Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Saigon, th́ VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá.

Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại v́ xe bồn không cung cấp như b́nh thường, bởi cảng Cam Ranh đă bị địch chiếm. V́ vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quđn mà thôi.

Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu.

Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung tá Lư Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện t́nh ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời tŕnh thuật của Trung tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không c̣n có ư định dính líu ǵ nửa đến cuộc chiến đang diễn tiến hiện nay.

II – BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG
Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc pḥng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đă tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được th́ không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đă xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra c̣n có một ít đường ṃn từ Vườn Dừa, Ba Ng̣i chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường ṃn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.)

Thị xă và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xă. Từ thị xă đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xă, mặt đất bằng phẳng.

Phi trường Phan Rang rất rộng, h́nh vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc pḥng thủ bao gồm 60 cḥi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa phương quân phụ trâch.

Ngày 4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị xă Phan Rang. Ông cho biết là đă được Thượng cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui ḷng đảm nhận chức vụ.

V́ địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc pḥng thủ, nên Trung tướng Nghi quan niệm:

” Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối họp với một số đơn vị Địa phương quđn c̣n lại.”

Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch pḥng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời pḥng thủ được. Đó là:

Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ.

Mặt phía Tây, trín Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.

Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa phương quân phụ trách.

Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không quân thất lạc tŕnh diện xin phương tiện về Saigon và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Chúng nói v́ có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng c̣n nấp chờ chi viện.

Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Ṭa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về ṭa đại sứ.

Trong mấy ngày qua, tôi đă điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô t́nh tôi đă biến căn cứ Không quân Phan Rang thành một cứ điểm pḥng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy.

Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân đă có sự b́nh thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội Địa phương quân phụ trách canh gác ṿng ngoài phi trường tiếp tục trở về.

Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vă đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám của họ theo đă chạy tiếp thu, có thể đă xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ng̣i, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ.

Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.

Đại tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa phương quân và Nghĩa quân.

Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu đoăn Pháo binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến pḥng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường.

Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xă đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được trực thăng của Sư đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.

Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, v́ ngở Phan Rang đă bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, t́m thấy bộ đồ bay của Trung úy Lư Tống, thuộc Không đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, c̣n để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của ḿnh vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lư Tống là người đă thả truyền đơn chống cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.)

Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu đoàn 5 Dù đă trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đă hoàn toàn kiểm soát được t́nh h́nh vốn bị tŕ trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.

Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, th́ Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đă được cấp tốc thi hành, và Trung đă không bay qua đây.

Đặc biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đă giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa quân và Nhân dân tự vệ của giáo sứ, đă thành công bảo vệ địa phận ḿnh chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch.

Ngày 9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Vơ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Ḥa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương t́m kiếm và chở về các toán c̣n kẹt lại của Lữ đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp t́m kiếm, chọn băi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đă mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân của các Tiểu đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Saigon. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đă phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.

Trong thị xă, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa phương quân. Ngoài thị xă, dân chúng hăy c̣n e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại b́nh thường, tạo nhiều phấn khởi.

Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.

Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc pḥng thủ Phan Rang.

Lệnh từ Quân đoăn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn, và Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa.

Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, th́ được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng.

Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại B́nh Tuy và đang được bổ sung quân số th́ được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy c̣n hoang mang, dao động. V́ chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.

Bộ Tổng tham mưu Pḥng 7 vừa bổ sung toán thám sát, v́ kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang.

Chuẩn tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc pḥng thủ. Cả hai vị đều tỏ ư bất đồng về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, v́ khi hữu sự dưới lằn đạn pháo th́ không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đă từng vội vă rút quân vă c̣n đang chờ đợi bổ sung quân số.

Trung tướng Nghi cũng bất ngờ v́ không có được những đơn vị như đă hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang.

III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến pḥng thủ Phan Rang.

Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Pḥng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc Việt.

Tướng Times của Ṭa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Ṭa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất b́nh tĩnh lúc địch dồn dập tấn công.

Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn cứ không quđn. Các đơn vị địch đang t́m cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích.

Tiếc thay, trong t́nh thế như vậy mà cơ cấu pḥng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần.

Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3 Dù rời căn cứ, th́ Đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt động quân và 3 tiểu đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Ḥa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vă đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu đoăn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân th́ chạm súng với các toán thăm ḍ của địch.

Cùng lúc, Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ B́nh Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.

Theo khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân, Đại tá Nguyễn Đ́nh Giao, Tham mưu trưởng Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tđn Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn.

Ngày 14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường v́ Lữ đoàn 2 Dù đă hết nhiệm vụ và đă bàn giao với Trung đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu khu trong đó có một Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.

Thị xả được pḥng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân c̣n lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại tá Trần Văn Tự.

Cũng để dự pḥng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành quân.

Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh thăm ḍ cơ cấu pḥng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đă xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng vơ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa pḥng thủ phi trường bị chây. Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công.

Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc pḥng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa quđn có mặt tại đây.

Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm ḍ của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua. .

Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc pḥng và Trung tướng Nguyễn Văn Toăn Tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết tŕnh t́nh h́nh và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng Tổng trưởng Quốc pḥng tỏ vẻ chú trọng đến việc pḥng thủ Phan Rang và hứa sẽ t́m mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.

Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ng̣i. Biết ư định của địch, Trung tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề pḥng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.

Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua pḥng tuyến pḥng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đă ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng v́ không đủ phương tiện soi sâng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể b́nh xăng phải về đáp. Trận nầy Không đoàn 92/Chiến thuật đă tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530.

Tôi cùng Trung tá Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975.

Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin ǵ từ Du Long của Liên đoàn 31 Biệt động quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36 Biệt động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú Tiểu đoăn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu v́ lư do ǵ mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ chỉ huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là v́ đă 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miíê đụng địch nên cấp số đạn dược mang theo đă gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nh́n vào phi trường thấy đang bị pháo kích.)

Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tđy. Đến khi pḥng không chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn cấp, th́ đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích.

Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo là Du long bị mất và địch đă vào thị xă khiến cho Trung tướng Nghi phải t́m phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt vừa đặt văn pḥng cạnh Văn pḥng Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét t́nh h́nh. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị ḿnh.

Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5 đang pḥng ngự địch tràn lên từ thị xả, th́ bên trong căn cứ t́nh h́nh bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đă rời căn cứ. C̣n lại chỉ có một số rất ít trực thăng vơ trang và tản thương ở lại đến phút chót.

Khoảng hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng vơ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường th́ t́nh h́nh đă khá nguy ngập. Trung đoăn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.

Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để tái duyệt xét t́nh h́nh. V́ lẽ mặt trận đă bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến pḥng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được pḥng tuyến bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.

Khoảng 10,30 giờ sáng, măi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh Tiền phương th́ Trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng ḿnh rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập pḥng tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Ṭa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt động quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.

Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, v́ không liên lạc được với Chuẩn tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngă ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa.

Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn 3 Dù lần xuống băi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không c̣n thấy Giang đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một băi cát xa hơn về hướng Nam của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát ṿng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh tiền phương, nhưng v́ Trung tướng Nghi không thuận cho đáp v́ lư do an toàn băi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.)

Tiểu đoàn 11 Dù c̣n lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Qúy về được an toăn.

Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên đường rút về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đă đóng làm nút chận tại đây rồi,

Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa, th́ Sư đoàn 325 VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.

Thiệt hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng kể v́ mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.

Hải quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị ch́m và một chiến hạm bị pháo.

Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó ḷng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. V́ vậy Trung tướng Nghi quyết định v́ sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không v́ an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đâp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.

Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa th́ bị phục kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, v́ làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.

IV. KẾT LUẬN
Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương th́ phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư doăn 6 Không quân đă khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh.

Địa phương quđn và Nghĩa quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo xứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ.

Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hảy c̣n hoang mang, dao động v́ lo lắng cho thân nhân c̣n kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đă cố gắng tham dự.

Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.

Lữ đoăn 2 Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù đă chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc pḥng thủ, đáng lư Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.

Chiếm được Phan Rang, địch mới có lư do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lư ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay v́ năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: ” Khi chiếm được Phan Rang th́ coi như chiếm được miền Nam.” Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn pḥng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quđn lực Việt Nam Cộng Ḥa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quá lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.

Đă hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể c̣n nhớ đầy đủ các diễn biến liên quan đến việc pḥng thủ Phan Rang. Tôi đă tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với kư ức, tôi đă cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.

Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang

hoanglan22 09-21-2019 19:46

“Hai h́nh ảnh. Một đời người”
 
2 Attachment(s)






Từ cuộc đời của một chú Tiểu đến tuổi bút nghiên, sang đời binh nghiệp, đánh giặc, anh hùng mạt lộ bị bắt làm tù binh, rồi vượt ngục, vượt biên lưu vong làm bố sắp nhỏ… và sau cùng trở thành nhà sư Phật Giáo. Nhất định Thầy Huệ Quang có rất nhiều kinh nghiệm cuộc sống. Thầy sẽ hoan hỷ chia sẻ với mọi anh chị em cựu quân nhân chúng ta nói riêng và những ai thích thú nghe về những chia sẻ của thầy,… những kinh nghiệm mà thầy đă từng trải và sự hiểu biết về đạo Phật của thầy ...–BKT

*******
“Hai h́nh ảnh. Một đời người” của Biệt Cách 81 dù Ngô Nhựt Tân.
... Tôi sanh ra tại Phan Thiết. Năm 8 tuổi mẹ cho vào chùa tu học, “để tránh cho con khỏi đi lính sau này,” bà nói với tôi như thế. Cha tôi là một cán bộ tập kết lúc tôi vừa tṛn một tuổi, theo chân Hồ Chí Minh với một ước vọng điên rồ là đẩy đất nước vào thiên đường xă hội chủ nghĩa.
Trong đời tu hành, tôi may mắn gặp được một vi minh sư, Thầy Thích Châu Đức, giảng sư Tỉnh Hội Phật Học Phan Thiết. Thầy tôi thuộc ḍng Thiên Minh, Huế, đệ tử của Ḥa Thượng Thích Quảng Huệ, nên đặt pháp danh cho tôi là Quảng Hạnh. Tôi gọi Ḥa Thượng Thích Măn Giác, hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, là sư bác. Ông mất năm 2009. Thầy tôi có một lời nguyền là không bao giờ nhận đệ tử, nhưng v́ mẹ tôi có công với đạo pháp – bà giúp việc Phật sự cho chùa nhiều năm và chính thức vào sống hẳn trong chùa từ năm 1968 – thầy đă nhận tôi làm người đệ tử duy nhất. Tôi được đưa về làm điệu tại chùa Thiên Minh, ngoài Huế, nên tôi đọc kinh rất ư là Huế và rành rơi việc kinh kệ và tán tụng. Năm 1966, thầy gửi tôi vào tu học tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, tại đây tôi được cạo cái chỏm tóc mà tôi rất ư là ghét và đă thọ sa di giới trong một đại giới đàn do Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết chứng minh. Năm 1968, tôi rời viện vào Sài G̣n tiếp tục việc học.

Năm 1970, tôi chính thức bỏ áo tu và năm 1971 gia nhập khóa 4/71 Thủ Đức/Sĩ Quan Trừ Bị QLVNCH. Ngày 29 Tháng Bảy năm1972 tôi măn khóa, mang cấp bậc chuẩn úy và phục vụ tại Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tháng Giêng năm 1975, tôi thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù, phục vụ tại Tiểu Đoàn 5, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cho đến ngày đơn vị tan hàng tại mặt trận Khánh Dương. Tôi chạy vào được gần Phan Rang th́ bị bắt và nhốt tại trại cải tạo Cà Tót. Năm 1978, tôi cùng một số lớn tù cải tạo được tạm thả và được đưa về Phan Thiết điều trị bệnh, v́ quá nhiều tù nhân đă chết v́ một chứng bệnh kỳ quái không tên khi ở trong khu rừng thiêng nước độc Cà Tót.

Khi được lệnh triệu tập của Việt Cộng để trở lại học tập cải tạo, tôi đă cướp ghe và cùng một số cựu quân nhân vượt biển, đến được bờ tự do sau bốn ngày lênh đên trên biển Thái B́nh Dương. Tháng Mười Hai năm 1978 tôi định cư tại Canada. Năm 1979, tôi lấy vợ và có hai con, một trai một gái.
Tôi trở lại sinh hoạt với chùa chiền năm 1980 v́ dân tỵ nạn tại Ottawa cùng góp công góp của xây chùa, nhưng không ai biết kinh kệ một cách chuyên nghiệp như tôi.

Đại Đội 4 Xung kích/LĐ81BCD, người đầu tiên trong ảnh này là MĐ Ngô Nhựt Tân, hiện nay là nhà sư Huệ Quang.

Tôi làm trong nghành computer sau khi học xong college. Tôi dốt về kỹ thuật lắm nhưng phải chịu đấm ăn xôi để đem pay cheques về cho vợ nuôi các con. Biết ḿnh sẽ không sống sót lâu trong lănh vực điện toán, tôi túc ta túc tắc lấy courses ban đêm, năm 2002 tôi hoàn tất được cử nhân tâm lư.

Vợ con lúc này cũng khá ổn định về nghề nghiệp và học vấn, tôi xin phép vợ đi tu. May thay, mặc dù là một người Công Giáo gốc, bà hỗ trợ cho việc trở lại con đường tu tập của tôi. Tôi phục vụ cộng đồng một thời gian, và nhờ t́m ṭi nghiên cứu, tôi thấy ḿnh thích hợp với truyền thống nguyên thủy hơn là đại thừa. Tôi khăn gói đi Miến Điện (Myanmar tức nước Burma cũ) thọ tỳ kheo giới bên đó, lưu lại tu học cho đến khi thầy cho phép trở lại quê nhà Canada để trao truyền lại pháp môn thiền định Vipassana theo truyền thống Miến Điện.

Năm 2014, tôi học xong cao học nghành Tôn Giáo và Chính Trị. Năm 2016, tôi nhận được học bổng để theo học PhD Khoa Chính Trị tại Đại Học Carleton. Hiện nay, tôi vừa học vừa dạy về chính trị cho sinh viên năm thứ nhất và năm thứ nh́ cũng tại Đại Học Carleton, Ottawa, Canadahttps://carleton.ca/polisci/people/tan-ngo/

Ngoài ra, tôi cũng đang dạy thiền và Phật pháp cho Phật tử tại chùa Tích Lan. Riêng ngôi chùa Từ Ân là nơi tôi đang sinh hoạt thường xuyên, ngoài việc lo cho phật tử việc kinh kệ và thiền định, tôi c̣n phụ trách việc giảng dạy cho sinh viên và học sinh trung học thường xuyên đến chùa để tham khảo và nghiên cứu về đạo Phật.

Theo Triết học về Tôn giáo (Philosophy of Religion, William L. Rowe, second edition, Wadsworth Publishing, 1993), từ khi có con người, v́ cảm thấy ḿnh quá nhỏ bé, và khiếp sợ thiên nhiên, nên ở đâu cứ thấy núi th́ thờ thần núi, sông th́ thờ thần sông, hễ thấy cái ǵ ngoài tầm hiểu biết th́ cứ thế mà thờ lạy. Tôn giáo v́ thế, không thể tồn tại ngoài con người v́ từ con người mà ra. This exists because that exists.

Trong Phật Giáo có câu “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác,” có nghĩa là ta phải t́m Phật pháp ngay trong cuộc sống của chúng ta, nếu bỏ thế gian này để đi t́m sự giác ngộ th́ chẳng thể nào t́m ra được. Nói đến đạo Phật chúng ta cần phải nghĩ đến cái gọi là Buddhism Engagement, có nghĩa là đạo Phật đi vào cuộc đời. Đạo Phật không thể tồn tại được nếu chúng ta cứ theo một khuôn ṃn lối cũ; đó là ê a tụng niệm kinh kệ bằng tiếng Hán. Đạo Phật cũng không thể phát huy bên Tây phương được nếu cứ nh́n đạo Phật qua một lăng kính mê tín dị đoan.

Đạo Phật rất đơn giản. Sự giác ngộ nằm trong tầm tay của người thực hành, và ngay trong cuộc sống hàng ngày. An lạc và hạnh phúc có mặt chung quanh chúng ta; hàng ngày, hàng giờ chúng ta nh́n nhưng không thấy được chúng. Một Phật tử hỏi tôi “tại sao con cứ khổ hoài trong khi con đi chùa thường xuyên và bố thí nhiều lắm, có phải điều Phật dạy khó thực hành lắm phải không thầy?” Tôi trả lời, chúng ta không làm được điều Phật dạy v́ điều ngài dạy đơn giản quá.

Chúng ta có khuynh hướng đi t́m những điều linh thiêng hay phép mầu từ chư Phật để cầu xin. Phật thua xa David Copperfield, một nhà ảo thuật lớn mà thế giới ai cũng biết tên, v́ ngài không làm được những điều của Copperfield. Ngài không thể ngồi một chỗ búng hay khảy móng tay, móng chân và làm cho chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới như chúng ta thường nghe mấy thầy giảng dạy, cho dù có nhiều vị cũng cố giảng nghĩa qua một lăng kính khác, để phật tử nghe dễ chấp nhận hơn. Ngài chỉ thở, nhưng thở từ ngày này qua ngày khác, tháng nọ sang tháng kia, với một sự tỉnh thức trong từng giây phút. Phật đă dạy một con đường đơn giản, nhưng chúng ta không chịu đi, chỉ v́ chúng ta c̣n nhiều ham muốn trong cuộc đời. Nếu có người chịu đi th́ họ lại thiếu kiên nhẫn hay thiếu nỗ lực bỏ dở nửa chừng. Tôi thường nhắc nhở phật tử “đạo Phật là đạo để nếm chứ không phải đạo để nói.”

Có nhiều người nói rất văn hoa, trôi chảy v́ đạo Phật cho họ những điều kiện tốt để họ nói, nào là kinh, luận này luận nọ, nào là duy thức tông, nào là hoa nghiêm tông, nào là thiền tông. Nhưng khi nói động đến họ th́ họ nổi cơn tự ái như một kẻ điên. Mớ lư thuyết của đạo Phật mà họ đọc được tự dưng biến mất, lúc ấy chẳng có ǵ ngoại trừ một cái ngă to tướng…

Tôi nói với những người Phật tử Tích Lan, “Có một cái thước để đo sự tu tập của quư vị. Nếu ai nói động đến quư vị mà quư vị nổi điên lên, hay chỉ một chút bực ḿnh nhỏ, quư vị nên nhận biết là quư vị đă tu sai rồi và phải bắt đầu trở lại từ con số không. Nếu nhận biết ḿnh không hờn giận khi người khác nói động đến ḿnh, đừng tự măn, phải tiếp tục con đường tu tập v́ đường tu tập giống như đi ngược ḍng nước, nhiều chông gai và nặng nề lắm. ”

Nếu các bạn muốn đi t́m một vị thầy để nương tựa tu tập, không cần phải đi t́m một cao tăng, nhưng hăy t́m một thanh tịnh tăng.

luyenchuong3000 09-30-2019 22:54






Van Nghia Tran<a rel="theater" class="_5pcq" href="https://www.facebook.com/photo.php?fbid=13547 4314405975&set=a.110 067296946677&type=3" target=""><abbr title="04:56, 29/09/2019" class="_5ptz">Hôm qua lúc 04:56</abbr>

50 năm Tao gặp lại Mầy.Sao Mầy vẫn tuổi 20 (1950-1970).
Gặp nhau đây.. không tay bắt mặt mừng mà hai đứa trừng nh́n khô lệ.
50 năm trước mầy thường nói:
'Sống hùng ,sống mạnh khó sống lâu.Một xanh cỏ ,hai đỏ ngực.Tao phải đỏ ngực để chứng tỏ người hùng Mũ Đỏ với người yêu, có huy chương là có tiền cưới vợ.Mầy nhớ xin phép về dự đám cưới của tao cuối năm nhe.'
Mầy muốn đỏ ngực!..Đúng. Mầy đă toại nguyện ...
NGỰC MẦY ĐĂ ĐỎ..ĐỎ banh lồng ngực.ĐỎ cả biên giới Tây Ninh (ViêtMiên) bởi viên đạn pháo vô t́nh rớt ngay hầm dă chiến Quân y.
50 NĂM tao mầy gặp lại với vài chung rượu lạt.; với 1 ổ bánh ḿ vài miếng thịt quay .Nhớ ngày nào hai đứa thèm thuồng ao ước mỗi sáng học thi.
Hăy nhâm nhi đi , chứ sao lặng thinh hoài thế.Tao rửa mặt mày bằng chén rượu t́nh thâm. Sáng ngời rồi mầy thấy rơ tao không.
Đây chén rượu ngày nào quán nhỏ .Rót thật đầy hai đứa chai hia.
Đây miếng thịt ngày nào mơ ước hăy dùng xem có giống hôm nao....
Tao với mầy khác áo chiến binh .Nhưng cận kề như chồng với vợ.
* Chổ bọn tao ở có bọn mầy che chở.
* Lúc nguy khốn bọn tao.... bọn mầy bay đến giải nguy
Khakhakakaka.Có qua có lại mới toại ḷng nhau.
Thôi .. giờ bên nhau đă hết.Bầu trời vần vũ kêu mưa.
Tạm biêt mầy..Hẹn ngày tái ngộ ...gần thôi.

hoanglan22 10-01-2019 04:55

EM BÉ GÁI TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG CỦA MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972
 
4 Attachment(s)


Em bé ngày xưa, nay là Trung Tá Kimberly M. Mitchell


Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ t́m vú để bú nhưng mẹ đă chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.

Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ c̣n người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đă kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.



Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông c̣n độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Pḥng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5 năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng một số đồng đội mở cuộc hành quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh Quảng Trị v́ một số đông quân nhân bị thất lạc không t́m thấy vị chỉ huy của họ. Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các Quân, Dân, Cán, Chính khác đang t́m đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi quân đội VNCH c̣n đang trấn giữ; ông được cấp trên chấp thuận.
Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị) th́ nơi đây là pḥng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Bắc Việt tràn xuống phía Nam. Ông đă chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt ngày. Đến khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nh́n thấy thấp thoáng bên kia cầu c̣n một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức mỏi mệt. Ông định chạy qua giúp người này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn giữ tại đó la lớn:
“Cây cầu tao đă gài ḿn, có thể nổ và sẵn sàng phá hủy khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ lại bên đó không về lại được đâu nghe!”
Ông cố nài nỉ:
“Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người cuối cùng này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay c̣n cố ôm ṿng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
“Đi không nổi mà c̣n mang theo vàng bạc châu báu ǵ nữa đây cha nội?”
Người ôm ṿng chiếc nón lá nói:
“Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị, trên đường chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đă chết từ bao giờ không biết và nó đang trườn ḿnh trên bụng mẹ nó t́m vú để bú, em cầm ḷng không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy, xin ông ráng cứu nó v́ em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không có cách ǵ giúp em bé này.”
Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé cho thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi:

“Ḿnh là người lính VNCH, ḿnh đă được huấn luyện và thuộc nằm ḷng tinh thần ‘Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm’ nên lúc đó tôi nghĩ trách nhiệm của ḿnh là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người lính Quân Cụ: ‘Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, c̣n anh, anh cũng lo cho sức khỏe của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.’”
Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền, cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông Báo cảm thấy rất bối rối v́ em bé khóc không thành tiếng v́ đói, khát mà ông th́ c̣n là một thanh niên trẻ (lúc đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm ǵ nên ông hỏi người tài xế, bây giờ phải làm sao? Người tài xế tên Tài trả lời:
“Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa th́ lấy bi đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi nằm im cho đến khi ông đưa em vào Pḥng Xă Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp Thiếu tá Nhiều, Trưởng Pḥng 4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói:
“Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt trận, xin giao cho Thiếu tá.”
Ông này nh́n ông Báo cười và nói:
“Mày đi đánh giặc mà c̣n con rơi con rớt tùm lum!”
Ông Báo thanh minh:
“Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang nằm trên xác mẹ nó.” Thiếu tá Nhiều bảo:
“Thôi, đem em bé giao cho Pḥng Xă Hội để họ làm thủ tục lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ trách xă hội. Cô này nói với ông:
“Thiếu úy giao th́ Thiếu úy phải có trách nhiệm, v́ em bé này ở ngoài mặt trận th́ Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ Thiếu úy nữa để sau này nó biết cội nguồn của nó mà t́m.”
Lúc đó, ông c̣n độc thân nhưng trong thâm tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái tên là Trần Thị Ngọc Bích.
Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt cho tới tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị bắt làm tù binh. Măi đến năm 1981 ông được thả về. Tháng 9/1994 ông được sang định cư tại thành phố Albuqueque, tiểu bang New Mexico…

EM BÉ MỒ CÔI GẶP MAY MẮN

Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các D́ Phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899.
Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân phục vụ tại phi trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện xin nhận một trong các em tại đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đ́nh này từ đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào cuối năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng.

Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đ́nh tại Solon Springs, tiểu bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi ḅ và làm phó mát. Cái tên Trần Thị Ngọc Bích đă bị quên lăng từ đó, và Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe ai nói ǵ về Việt Nam, cô thường tự hỏi, Việt Nam là đâu nhỉ?
Khi đă có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy ḿnh không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết ḿnh là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó măi mà không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố:
“Con muốn biết con người ǵ, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”
Bố nuôi James giải thích cho cô:
“Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn t́m nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng, may ra t́m được tông tích của gia đ́nh con.”
Ngay từ khi Kimberly c̣n học lớp ba, bố nuôi em đă muốn sau này cho Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự hội thảo về
nghệ thuật lănh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định mệnh xui khiến, cô lại theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly Mitchell phải bỏ học một năm v́ bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại trang trại của gia đ́nh. Sau đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc Văn Pḥng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ Giác Đài.



Trung Tá Kimberly Mitchell


Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương với tư cách một nữ Trung Tá Hải Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một nữ quân nhân Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly chỉ được Sơ Mary cho biết:
“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4 tháng và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đă chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi đi mất, v́ lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”
Kimberly không biết ǵ hơn và cô quay trở lại Mỹ. Sau khi đă biết ḿnh là người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website câu chuyện của ḿnh.

GẶP LẠI CỐ NHÂN



ông Trần Khắc Báo trong ngày hội ngộ


Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một số h́nh ảnh, một số báo tiếng Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng h́nh cuộc gặp gỡ giữa gia đ́nh ông và cô Trần Thị Ngọc Bích, và nói:
“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố t́m hiểu xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Một hôm t́nh cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang tên Trần Thị Ngọc Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, v́ có thể 80, 90% cô Ngọc Bích đó là do ḿnh cứu và đặt tên cho cô.”
Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc t́m kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.
Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín bán nghi, không biết chuyện này có đúng không hay là chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ” như ông cha ḿnh thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần Khắc Báo, Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền h́nh cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C cũng như nhiều nơi về tham dự.
Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29.8.2012. Cô đến phi trường vào tối Thứ Năm 28.8, gia đ́nh ông Báo ngỏ ư ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào Thị Lệ biết là cô không muốn gia đ́nh đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn. Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ư nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô đưa đến Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.

GIÂY PHÚT XÚC ĐỘNG

Gia đ́nh ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng có mặt. Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:
“Cô đến đây t́m ai?”
Cô trả lời:
“Tôi muốn t́m ông Trần Khắc Báo.”
Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu:
“Đây là ông Trần Khắc Báo.”
Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.
Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo:
“Ông là người đă cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay; tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn ǵ ở tôi?”
Ông Trần Khắc Báo nói :
“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng tiếng Việt, cô hăy kêu tôi là “Tía”. V́ tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”
Và Kimberly Mitchell đã gọi “Tía”.
Ông nói với chúng tôi:
“Bấy giờ tôi thực sự măn nguyện.”
Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần Khắc Báo cho biết, cô Kimberly chưa lập gia đ́nh và cô có hứa sẽ thường xuyên liên lạc với gia đ́nh ông. Ông có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đă được những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm cứu sống trên bụng mẹ cô đă chết, và chính ông đă đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc Bích. Ông cũng mong rằng sau này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể t́m ra tung tích cha cô hoặc người thân của ḿnh. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết, ông mất liên lạc với người lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến nay.
Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may. Cái may thứ nhất là cô được t́m thấy và mang tới trại mồ côi. Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.”
Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quư trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ư nguyện của người đă cứu mạng em, v́ chính cô đă làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lănh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.
Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đă thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực VNCH, luôn đặt Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm trên hết.

THANH PHONG

tbbt 10-01-2019 17:04

Quote:

Originally Posted by luyenchuong3000 (Post 3745773)





Van Nghia Tran<a rel="theater" class="_5pcq" href="https://www.facebook.com/photo.php?fbid=13547 4314405975&set=a.110 067296946677&type=3" target=""><abbr title="04:56, 29/09/2019" class="_5ptz">Hôm qua lúc 04:56</abbr>

50 năm Tao gặp lại Mầy.Sao Mầy vẫn tuổi 20 (1950-1970).
Gặp nhau đây.. không tay bắt mặt mừng mà hai đứa trừng nh́n khô lệ.
50 năm trước mầy thường nói:
'Sống hùng ,sống mạnh khó sống lâu.Một xanh cỏ ,hai đỏ ngực.Tao phải đỏ ngực để chứng tỏ người hùng Mũ Đỏ với người yêu, có huy chương là có tiền cưới vợ.Mầy nhớ xin phép về dự đám cưới của tao cuối năm nhe.'
Mầy muốn đỏ ngực!..Đúng. Mầy đă toại nguyện ...
NGỰC MẦY ĐĂ ĐỎ..ĐỎ banh lồng ngực.ĐỎ cả biên giới Tây Ninh (ViêtMiên) bởi viên đạn pháo vô t́nh rớt ngay hầm dă chiến Quân y.
50 NĂM tao mầy gặp lại với vài chung rượu lạt.; với 1 ổ bánh ḿ vài miếng thịt quay .Nhớ ngày nào hai đứa thèm thuồng ao ước mỗi sáng học thi.
Hăy nhâm nhi đi , chứ sao lặng thinh hoài thế.Tao rửa mặt mày bằng chén rượu t́nh thâm. Sáng ngời rồi mầy thấy rơ tao không.
Đây chén rượu ngày nào quán nhỏ .Rót thật đầy hai đứa chai hia.
Đây miếng thịt ngày nào mơ ước hăy dùng xem có giống hôm nao....
Tao với mầy khác áo chiến binh .Nhưng cận kề như chồng với vợ.
* Chổ bọn tao ở có bọn mầy che chở.
* Lúc nguy khốn bọn tao.... bọn mầy bay đến giải nguy
Khakhakakaka.Có qua có lại mới toại ḷng nhau.
Thôi .. giờ bên nhau đă hết.Bầu trời vần vũ kêu mưa.
Tạm biêt mầy..Hẹn ngày tái ngộ ...gần thôi.


Bài Thơ Của Một Anh Thương Binh... Cay Đắng, Ngậm Ngùi!



Tao bị thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối !
Vết thương c̣n nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành...
Ngày " Giải phóng Miền nam "

Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện "
Trong ḷng tao chết điếng,
Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK !
Súng " Trung cộng " hay súng của " Nga " ?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do Miền nam
-Nước Việt,
Mang chữ " NGỤY " thương binh.
Nên " Người anh,em phía bên kia..."
Đối xử với tao không một chút thân t́nh...!

Mày biết không !
Tao t́m đường về quê nh́n không thấy ánh b́nh minh.
Vợ tao: Như " Thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
Nh́n hai đứa con ngồi trong căn cḥi gió cuốn,
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay,
Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong cơn gíó lốc.
Cái hay là: Vợ tao giấu đi đâu tiếng khóc.
C̣n an ủi cho tao, một thằng lính què !

Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại
Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo...
Cho heo ăn thật là "Thoải mái" !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần !
Lên liếp trồng rau, thân tàn tao làm nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn, rồi thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá ǵ chuyện gíó sương...

Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn khóc"!
Vậy mà bây giờ...
Nh́n tao...nuớc mắt bả....rưng rưng !

Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày "Được đi Cải tạo"!
Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời...
Có giúp được ǵ cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi !

Rồi đến mùa "H.O"
Mầy đi tuốt tuột một hơi.
Hơn mười mấy năm trời...
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn hiu !

Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là "Việt kiều"!
C̣n "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với tương...
C̣n rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng ḿnh uống cho đến...điếc !

Trang Y Hạ

trungthu 10-01-2019 22:44

Quote:

Originally Posted by tbbt (Post 3746347)
Bài Thơ Của Một Anh Thương Binh... Cay Đắng, Ngậm Ngùi!



Tao bị thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối !
Vết thương c̣n nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành...
Ngày " Giải phóng Miền nam "

Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện "
Trong ḷng tao chết điếng,
Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK !
Súng " Trung cộng " hay súng của " Nga " ?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do Miền nam
-Nước Việt,
Mang chữ " NGỤY " thương binh.
Nên " Người anh,em phía bên kia..."
Đối xử với tao không một chút thân t́nh...!

Mày biết không !
Tao t́m đường về quê nh́n không thấy ánh b́nh minh.
Vợ tao: Như " Thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
Nh́n hai đứa con ngồi trong căn cḥi gió cuốn,
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay,
Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong cơn gíó lốc.
Cái hay là: Vợ tao giấu đi đâu tiếng khóc.
C̣n an ủi cho tao, một thằng lính què !

Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại
Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo...
Cho heo ăn thật là "Thoải mái" !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần !
Lên liếp trồng rau, thân tàn tao làm nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn, rồi thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá ǵ chuyện gíó sương...

Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn khóc"!
Vậy mà bây giờ...
Nh́n tao...nuớc mắt bả....rưng rưng !

Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày "Được đi Cải tạo"!
Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời...
Có giúp được ǵ cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi !

Rồi đến mùa "H.O"
Mầy đi tuốt tuột một hơi.
Hơn mười mấy năm trời...
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn hiu !

Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là "Việt kiều"!
C̣n "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với tương...
C̣n rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng ḿnh uống cho đến...điếc !

Trang Y Hạ

Đọc bài thơ Trang-Y-Hạ....như thấy tim ḿnh đang chảy máu....:112::112::11 2::thankyou::thankyo u::thankyou:

florida80 10-02-2019 00:48

So sad . Thanks for sharing with us .

hoanglan22 10-09-2019 14:13

Vũ Xuân Thông: NHỮNG CÁNH THÉP NGÀY TRƯỚC
 
1 Attachment(s)


Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ tŕnh của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cơi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.

Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nh́n vào đó dù tôi đă quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên băi đậu.

Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi c̣n phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đă thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.

V́ đó là những tiếng động đă quá quen thuộc với tôi hầu như đă tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đă trôi qua kể từ khi tôi giă từ cái nghiệp lính.
Năm nay tôi đă bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, c̣n để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già th́ thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ văng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm v́ giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.

Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Ḥa. Thử hỏi cuộc đời của tôi c̣n lại ǵ ?
Cái gia tài của người lính như tôi c̣n lại há không phải là quá khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta, những người lính đă sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên.

Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đă rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua h́nh ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đă có ư định sau khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam. Những mộng không thành v́ khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Ḥa tôi mới phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng, nh́n bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. May cũng nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến công góp phần với các quân binh chủng bạn, đă làm cho kẻ địch suy yếu. Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi đă lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đă mang chúng tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật v́ lính BCD 81 không biết bơi).

Đă bao lần không quản ngại trước lưới lửa pḥng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đă mặc nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đă chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của chúng tôi đă gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn.

Xin cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. V́ không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đă cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ hào hoa phong nhă, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch…nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng hành quân th́ ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi giày đi rừng.
Đêm nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn c̣n đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối c̣n lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.

Ấy là những ngày không chạm địch, c̣n có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đă bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch th́ coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi ḿnh đă chưa ăn ǵ suốt một ngày qua, đă chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thằng hay thua, lúc ấy mới biết ḿnh c̣n đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm xấy. C̣n các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc. Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ cho các chuyên viên “check” tàu, tái trang bị bom đạn, “rocket” để chờ phi vụ tiếp theo.

Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường uống vài chai “33”cho đă bù lại những ngày phải uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương diện. Đôi khi có một tí t́nh c̣m để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa ư là y như rằng đă có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!!

Nói cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua th́ thua rồi. Xưa c̣n trẻ đă không thắng các bạn, nay đầu đă bạc, chân mỏi gối ṃn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ niệm đă qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau.

Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hăm, các đơn vị địa phương hầu như đă tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đă hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.

Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đă trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nh́n từ trên trực thăng xuống thị xă Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được v́ cả thị xă ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực pḥng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50,súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại pḥng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.

Tôi chỉ c̣n trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay v́ đáp ngay xuống thị xă, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đă đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xă, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đă bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn pḥng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đă bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú pḥng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không c̣n bao nhiêu.

Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ c̣n không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ c̣n hơn 10 người đă dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh c̣n Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đă tan hàng, quân nhân c̣n lại cũng lẫn lộn trong hàng rào pḥng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mă tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống pḥng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đă rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đă hạ được 4 chiến xa địch.

Vào lúc choạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 lư và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kip thời nên đă bị tiêu diệt ngay sau đó.

Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa v́ 1/2 khu vực thị xă đă rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không c̣n pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần c̣n lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong t́nh thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đă phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đă phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.

Trong lúc đơn vị tôi c̣n đang t́m cách vượt qua ṿng vây của địch th́ ngày 7 tháng 1 năm 1975 đă có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như ṭa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Ḥa. Thật là vô cùng phi lư nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 c̣n đang bay t́m kiếm và bốc các toán đă vượt qua được ṿng vây địch th́ tại hậu phương họ đang bị kết tội.
Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đă tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là v́ chỉ huy trực tiếp của tôi đă không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đă hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi c̣n sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rơ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đă ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đă thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.

Tôi đă ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài t́nh huynh để chi binh, chúng tôi c̣n có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đă dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lănh:

“Mất Phước Long, lư do tại sao quư vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đă đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đă làm quá bổn phận của họ, đă chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra ṭa, tôi cho là vô lư, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quư vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về v́ c̣n nhiều việc phải làm”

Măi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được ṿng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các băi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các băi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai ḿ), đă thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xă khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không c̣n máy để liên lạc với họ v́ chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đă bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đă tử trận hoặc bị bắt . C̣n đang kiểm điểm xem c̣n lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp v́ tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí c̣n ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đă ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai ḿ, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh băi đáp. V́ số cây khoai ḿ c̣n nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai ḿ, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây ḿ chung quanh.

V́ đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.

Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra th́ tôi mới kéo anh lên được. Những Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đă bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đă để vuột anh. Nh́n anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da ḅ x̣e ra như một cánh bướm mất hút với tiếng là thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nh́n anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn pḥng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời băi .

Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn ) lái đă phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đă bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa v́ nếu đáp sẽ không c̣n có thể cất cánh được nữa.

Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi c̣n là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đă để rớt Đ/Úy Thành. H́nh ảnh của anh c̣n măi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.
Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đă chết lây theo chúng tôi. V́ là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi c̣n phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu v́ thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn th́ dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đă làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam.

Tôi đă sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đă chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đă đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng c̣n sướng hơn” như B́nh Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đă đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dơng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Ḥa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh ḿ, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Ḥa. Những con người đă từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.

Chúng tôi đă không có đủ khả năng để đăi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đă tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đă đă cùng chiến đấu để không v́ miếng cơm manh áo của chính ḿnh mà v́ để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.

Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nh́n lại các chiến hữu xưa, nay đầu đă bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận ḿnh. Nhớ tới tôi đă chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, v́ ḷng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ v́ để cứu một người lính 81 BCND trong ṿng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đă phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quư nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính b́nh thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào băi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đă cháy đen!!! C̣n ǵ buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hăy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đă xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đă chết thân thế không c̣n nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đă đối xử với một người đă chết c̣n như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch c̣n phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đă hy sinh, bao nhiêu người đă rơi vào tay địch?

Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời c̣n âm u khói từ kho bom phi trường Biên Ḥa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nh́n hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ư như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nh́n thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đă cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.
Bây giờ những cánh bay ấy có thể đă nằm mục ră ở một vài băi phế thải nào đó, hoặc năm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn c̣n nhiều, ḷng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn c̣n và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do.

Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi h́nh thức mà thôi …

“Old soldiers never die; they just fade away.”
General Douglas MacArthur
Vũ Xuân Thông
Liên Đoàn 81 BCND

PS : Tác giả sống ở San diego , CA . Trước kia ḿnh thường gặp gỡ vị niên trưởng này . Ông sống rất im lặng

luyenchuong3000 10-09-2019 16:20

Hậu duệ Việt Nam Cộng Nam Cộng Ḥa trong mọi thời đại...










hoanglan22 10-25-2019 13:41

Lính Nghĩ Ǵ
 
1 Attachment(s)


Tôi Viết Cho Anh
Người Tù Cải Tạo

Anh đến đây nơi xứ người lạnh giá!
Từ lưng trời màn tuyết trắng giăng giăng
Bên đường phố cây khẳng khiu trụi lá
Mây cũng buồn, v́ đông rét căm căm

Đất cỏ khô vùi dưới mồ tuyết lịm
Nỗi trầm tư nhè nhẹ thoáng qua hồn
Tôi chợt nhớ về ngày xanh mực tím
Yêu mây trời bát ngát buổi hoàng hôn

Bạn bè đă thưa dần trong lớp học
Người Bộ binh, kẻ lính Thủy, Quân Y…
Đứa Nhảy Dù… gĩa từ thời tuổi ngọc
Thuở đao binh, bao thảm cảnh phân kỳ!

Trai thời loạn sa trường say thép súng
Những ṿng hoa t́nh em gái hậu phương
Choàng lên cổ người chiến binh anh dũng
Đây tấc ḷng yêu đất nước, quê hương…

Nay anh đến, với h́nh hài héo hắt!
Cuộc đổi đời đă xóa tuổi thay tên
Nỗi u uất chói ngời trong ánh mắt
Ánh kiêu hùng và bất khuất vươn lên

Ôi thời gian có ǵ không thay đổi?
Chí làm trai như sắt đá trơ trơ
Bọn cường bạo hủy diệt làm sao nổi
Dạ sắt son ḷng dũng cảm vô bờ!

Nơi xứ người, đông về lạnh lẽo lắm!
C̣n t́nh người, anh thấy lạnh hay không?
Cựu chiến binh vốn ngại chi mưa nắng
Chỉ lo âu kẻ đổi dạ thay ḷng!

“Ngày xưa tôi choàng ṿng hoa cho lính
Cho người hùng chiến đấu giữ quê hương
Nay tôi viết cho người tù đáng kính
Cho những ai, măi bất khuất kiên cường!”

Dư Thị Diễm Buồn



Lính Nghĩ Ǵ ((Bài Họa)


Tôi đến đây cuối mùa Đông lạnh giá,
Đêm xứ người, tuyết trắng phủ giăng giăng
Vùng Tây Bắc cuối năm cây trụi lá
Thông vẫn xanh ngạo nghễ giữa lạnh căm.

Lính tha hương là hai lần chết lịm,
Một lần đi là nát cả tâm hồn.
Súng ngựa yên cương – Rừng chiều hoa tím
Bóng quê nhà lẩn khuất nẻo hoàng hôn.

Lửa chiến tranh đã len vào lớp học,
Sách vở buồn, lặng ngắm bóng chinh y.
Thôi giă từ những chuỗi ngày vàng ngọc,
Kiếp chinh nhân, ai biết chuyện phân kỳ!

Quên sao được, những ngày vang tiếng súng,
Đêm tiền đồn nghe tiếng hát hậu phương
Bài học dưới cờ - Trí, Nhân, Thành, Dũng.
Chống bạo cường để ǵn giữ quê hương.

Ngày quốc biến, nh́n miền Nam hiu hắt,
Sài G̣n thân yêu, em đă thay tên.
Bao nỗi nhục vinh, ch́m trong ánh mắt,
Chí quật cường thành băo tố vùng lên.

Triệu ḷng người đang khát khao thay đổi,
Th́ bạo quyền không thể cứ trơ trơ.
Trăm ngọn gió sẽ thành cơn băo nổi,
Thổi tan đi những ác chướng xa bờ.

Cảm ơn người - Những vần thơ đẹp lắm.
Kỷ niệm một thời với lính c̣n không?
Chút muộn phiền, như mây trôi vạt nắng
Xin hăy yêu thương với cả tấm ḷng.

Xin cảm ơn, những ân t́nh cho lính,
Quên tuổi thanh xuân, ǵn giữ quê hương
Sống hiên ngang giữa ḷng dân thương kính.
Mơ một ngày mai, đất nước phú cường.

Lê Tấn Dương
(Xin cảm ơn tác giả Dư Thị Diễm Buồn
và bài thơ “Viết cho anh - Người tù cải tạo”)

hoanglan22 10-26-2019 17:27

Trận An Lăo và Đời Bay Bổng
 
1 Attachment(s)


Người lính miền Nam chiến đấu không thù hận, họ chỉ bảo vệ sự yên ấm cuả một miền đất nước tự do đang hoà b́nh thịnh vượng, cho con cái ăn học nên người, cùng góp tay xây dựng một đất nước non trẻ mới giành được độc lập từ tay thực dân Pháp. Cộng sản Bắc Việt tay sai cuả đế quốc Nga, Trung Cộng đă phá đi sự b́nh yên đó.

Khi c̣n mài đũng quần trên ghế trường tiểu học, trong một buổi trưa thật ấm áp, dưới bầu trời xanh trong vắt, tiếng ve sầu reo inh tai điểm thêm tiếng vơng kẽo kẹt, tôi chợt thủ thỉ với ba tôi: “ Ba ơi, ba bảo anh Sơn đừng lái máy bay thả bom vào tàu cuả con nhá.”

Ba tôi cười lớn, hàm râu kẽm rung rung, ông cụ ngưng chân đưa vơng, khẽ véo tai tôi:
- Lúc đó làm sao ba bảo anh con được.

Nh́n khuôn mặt ngớ ngẩn cuả tôi, ba tôi lại được dịp cười ha hả.

Khẩu khí hồi c̣n là cậu bé tí teo thế mà đă phần nào trở thành hiện thực, anh tôi đă trở thành một quan sát viên kiêm phi công máy bay L19, c̣n tôi là một sĩ quan hải quân phục vụ trên các chiến hạm tuần duyên, chuyển vận và sau đó thuyên chuyển qua giang đoàn tuần thám.

Sau cuộc chiến, là một trong hơn 1 triệu quân bị thua trận một cách quái gở, tôi đă trải qua hơn 6 năm "học tập" thưà sống thiếu chết, từ "kẻ ăn bám" trở thành con người "tốt” dưới mái trường “cải tạo” XNCN, tôi đă "được" nhà nước” cách mạng” tỏ lượng "khoan hồng" tha cho trở về nhà tù lớn. Sống dở, chết dở được vài năm, nhờ vào những kinh nghiệm đi biển do hải quân dạy dỗ, tôi đă ù té chạy ra biển, vượt biên đến những 7 lần mới t́m được bến tự do.

Vào năm 1964, vừa mới thụ huấn Khoá Quan Sát Viên Không Quân, chuẩn uư Sơn được đổi về Phi Đoàn 114 trấn đóng tại Pleiku. Mặt trận Tây Nguyên càng ngày càng trở nên khốc liệt, chuẩn uư Sơn được biệt phái cho Tiểu Khu Tuy Hoà, Không Quân Việt Nam vào thời kỳ này lâm vào t́nh trạng thiếu hụt phi công và máy bay quan sát nên Chuẩn Uư Sơn phải bay trên phi cơ L19 cuả không quân Mỹ. Hôm ấy Đại Uư Lape, cố vấn Không Quân cuả tiểu khu Tuy Hoà và Chuẩn Uư Sơn được lệnh bay ra Qui Nhơn để nhận lệnh hành quân, ngay sau đó họ được chỉ thị bay đến vùng núi rừng An Lăo, chiếc L19 trôi nhẹ nhàng từ vùng biển ấm, nắng vàng đến nơi sơn cùng thuỷ tận.

Trung Đoàn 40 Bộ Binh được điều động để chiếm lại quận lỵ An Lăo đang bị quân đội cộng sản Bắc Việt chiếm đóng.

Ở trên cao chuẩn uư Sơn thấy các thiết vận xa và bộ binh dàn trận rất đông nhưng cứ đứng một chỗ mà không thấy tiến lên. Hỏi ra thẩm quyền dưới đất mới cho biết là có một Trung Đoàn Việt Cộng lập thế công đồn, đả viện nằm phục kích trên các cao điểm cuả các quả đồi hiểm yếu. V́ hoả lực cuả họ rất mạnh gồm các vũ khí chống chiến xa và súng cối hạng nặng nên cứ tiến lên là nó bắn nên bộ binh phải dội ngược trở lại, nên đă cầm chân Trung Đoàn 40 gây khó khăn cho cuộc giải vây thị trấn An Lăo.

Sau khi đảo nhiều ṿng bay thám thính trận điạ, chuẩn uư Sơn không t́m thấy dấu vết cuả đơn vị việt cộng tham chiến, anh mới nói với đại uư Lape:

- Bây giờ đại uư cứ bay ở trên cao như thế này th́ tôi chả thấy ǵ cả, anh thử bay xuống thấp để tôi có thể nh́n rơ và quan sát kỹ hơn. Đại uư Lape đồng ư và điều khiển tay lái chúc mũi máy bay, bay rà sát trên các ngọn cây dọc theo các triền đồi, sau vài ṿng bay mà hai anh em vẫn không nhận ra vị trí cuả địch v́ cây rừng quá rậm rạp và bọn VC nguỵ trang quá khéo. Chuẩn Uư Sơn lúc đó mới dùng máy bộ đàm liên lạc với bộ binh và nói:

- Các bạn cần phải tiến quân để khi đó xem địch phản ứng thế nào chúng tôi mới có thể phát giác ra địch.

Khoảng 10 phút sau, bộ binh bắt đầu tiến lên, họ đi theo sau các thiết vận xa, thận trọng tiến vào con đường độc đạo hai bên là ruộng luá trống trải dẫn đến một dăy đồi sừng sững. Khi toán quân đến gần ngọn đồi thứ nhất, bỗng chuẩn uư Sơn nghe những tiếng nổ đùng đùng, và trông thấy những cột bụi khói màu đen bốc lên quanh các thiết vận xa. Địch bắn rất gắt, các thiết vận xa chiụ không nổi phải bỏ đường cái, quay đầu ủi xuống ruộng luá rút lui, kéo theo các toán bộ binh tùng thiết.

Lúc đó trên không có một phi tuần 4 khu trục cơ AD6 mang bom đạn đày đủ bay vần vũ trên trời, Chuẩn Uư Sơn nói với họ:

- Các anh hăy yểm trợ cho tôi, chúng tôi chuẩn bị bay thấp để quan sát.”

Đại Uư Lape chúc mũi máy bay lao xuống , những ngọn cây trôi vùn vụt dưới cánh, nh́n kỹ dưới các lùm cây, Chuẩn Uư Sơn thấy rất nhiều dăy hố cá nhân và việt cộng quá đông lúc nhúc ẩn núp trong đó. Anh gọi máy liên lạc với Phi Tuần Trưởng AD6:

- Bây giờ tôi sẽ thả trái khói vào các vị trí cuả VC, các anh hăy theo dơi.

Cùng một lúc hai tay Chuẩn Uư Sơn thủ sẵn hai trái khói, khi máy bay bay dọc đến ngọn đồi thứ sáu, anh vung tay vứt liên tiếp hai trái khói trên đầu địch. Thấy trái khóí bốc lên mù mịt, địch hoảng loạn nhảy vọt ra khỏi các hố cá nhân. Chuẩn uư Sơn ngạc nhiên thấy một tên trong bọn mặc quần áo trắng toát nhảy dựng lên như một con ếch, và tự hỏi tên này điên hay sao mà đi đánh trận lại mặc đồ trắng. Sơn gọi máy nói với AD6:

- Các anh thấy chưa?,

Phi tuần AD6 trả lời:

- Thấy rồi, thấy rồi.

Chuẩn Uư nói với họ:

- Bây giờ các anh đánh từ trái khói dọc về phiá nam 500m và tôi sẽ điều chỉnh sau.

Lập tức 4 khu trục cơ AD6 lần lượt đảo cánh nhào xuống các ngọn đồi, nhả những tràng đại bác nổ chát chuá và những chuỗi bom sang loáng xuống đầu địch. Họ quần thảo trên trận điạ trong ṿng một tiếng đồng hồ, khói lưả bốc lên dữ dội kèm theo những tiếng nổ long trời, lở đất.

Sau khi phi tuần AD6 làm cỏ trận điạ đă bay về Pleiku, chiếc trinh sát cơ L19 bay ṿng trở lại, chuẩn uư Sơn thấy 6 quả đồi tan hoang, cây cối gẫy đổ ngổn ngang, trơ những mảng cháy nám đen bốc khói nghi ngút, phơi trên triền đồi lỗ chỗ chi chít các hố cá nhân và xác người không toàn thây, tay chân vắt vẻo trên các ngọn cây bị bom đạn cắt cụt ngọn, toàn cảnh chiến trường trông rất là thê lương, tâm hồn người lính trùng lại, một nỗi buồn dâng lên man mác trên băi sa trường sau cuộc can qua.

Ngay sau đó Đại Uư Lape lại liên lạc được với một phi đội gunship. Toán trực thăng gồm 6 chiếc này kéo đến tiếp tục nă đạn đại liên và rocket vào những vị trí việt cộng c̣n ẩn trốn. Trên cao chuẩn uư Sơn nh́n xuống chúng như những con chuồn chuồn đang riả mồi vội vă.

Sau đó v́ trời tối nên đại uư Lape và Chuẩn uư Sơn phải đem máy bay trở về căn cứ. Hai ngày sau đơn vị bộ binh mới cho biết là lực lượng địch bị chết và bị thương rất nhiều, bỏ lại những vũ khí hạng nặng như sung cối, súng chống chiến xa, thượng liên, cao xạ mà b́nh thường khi đụng trận họ không bao giờ để lại.

Đời phi công cuả Chuẩn Uư Sơn tiếp tục trong những năm 65-66, với lần biệt phái tại Tuy Hoà, chiến sự trở nên khốc liệt, cứ sau mỗi chuyến bay là phi cơ bị ít nhất hai ba lỗ đạn do địch bắn lên. Chiến thuật lấy nông thôn bao vây thành thị cuả địch càng ngày càng xiết chặt với những giao thông hào chi chit tiến gần vào các thành phố, quận lỵ.

Trong một chuyến công tác, chuẩn uư Sơn được lệnh điều động đến thám thính một đoàn xe bị phục kích trên quốc lộ 19 cách chân đèo Mân khoảng 2 cây số, nằm giữa đèo Man Yang và An Khê, cùng bay với một anh bạn pilot cùng phi đoàn, lâu quá không c̣n nhớ tên, hai anh em phát giác ra một đoàn quân mặc áo vàng từ trong rừng tuá ra mặt đường, chuẩn uư Sơn lấy làm lạ sao họ lại mặc quân phục vàng, hai anh em bàn nhau bay sát ngọn cây để xem cho kỹ, khi vưà bay đến vị trí chiếc xe đầu tiên bị giặc phục kích bắn cháy, chuẩn uư Sơn chợt nghe hàng loạt đạn đổ đùng đoàng, tiếng va chạm cuả kim khí nghe chói tai; hoá ra chiếc L19 cuả hai anh em bay đang bị nhắm bắn, cả một đơn vị việt cộng dùng tất cả hoả lực nỗ lực bắn hạ cho bằng được v́ họ biết đă bị lộ vị trí. Hai anh em phải g̣ lưng, nín thở, mồ hôi lạnh toát ra nhễ nhại, gh́ tay lái bay là sát mặt đường đến cả hai, ba cây số mới cất đầu lên để tránh những lằn đạn dữ dội nhắm vào phi cơ, sau khi thoát hiểm, nh́n quanh máy bay thấy lỗ chỗ cả mấy chục lỗ đạn nhưng may mắn cả hai không hề hấn ǵ. Liền sau đó cả khu rừng mà toán việt cộng ẩn trú bị các khu trục cơ AD6 oanh tạc tan nát.

Một lần khác tại Biên Hoà, chiếc phi cơ L19 cuả chuẩn uư Sơn được lệnh thám thính tại một toạ độ do bộ binh yêu cầu, khi lên đến nơi, từ trên không chuẩn uư Sơn thấy chung quanh là đồng ruộng c̣ bay thẳng cánh, nhưng có một con lạch chạy ngang, bao phủ bằng những tàng cây xanh mọc um tùm, chuẩn uư Sơn quan sát kỹ thấy một toán việt cộng lúc nhúc ẩn núp dưới những lùm cây. Chiếc L19 bay sát ngọn cây dọc theo con lạch, tiếng động cơ rền rĩ và cánh quạt chém gió khiến toán việt cộng bấn loạn bỏ chạy như vịt. Cùng lúc đó có một phi tuần 2 khu trục cơ AD6 bay vần vũ trên không, chuẩn uư Sơn liền gọi máy yêu cầu họ đánh dọc theo con lạch, lập tức hàng loạt bom đạn phóng xuống từ những con chim sắt dội dữ dội trên đầu địch, những tiếng bom nổ chát chuá kèm khói lưả tuá lên trên không, bao chùm các ngọn cây tạo không khí ngột ngạt mùi thuốc súng. Sau khi bom đạn dứt, từ trên cao chuẩn uư Sơn đếm được cả mấy chục xác VC mặc bà ba đen nằm phơi thây dọc theo bờ lạch.

Trong một chuyến biệt phái cho Tiểu Khu Tuy Hoà, Đại Uư Lape và chuẩn uư Sơn bay dọc theo bờ biển khi tới ven làng Tân Quỳnh, họ phát giác tại mũi Cao Biền có khoảng ba chục người mặc áo đen đang đào hố cá nhân, thấy máy bay qua lại nhẩy xuống hố ẩn núp, khi ấy trời đă xế chiều. Gọi máy cho Quận trưởng Tuy An để xác nhận xem có phải là quân bạn không, th́ được quận trưởng cho biết đó là toán VC đang chuẩn bị phục kích toán Biệt Động Quân và yêu cầu chuẩn uư Sơn gọi khu trục đến oanh tạc. Chuẩn uư Sơn nói với ông quận trưởng:

- Trời cũng gần tối rồi, nếu gọi Không Quân từ Pleiku xuống sẽ mất thời gian, tôi biết quận có hai khẩu 105 ly, xin ông cho khai hoả và tôi sẽ điều chỉnh toạ độ.

Sau vài loạt đạn chạm nổ, thấy toán việt cộng không hề hấn ǵ, chuẩn uư Sơn đề nghị đạn nổ cao, sau hơn chục trái đạn cũng không thấy hiệu quả, lúc đó ông quận trưởng mới nói chuẩn uư Sơn:

- Tôi có đạn VT nổ chụp, loại đạn này bắn đến mục tiêu với độ cao khoảng 20 mét, sẽ nổ và mảnh sẽ chụp xuống đầu địch.

- Như vậy th́ tốt quá, ông cho bắn ngay, chuẩn uư Sơn trả lời đồng thời điều chỉnh lại toạ độ vị trí cuả địch.

Sau vài loạt đạn đại bác nổ chụp toán việt cộng mặc áo đen hoàn toàn bị tiêu diệt.

Vào năm 1968, khi được bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc Không Quân cho Sư Đ̣an 18 Bộ Binh, thiếu uư Sơn mang theo gia đ́nh ngụ tại trại gia binh phi trường Long Khánh. Một hôm có lệnh hành quân khẩn cấp, viên sĩ quan quan sát trực không có mặt tại đơn vị; thiếu uư Sơn phải bay thế, bé Thuỷ, con gái đầu ḷng mới được hơn một tuổi, mẹ cháu lại mới vưà ra khỏi nhà đi chợ, không có ai trông coi. Không nỡ để con ở nhà một ḿnh, thiếu uư Sơn đánh liều bế con lên chiếc máy bay quan sát để ngồi cạnh bố. Bé Thuỷ được bay trên không, ṭ ṃ nh́n chung quanh, được nh́n đồng ruộng xanh mướt từ trên cao, cô bé mở tṛn mắt tỏ ra rất thích thú, thỉnh thoảng lấy ngón tay khều bố khi thấy những đám mây trắng như bông bay dật dờ quanh thân tàu. Khi bố phát giác ra vị trí địch, phi cơ chúc mũi xuống bắn rocket, cô bé cười lên khanh khách và chăm chú nh́n những khu trục cơ sau khi trút bom đạn bay ngang. Lần đầu tiên trong đời bé Thuỷ nếm mùi lưả đạn chiến trường. Có ai biết được đời lính VNCH gắn bó với gia đ́nh họ như thế nào chăng?

Cũng như đa số anh em ra cùng trường vào những năm 64, 65, trạc tuổi cuả họ chỉ chừng độ 22, 23, tâm hồn c̣n đày lư tưởng trong sáng, chuẩn uư Sơn chỉ ham đánh giặc, gan dạ, liều lĩnh, thích lập thành tích nhưng không màng báo cáo các chiến công; ngay cả khi máy bay bị thương lỗ chỗ đạn địch bay về tới phi trường cũng chỉ giao cho toán kỹ thuật sưả chưă. Thời gian đồn trú tại Biên Ḥa, sau giờ làm việc anh chỉ mau phóng Honda về Sài G̣n ăn cơm canh cua, rau đay, cà pháo chấm mắm tôm do chính thay mẹ nấu cho con trai ăn.

Sau ngày 30/4/1975 cũng v́ tính t́nh thuần hậu, cả tin nên Thiếu Tá phi công Sơn cùng 4 anh em trong gia đ́nh đă đi tŕnh diện “học tập” cải tạo, đem theo từ 10 ngày cho đến 15 ngày lương thực để rồi thời gian “học” kéo dài đền gần 13 năm đằng đẵng, đày khổ nhục, đói khát, bệnh tật qua các trại tù Long Giao, Suối Máu, Yên Bái, Liên trại 2,Hoàng Liên Sơn, nông trường Trần Phú Nghĩa Lộ, Tháp Bà, Vĩnh Phú, Nam Hà.… và may mắn thay, sau khi ra tù Thiếu Tá Sơn đă được can thiệp qua Mỹ tị nạn theo diện tù nhân chính trị.

Tại Joplin, Missourie, Thiếu Tá Sơn đă được một người bạn Mỹ mời bay thử chiếc máy bay Cessna riêng cuả ông ta, Sau hơn 20 năm không cầm tay lái, anh không do dự điều khiển chiếc máy bay bay bổng trên cao, ngang qua những đám mây cumulus trắng xoá như bông, cả một trời kỷ niệm lại hiện ra như mới ngày hôm qua. Anh bùi ngùi nhớ lại bà cụ đă hy sinh cả cuộc đời vất vả nuôi con, khi ông cụ vào tù ra khám như cơm bưă v́ "tội" tham gia đảng phái quốc gia chống Pháp và chống Việt Minh và xót xa thương tiếc người anh cả đáng kính tận tuỵ phục vụ Hải quân, quư mến gia đ́nh và các em, đă mất tích trên biển trên đường vượt biển t́m tự do.

Người lính già đầu bạc
Kể măi trận nguyên phong

Nổi tiếng kín đáo nhất trong gia đ́nh, tôi ngạc nhiên khi nh́n ông anh thao thao kể lại chuyện xưa với các bạn râu tóc bạc phơ khi có sinh hoạt cuả các phi đoàn quan sát KQVN. Tôi vô cùng thán phục những chiến công tưởng chừng như huyền thoại, và những sự hiểm nguy ŕnh rập những phi công máy bay trinh sát L19 từng giây, từng phút. Vai tṛ đặc biệt quan trọng cuả người quan sát viên trên các chiến trường, điều pháo, khiển không góp phần không nhỏ cho việc định đoạt thắng bại trên các mặt trận.

Kẻ thắng thường huyênh hoang những câu chuyện do văn nô viết ra khiến người biết tự trọng phải xấu hổ như du kích đu càng hạ máy bay trực thăng, dùng súng trường, cung nỏ hạ hàng ngàn máy bay địch. Người quân nhân phục vụ trong quân lực VNCH tuy thua trận nhưng vẫn trung trinh với Tổ Quốc, tấm ḷng trong sáng, trung thực, luôn luôn giữ ǵn khí tiết cuả những người lính đă từng xả thân chiến đấu dưới lá cờ vàng tự do, bởi lẽ đó, tôi viết lên đây qua lời kể trung thực không thêm bớt, quên th́ nói quên cuả một người anh thực thà như đếm, để cảm ơn ông đă “quên” thả bom vào chiến hạm “ tưởng tượng” cuả tôi khi c̣n bé.

Trần Chấn Hải

luyenchuong3000 10-29-2019 17:15







CHÚNG TA C̉N NỢ HỌ: ‘ NHỮNG NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VIỆT NAM CỘNG H̉A..’
Từ trái sang:
1. Chú Tô Văn B́nh, nhà số nhà 126/E, tổ 2 khu phố 5, phường Uyên Hưng, thị xă Tân Uyên, tỉnh B́nh Dương.
Số điện thoai: 0977 779 249
2. Chú Nguyễn Văn Thanh, tổ 4, ấp 4, khu Tái Định Cư, xă Vĩnh Tân, thị xă Tân Uyên, tỉnh B́nh Dương.
CMND: 280829118
Số điện thoại: 0396 073 414
3. Chú Lê Văn Tài, ấp 3, xă Hội Nghĩa, thị xă Tân Uyên B́nh Dương.
Số điện thoại: 0352 208 255
Một cái share có thể được vài ngàn, một cái share có thể được vài trăm ngàn, một cái share có thể được vài triệu của những người mạnh thường quân chia sẽ giúp đến các ông. Đó là công việc tôi thích làm mà không cần ai phải trả lương chỉ đơn giản là tôi thương lính.
Ba ông ở gần nhau trên vùng B́nh Dương ‘kinh tế mới’, không ai c̣n khả năng lao động, ba ông ai cũng đă già điều kiện cuộc sống bệnh đau kinh tế rất khó khăn đều giống nhau. Anh chị các bạn chia sẽ nếu giúp ba ông chỉ cần chuyển bưu điện Viettel giao tới nhà chịu thêm ít cước phí, và ghi rơ tên từng người nhận th́ ba ông sẽ nhận được.
NHỮNG MĂNH ĐỜI. NHỮNG THƯƠNG PHẾ BINH. XIN ĐỪNG QUÊN HỌ.

luyenchuong3000 11-03-2019 19:39







Bài viết nên đọc! đọc đi để biết hiền tài Việt Nam xưa ...
Danh nhân số 1 cuả VNCH.........!!
TIỂU SỬ ĐẠI TÁ NGUYỄN XUÂN VINH
Nguyễn Xuân Vinh (sinh năm 1930) nguyên là Đại tá tham mưu trưởng kiêm tư lệnh của Không quân Việt Nam Cộng ḥa. Ông là giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ chuyên ngành kỹ thuật không gian người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trên thế giới. Năm 1962, ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người đầu tiên ở Đại học Colorado được cấp bằng tiến sĩ khoa học không gian sau khi ông thực hiện thành công nghiên cứu công tŕnh tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền do NASA tài trợ. Những lư thuyết của Nguyễn Xuân Vinh đă góp phần quan trọng đưa các phi thuyền Apollo lên được mặt trăng thành công đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các phi thuyền con thoi trở về trái đất an toàn. Ông c̣n là nhà nhà văn với bút danh Toàn Phong với nhiều tác phẩm nổi tiếng được xuất bản.
Từ khi c̣n nhỏ Nguyễn Xuân Vinh là một người có năng khiếu toán. Ông tham gia viết sách từ rất sớm. Khi đang là học sinh, ông đă có sách được xuất bản với cuốn sách giáo khoa Bài tập h́nh học không gian. Cuốn sách đă trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.
Năm 1951 ông nhập ngũ theo lệnh động viên và tham gia khóa I Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức. Năm 1952, ông theo học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l'Air) cho đến năm 1955. Sau đó ông lưu trú tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông đồng thời lấy bằng cử nhân toán ở Đại học Máeille.
Năm 1957, Nguyễn Xuân Vinh được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không lực Việt Nam Cộng ḥa. Cho đến tháng 2 năm 1958, ông được giao chức Tư lệnh Không quân. Ông giữ chức vụ này cho đến năm 1962 rồi đi du học ở Hoa Kỳ.
Năm 1962, Đại tá Nguyễn Xuân Vinh đến Hoa Kỳ để bắt đầu sự nghiệp khoa học của ḿnh khi ông 32 tuổi. Năm 1965, là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ về khoa học không gian tại Đại học Colorado. Ba năm sau, Tiến sĩ Vinh làm giảng sư (associate professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh được phong hàm giáo sư (professor) tại viện đại học Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng tiến sĩ quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.
Năm 1982, Nguyễn Xuân Vinh là giáo sư (chair professor) của ngành toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan. Hai năm sau, năm 1984, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l'Air et de l'Espace). Đến năm 1986, Giáo sư Vinh trở thành viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).
Trong nhiều năm Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đă được mời tham gia thuyết tŕnh thỉnh giảng tại nhiều đại học lớn và các hội nghị quốc tế nhiều nơi trên thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ư, Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.
Năm 1999, Giáo sư viện sĩ Nguyễn Xuân Vinh nghỉ hưu, ông đă được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace engineering) v́ công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.
Ngày 19 tháng 10 năm 2016, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đă được Giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, làm phép Thanh Tẩy gia nhập Đạo Công giáo tại nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California. Ông lấy tên Thánh là Anphongsô. Ông Anphongsô Nguyễn Xuân Vinh cũng được lănh nhận bí tích Thêm Sức do giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương ban trong Thánh lễ với sự hiện diện của gia đ́nh thân quyến và các bạn hữu lâu năm của ông.
GIẢI THƯỞNG :
- Năm 1994: "Mechanics and Control of Flight" của American Institute of Aeronautics and Astronautics.
- Năm 1996: "Excellence 2000 Award" của Pan Asian American Chamber of Commerce
- Năm 2006: "Giải thưởng Dirk Brouwer" về Cơ học Du hành Không gian của Hội Du hành Không gian Hoa Kỳ (American Astronautical Society)
- Năm 2007: Dirk Brouwer Award do the American Astronautical Society tặng
- Năm 1994: Mechanics and Control of Flight Award presented do American Institute of Aeronautics and Astronautics tặng.
- Năm 2000: Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc tế du hành vũ trụ và Viện Hàn lâm Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Pháp. Ông được chọn là một trong những người xuất sắc của Hoa Kỳ Pan Asian American Chamber of Commerce tại Washington, DC.
- Hội Khuyến Học ở Saint Louis, Missouri, đề ra giải thưởng hàng năm tên là giải thưởng "Truyền thống Nguyễn Xuân Vinh" để khuyến khích học sinh ở địa phương.
TÁC PHẨM :
Tác giả Nguyễn Xuân Vinh đă xuất bản ba cuốn sách và hơn 100 bài báo kỹ thuật trong lĩnh vực toán học, astrodynamics, và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Ông Vinh cũng từng là biên tập viên trong khoảng thời gian dài 20 năm cho tạp chí lưu trữ cho Học viện vũ trụ Quốc tế (the archival journal for the International Academy of Astronautics). Giáo sư Vinh nguyên là chủ tịch hội đồng chấm luận án tiến sĩ (chaired the doctoral committees) cho 30 nghiên cứu sinh, nhiều người trong số họ hiện nay đang là giáo sư của các Hiệp hội uy tín của Hoa Kỳ, các trường Đại học các trường học hoặc các hiệp hội nhà khoa học hàng đầu trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.
Về Khoa học : Ông đă viết hàng trăm tiểu luận về toán, động học không gian (astrodynamics) và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Các sách viết bao gồm:
- Hypersonic and Planetary Entry Flight Mechanics. 1980. Vinh, N. X.; Busemann, A.; Culp, R. D. University of Michigan Press.
- Optimal Trajectories in Atmospheric Flight 1981. Vinh N. X., Studies in Astronautics 2, Elsevier Scientific Publishing Company, Amsterdam.
- Flight Mechanics of High-Performance Aircraft. 1993. Nguyen X. Vinh. Cambridge Aerospace Series. ISBN 052134123X
Về Văn chương :
- Gương Danh Tướng, 1956.
- Đời Phi Công, 1959. Truyện dài, Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961 (Việt Nam Cộng ḥa)
Theo Ánh Tinh Cầu, 1991. Truyện kư sự.

wonderful 11-04-2019 11:00

1 Attachment(s)
Lớn lên em cũng như anh .


hoanglan22 11-04-2019 13:52

Quote:

Originally Posted by wonderful (Post 3770462)
Lớn lên em cũng như anh .


:thankyou: Bác . Thấy cầm M79 ngầu thật

hoanglan22 11-08-2019 05:06

Chuyện một thuyền nhân
 
3 Attachment(s)


Sau nhiều năm "luyện chưởng " ở miền Bắc, tôi được phép " hạ san ". Cầm tờ "lệnh tạm tha " tôi trở về thành phố đă thay tên, từ cảnh vật đến t́nh người đều thay đổi, tôi ngơ ngác như Mán ra thành.

Tuy đă ra khỏi " ḷ hấp ", nhưng người ta vẫn " quan tâm? " về tôi, ngày ngày cho chú công an khu vực đến "vấn an sức khỏe " và mỗi tuần tôi phải lên trụ sở công an phường để họ ngắm dung nhan cùng đóng một con dấu đỏ vào tờ giấy ra trại.

Dù tỏ ra "ưu ái " nhưng khi tôi xin phép về quê, để viếng mộ Cha- Mẹ, tôi phải đợi dài cả cổ. Hỏi th́ được trả lời "đang kíu xét ". Tâm sự với thằng bạn th́ nó hỏi "mầy có ǵ cho nó chưa?". Tôi đáp tao vừa mới ra tù, không một đồng xu dính túi, lấy ǵ mà hối lộ. Nó cười "dễ lắm chỉ cần vài điếu thuốc có cán thôi ". Tuy không tin lắm, nhưng tôi cũng thử cầu may. Tôi xin người thân tiền mua ba điếu thuốc có đầu lọc, mượn cái hộp quẹt của ông anh vợ, rồi đến gặp tên cán bộ phụ trách, mồi điếu thuốc mời anh ta hút và tặng luôn hai điếu bỏ túi, thế là tôi có ngay tờ giấy phép đi đường.

Hết xẩy! Từ đó về sau, mỗi khi cần ǵ tôi chỉ bổn cũ soạn lại hoặc đôi khi cho chắc ăn hơn, tôi mua vài tờ vé số cặp hai hoặc ba ( một đồng/tờ ) trao cho tên cán bộ, rằng th́ là cán bộ lương chẳng nhiều, giữ vài tấm vé số nầy biết đâu gặp may trúng độc đắc sẽ đổi đời; nghe bùi tai nên lúc nào họ cũng thỏa măn ngay cho tôi khỏi cần "kíu xét ".

Về thăm lại nơi chôn nhao cắt rốn cách Sài G̣n hơn trăm cây số, quê tôi trước 1975 thật trù phú, nhưng nay cũng cùng số phận hẩm hiu của cả miền nam, trở nên tiêu điều, người dân vất vả hơn, câm nín hơn và nhất là vắng tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ… .


Tôi vốn luôn nghĩ rằng Sinh - Lăo - Bệnh - Tử là luật của vũ trụ, chẳng ai tránh khỏi, nên ngay trước sự ra đi của người thân tôi cũng xem đó là điều tự nhiên, chẳng có ǵ phải bi lụy; nhưng lần nầy, đứng trước mồ của mẹ, nước mắt tôi tự dưng tuôn thành gịng. Một mảng kư ức trở về trong tâm khảm tôi:

" Vào những ngày cuối của tháng 3/1975, di tản từ V1DH về trú ở V3 DH, tôi gặp lại ông Xếp cũ năm 1972 cùng phục vụ ở CCHQ/MT mà hiện là HT của một chiến hạm. Tôi hỏi ông đi đâu? – Ông bảo muốn kiếm vài bản đồ vùng Đông Nam Á. Tôi vào pḥng thằng bạn lấy cho ông vài bản. Ông vỗ vai tôi thân mật bảo:- Anh về nói với bà Cụ (Mẹ tôi ) chuẩn bị sẵn, khi ông đến đón gia đ́nh bên vợ sẽ đón luôn gia đ́nh tôi.

Số là, ông rất mến tôi v́ khi tôi phụ tá ông, mọi việc của căn cứ tôi đều cán đáng. Ngoài ra, Ông lập gia đ́nh với một người phụ nữ gần nhà tôi, tức ngoài t́nh chiến hữu c̣n có thêm t́nh cḥm xóm. Tôi cám ơn Ông, nhưng cho biết là sẽ không đi.

Rồi ngày 29/04/1975, Ông Xếp của tôi là ĐôĐốcTL/HQ/V1DH và ĐĐ. TL/HQ/V3DH trước khi lên xe ra Vũng Tàu để xuống chiến hạm cũng đă khuyên tôi nên cùng đi với hai Ông " Anh ở lại với tụi nó không được đâu ". Tôi cám ơn hai Ông nhưng khước từ ra đi và trở về Sài G̣n để sau đó đi tù ".

Tuy nhiên, cho đến nay, tôi không ân hận chút nào về quyết định nầy. V́ tôi không thể bỏ Mẹ tôi để ra đi. Mẹ tôi, người đă cho tôi cả một t́nh thương bao la, ngay từ khi ba tôi bỏ gia đ́nh đi sống với một bóng sắc khác lúc tôi vừa tṛn tuổi thôi nôi. Dù nhà thật nghèo, phải vô cùng vất vả, nhưng Mẹ tôi lúc nào cũng v́ Nội và hai chị em tôi. Mẹ tôi thủ tiết cho đến khi nhắm mắt ĺa đời năm 1976, đúng vào lúc kẻ cướp đày tôi lên vùng thượng du Bắc Việt.

Tôi đă đi biết bao sông dài, biển rộng, nhưng không có đại dương nào bao la bằng t́nh thương của Mẹ tôi. Tôi cũng đă có dịp đi công tác ở nước ngoài, thấy được sự văn minh, giàu có của họ, nhưng không có vật chất nào đủ hấp dẫn để tôi phải xa Mẹ tôi. Tiếc thay việc ở lại của tôi chỉ là điều vô nghĩa v́ ước nguyện được cận kề Mẹ tôi đă không thành. Mẹ tôi, một người phụ nữ hiền lành, chất phác, không biết chữ để đọc được sách thánh hiền, nhưng bản chất đôn hậu, luôn yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên rất được hàng xóm mến, và cả gia tộc nhà chồng thương, tuy nhiên thật tội nghiệp, chỉ có thằng con trai là tôi nhưng từ khi tôi học trung học, đại học và làm lính với cuộc sống phiêu bồng th́ chẳng mấy khi được gần con, thậm chí trước khi nhắm mắt ĺa đời cũng không được thấy con lần cuối.

Trở lên Sài G̣n, lần nầy tôi quyết định phải ra đi.

Nghe nói có thằng bạn cùng khóa HQ, thường tổ chức vượt biên. Tôi t́m đến, đề nghị lái ghe cho nó. Nó đồng ư nhưng chỉ cho thêm một chỗ. Tôi tŕnh bày là tôi có một vợ và một con, chẳng lẽ phải để lại người nào?. Nó dứt khoát một chỗ, nếu nhận th́ đánh, không th́ thôi. Tôi từ chối, lủi thủi ra về, ḷng ít nhiều xót xa, nhớ lại kỷ niệm hai năm chung quân trường và vào năm 72-73 khi tôi phục vụ ở CC/HQ/MT, lúc đó nó bị nạn dường như vụ c̣i hụ Long An, ghé tôi và tôi vẫn đối xử trong t́nh bạn.

Rồi cơn buồn chỉ thoáng qua, v́ vào thời điểm 1983 phong trào vượt biên c̣n khá rần rộ, tôi lại là lính biển thứ thiệt, chắc sẽ không đến nỗi nào và đúng như tôi nghĩ, không biết họ lấy tin từ đâu mà nhanh thật. Nhiều tổ chức đă đến đề nghị tôi cộng tác với họ, kể cả một tên Đại Úy bộ đội. Trước kia, tôi không rơ về VC lắm, nhưng giờ th́ cho cả kho vàng Fort Knox tôi cũng không tin nổi họ, do đó tôi cho biết là

" 29/04/1975 đang ở Vũng Tàu, dù có phương tiện nhưng tôi đă không đi, v́ không đâu đẹp bằng quê hương ḿnh, vả lại sau nhiều năm cải tạo, tôi đă hiểu được lao động là vinh quang, nên từ nay sẽ hăng say lao động để góp phần làm cho đất nước ta giàu mạnh ".

Tên bộ đội, không biết là muốn bẫy tôi hay thực sự đă chán ghét chế độ, hắn tṛn mắt nh́n tôi và nghĩ có lẽ tôi mới vừa ở Chợ Quán hay Biên Ḥa ra, nên vội vă kiếu từ.

Những tổ chức vượt biên, nếu để hốt vàng th́ thường chỉ cho người Hoa Tiêu thêm hai chỗ, c̣n nếu không v́ thương mại th́ họ chấp nhận cho cả gia đ́nh người lái cùng đi.

Lần đầu, tôi đến với một gia đ́nh ở Sa Đéc, nhưng thấy không thuận lợi, nên không tiến hành.

Lần thứ hai, gia đ́nh của cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng G̣ Công đề nghị tôi hợp tác và đưa tôi về Bến Tre để cùng nhà Văn Kim Nhật t́m phương cách ra đi. Ông nầy nguyên là Bác Sĩ y khoa, mê chủ thuyết cộng sản nên theo VC và giữ chức giảng nghiệm viên y khoa ở cục R, nhưng khi rơ bộ mặt thật đê hèn và man rợ của chúng, Ông bỏ về thành viết cuốn Đường về R và bị VC tuyên án tử h́nh khiếm diện nên phải trốn về Bến Tre để sống.

Nguyên là BS, nhưng Ông ăn trầu bỏm bẻm, đi chân đất,… Sống như một bần cố nông thứ thiệt, Ông kịch giỏi đến nỗi sống chung với hàng xóm toàn là VC nơi quê hương đồng khởi của chị Ba Định mà không ai biết được hành tung. Từ nhà Ông ra biển, với một chiếc ghe nhỏ gắn buồm con, hai cây dầm, một hai tấm lưới bén, một cái thạp nhỏ và ít muối hột, Ông cùng cậu con khoảng bảy tám tuổi và tôi dăi nắng, dầm mưa trong hai ngày lần ḍ ra cửa biển. Trên đường đi, gặp bất cứ trạm kiểm soát nào Ông cũng tự động ghé vào, tŕnh thẻ đảng và hỏi các đồng chí nhờ chỉ giùm nơi nào có thể lưới kiếm chút cá về làm mắm trong khi chờ mạ lớn để cấy.

Tôi vốn là dân thành phố da dẻ trắng trẻo lại vừa ở tù ra không có giấy tờ, nên những khi đó tim tôi đập liên hồi. Ông giải thích " chú không biết, VC chúa đa nghi, ḿnh phải cao tay ấn nếu không chúng nghi sẽ hạch hỏi, c̣n tránh né hoặc không tuân thủ chúng sẽ dùng AK hoặc thượng liên để giải quyết ". Tuy đôi khi cũng có vài tên VC xuống kiểm soát ghe, nhưng thấy không có vẻ ǵ khả nghi, nên chúng cũng cho đi.

Thời gian ở bên nhà văn Kim Nhật không lâu, nhưng Ông kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện của VC, thú vị nhất là việc anh Ba mặt nám tức Lê Duẩn khi làm bí thư xứ ủy Nam Bộ đă đê tiện hiếp chị X.. Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Cần Thơ. Chị là con của một Ông Hội Đồng giàu có, là hoa khôi của Tây Đô và có vị hôn phu là Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn nổi danh 307. Lê Duẩn đă điều vị Tiểu Đoàn Trưởng nầy đi xa để ly gián hai người, rồi ra lệnh cho chị Chủ Tịch Liên Hiệp Phụ Nữ Nam Bộ cùng chị X vào cục nhận công tác. Khi bị Lê Duẩn hiếp, chị X đă kêu la cầu cứu, nhưng chẳng ai dám can thiệp, kể cả nhà văn Kim Nhật. Bất măn, buồn chán… Ông bỏ trốn về thành… .

Hai hôm sau, tôi trở lên Sài G̣n, tŕnh bày mọi việc cho tổ chức. Nhận thấy là thái độ của nhà Văn Kim Nhật chưa dứt khoát, v́ Ba ông không muốn xa con, cháu; riêng Ông có vẻ mong một người đồng chí cũ hiện giữ chức vụ lớn trong Quốc Doanh đánh cá đang t́m cách cướp một chiếc ghe tốt, có trang bị vũ khí, để vượt biển được an toàn hơn chiếc ghe sông nhỏ với thành ghe rất thấp không thích hợp để đi biển của gia đ́nh ông cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng G̣ Công.

Rồi tôi nhận lái ghe cho một tổ chức người Hoa. Họ cho tôi hai chỗ và thêm một người bạn của cậu em vợ được tháp tùng với giá đặc biệt một lượng vàng. Tôi bàn tính mọi việc với Bà chủ ghe, Bà nghe tôi nhưng cho rằng " Tôi là người quan trọng nhất, không nên lộ diện sớm, chỉ nên đi như khách và chỉ nhận trách nhiệm khi ghe ở ngoài biển ". Tôi đồng ư.

Đúng ngày hẹn, ghe Taxi đón chúng tôi gần bến phà Thủ Thiêm. Đến Cần Giuộc, Cần Đước ǵ đó khoảng hai ba giờ đêm ; người lái Taxi cho biết là " động rồi, cá lớn phải chạy về Vĩnh B́nh ẩn và yêu cầu chúng tôi lên bờ tự túc về nhà ". Ghe Taxi chở khoảng hai mươi người, hầu hết là người Hoa, tôi khuyên họ là nên phân nhóm nhỏ hai, ba người để di chuyển nhằm tránh sự nghi ngờ của dân địa phương và lực lượng dân pḥng. Nhờ là lính biển, quen nh́n phương hướng, tôi dẫn cô em gái, cậu em vợ và bạn nó, t́m ra được bến xe đi Chợ Lớn. Len lén ngoái đầu lại, th́ tất cả mọi người cùng đi trên chiếc ghe Taxi cũng đă có mặt. Xe chở khách bán buôn, đă đầy nghẹt, c̣n quang, gánh th́ cũng đầy trên nóc và lủng lẳng khắp thành xe. Tới mỗi trạm gác th́ người phụ xế đều chạy đi nạp hối lộ, do đó không hề có sự kiểm soát nào, nhờ đó chúng tôi may mắn về đến Sài G̣n được an toàn.

Bà chủ ghe đến gặp tôi và trấn an, tôi yên chí, không hề thắc mắc là thời đó chưa có điện thoại di động để liên lạc th́ làm sao ghe Taxi biết được là đă bị động. Mải vài hôm sau, cháu của bà chủ đến gặp tôi. Chị là vợ của một Thiếu Tá Công Binh đă vượt biển thành công sang Úc và đă làm thủ tục bảo lănh vợ - con, nhưng có lẽ v́ nóng ḷng hoặc không chịu nổi sự hoạnh họe của lũ VC ở địa phương Cây Gơ nên chị liều lĩnh vượt biên trước. Chị Y khóc lóc kể với tôi rằng chiếc ghe trị giá mười hai lượng vàng mà phần chị và ba người con đă góp vào tám lượng, nhưng bà chủ ghe D́ ruột của chị v́ tham dùng người lái phụ chỉ tốn thêm một chỗ đă lái ghe đi, bỏ rơi cả gia đ́nh chị. Tôi nghèn nghẹn, nhưng cũng chỉ biết an ủi chị rằng ḷng người khó mà ḍ.

Ít lâu sau, có hai người đến gặp tôi nhờ lái ghe. Người đàn ông xưng là dân Quốc Gia Hành Chánh Cựu Phó Quận Trưởng Quận Cần Đước. Bà vợ th́ đeo cẩm thạch, vàng đầy tay và chiếc đồng hồ hiệu Citizen ( thời đó Citizen là đồng hồ thuộc loại xịn ) để khoe của và sự thành công. Trong khi bàn bạc và bày vẽ phương cách ra đi cùng họ, tôi đă thật thà khai báo là " vừa bị một tổ chức lừa, nhưng tôi nghĩ là họ sẽ không tệ như tổ chức kia ". Họ cười cười và hẹn hai ngày sau sẽ đến đón tôi, nhưng hơn tuần lễ vẫn không thấy, tôi bèn t́m đến nhà họ ở đường Tôn Thất Thiệp Khu Chợ Trời để hỏi, th́ người nhà của cặp nầy cho biết là chưa thuận lợi để đi và sẽ báo ngay cho tôi khi họ quyết định. Tôi ra về, nhưng sau đó được biết là họ đă bỏ rơi tôi, Dùng người lái phụ lái ra cửa Tiểu th́ bị Công An Tỉnh Tiền Giang xét bắt, cả một trăm năm mươi người khách và Ông-Bà chủ ghe phải đi gỡ lịch. Thật may! Số tôi đă hết dịp đi tù.

Tôi vốn gốc dân quê không lanh lợi, lớn lên đi học, đi lính,, rồi đi tù nên thật ngờ nghệch trước những đổi thay của xă hội thời VC. Sau hai lần bị gạt, tôi thật hoang mang, cộng với chuyện gia đ́nh không vui, nên tuy bề ngoài luôn cười cợt, nhưng bên trong lại thường khóc thầm.

Biết điều phiền muộn của tôi, người anh vợ từ sau khi ra tù, ngày ngày phải đạp xích lô để kiếm sống, nhưng thỉnh thoảng cũng đi vác củi thuê cho Ty Chất Đốt của thành phố, để khỏi phải đi vùng kinh tế mới và anh đă đề nghị tôi cùng làm việc nầy. Tôi lên phường xin cấp cho một giấy tờ hợp pháp để tôi làm việc cho Ty Chất Đốt Thành Phố. Những chức sắc của VC hầu hết đều không có tŕnh độ văn hóa, thường chỉ do có công với " cách mạng " mà được chỉ định phụ trách điều hành công việc hành chánh. Tên Cán Bộ Phường Trưởng vui vẻ bắt tay tôi và gọi tôi là đồng chí, làm tôi nổi da gà.



Ty Chất Đốt tọa lạc trên đường Trần Qúy Cáp thuộc Quận 3. Hàng ngày họ cắt năm, sáu xe vận tải lên rừng chở củi về thành phố. Mỗi chiếc xe, ngoài tài xế là nhân viên cơ hữu của Ty, c̣n chúng tôi năm, sáu đứa chỉ là phu công nhật. Tài xế vận tải thời nầy có thớ lắm, thật khá giả và rất hách dịch. Số xe lên rừng mỗi ngày chỉ cần vài chục người phu, nhưng số người chầu chực buổi sáng mong được cắt đi lúc nào cũng khoảng vài trăm và người phụ trách chấm công lại là một cựu Trung Úy VNCH. Không rơ người anh vợ tôi đă nói ǵ mà mỗi khi thấy tôi th́ ông cựu Trung Úy nầy đều chỉ định tôi đi làm và có lần c̣n kề tai nói nhỏ" khi nào dzọt, đàn anh nhớ thằng em nầy với nhé " .

Từ nhà tôi ở Phú Nhuận ra đến Ty Chất Đốt, tốn năm đồng xe lam, hai ngày ở trong rừng ăn bốn dĩa cơm với vài miếng ba rọi kho và chút rau muống tốn bốn mươi đồng cộng thêm bốn đồng trà đá v́ trời nóng như thiêu, vị chi là bốn mươi chín đồng, nhưng khi được trả công chỉ nhận có năm mươi, hoặc năm mươi lăm đồng. Đường lên rừng Xuân Lộc, Hớn Quản, Lộc Ninh, Trảng Bàng,… thật khủng khiếp, không chỉ ổ gà mà toàn lỗ chân Khủng Long, ngồi trong ḷng xe mà bị dằn xốc đến nỗi có lần tôi treo một cái vơng nylon để nằm và chiếc vơng đă bị đứt làm đôi.

Sáng th́ bụng trống trơn, lên đến rừng th́ tên tài xế ra lệnh phải lăn xả vào công việc, trời th́ nắng như thiêu, nhiều lần tôi bị choáng váng. Nếu 1975, khi tôi tù ở Long Giao, VC đă đốn vô tội vạ cao su ở Long Khánh để làm củi th́ nay chúng cũng tàn phá những rừng của Miền Nam để lấy củi. Những khúc củi dài hai mét, đường kính từ hai đến bốn tất có khi nặng cả trăm kí lô gram. Chúng tôi phải khiêng đến xe với khoảng cách vài chục đến trăm mét, rồi chất lên xe tải có mui, lèn kín củi như chất que diêm trong một cái hộp quẹt. Tội nghiệp, mấy cậu trai trẻ thấy tôi quá đuối nhiều lần đề nghị "Ông thầy mới ra tù, khiêng hổng nổi đâu, để tụi em làm ". Tôi thật cảm động, cám ơn các em, nhưng cũng phải ráng hết sức ḿnh.

Chất kín củi lên xe đă khó, mà chừa hộc để tên tài xế giấu nhựa cao su hay cà phê hoặc đậu xanh lại càng khó. Chắc chắn là hắn đă ăn chịu, nên chẳng ai dám tố cáo, c̣n nếu rủi bị thuế vụ xét gặp th́ hắn sẽ đổ dẩy cho lũ phu chịu tội. May là chuyện bị xét đă không xảy ra lần nào.

Chỗ xuống củi để trữ cho thành phố là khu đất gần Trung Tâm Tiếp Huyết và Tổng Y Viện Cộng Ḥa. Việc xuống củi th́ tương đối dễ dàng hơn. Trên đường Vơ Duy Nguy đoạn gần khu chứa củi th́ con buôn đă đứng sẵn rất nhiều và các cậu phu lợi dụng đẩy xuống đường vài khúc củi để kiếm thêm vài trăm đồng.

Phần tôi, đang đóng kịch đă giác ngộ lao động là vinh quang, nên dù một đêm trên rừng làm mồi cho muỗi đốt, khổ sở, vất vả, bầm dập tay chân… để hầu như làm việc không công, nhưng tôi vẫn làm ra vẻ vui vẻ, c̣n các cậu trai trẻ th́ đâu thể ngu như tôi rồi lấy ǵ sống. Chính VC đă đẩy các em phải mánh mung để sinh tồn.

Rồi một Trung Tá Công Binh mời tôi tham gia tổ chức của Ông. Ông dẫn tôi đến xem chiếc ghe đang tân trang. Ghe dài khoảng mười bảy mét, bốn máy. Ông cho biết đă có hai khẩu đại liên M60, hai cây phóng lựu M79, một khẩu M16, vài thùng đạn và tuyên bố là nếu bị VC xét th́ ăn thua đủ để thoát hoặc chết quyết không để chúng bắt. Dù không thấy súng ống, nhưng tôi thích phương cách của ông Trung Tá Công Binh nầy. Tiếc là để kiếm cho đủ hai trăm năm mươi người khách vượt biên như Ông muốn không phải dễ và chẳng biết đến bao giờ.

Sau đó, một ông Trung Tá Dù đề nghị tôi lái cho một tổ chức đă có liên tục mười chuyến thành công. Ông ta chỉ cho tôi thêm một chỗ và dù chưa thấy qua chiếc ghe, nhưng tôi vẫn nhận v́ bằng mọi giá tôi đă nhất quyết phải ra đi. Ông giao cho tôi một số tiền để mua sắm hải đồ và tôi may mắn được em của một người bạn cùng khóa HQ bán rẻ nửa giá.

Trước khi ra đi, tôi đă dùng số tiền thừa phân nửa đó để đăi cho bốn đứa con của người D́ vợ. Mỗi đứa một tô ḅ viên ở chợ Phú Nhuận. Nh́n những đứa bé sung sướng x́ xụp với tô ḅ viên, tôi thật xúc động. Trước 1975, nhà chúng cũng không tệ, nhưng khi VC thống trị th́ trở nên nheo nhóc, cha là ngụy nên phải đi tù, mẹ th́ muôn ngàn khó khăn để nuôi đàn con đông nheo nhóc, do đó trong nhiều năm chúng chỉ biết cơm độn với rau muống chấm nước mắm kho quẹt.

Riêng cô chị cả của chúng, mười sáu tuổi đă đỗ tú tài hai hạng tối ưu và nhờ học ở hội Việt- Mỹ khá thạo tiếng Anh, nhưng v́ lư lịch con ngụy nên không được tiếp tục học, cũng không xin được việc làm. Cô tâm sự " người xứng với em th́ hoặc đang ở nước ngoài hoặc c̣n trong tù c̣n lũ người rừng nầy (VC), th́ dù chết em cũng không ưng ". Do đó cô đă lén lút buôn chuyến, xuống miền Tây mua ít thịt thà, cá mắm đem về Sài G̣n bán kiếm chút lời, nhưng thời đó những món nầy đều bị cấm, bị chận xét, tịch thu và phạt; nên mười chuyến chỉ họa hoằn một, hai chuyến là thoát. Kiếm được chút đỉnh, vay mượn thêm, cô vượt biển nhiều lần, nhưng đều thất bại và sau cùng bị chết đuối.

Tội nghiệp, cô rất ngoan đạo, nhưng phận bạc phải ĺa đời lúc tuổi c̣n thanh xuân.

Người trong tổ chức của ông Trung Tá Dù, chở tôi từ Sài G̣n xuống Vĩnh B́nh bằng xe gắn máy. Ông nầy là cựu Đại Úy Biệt Động Quân, người to lớn, mập mạp, đội nón cối, đi dép râu, giống hệt một cán bộ VC, c̣n tôi với giấy tờ giả, ôm sacoche theo ông như là tà lọt. Nghe nói ông gốc dân Văn Khoa, không biết làm cách nào mà có dạo phụ trách thảo diễn văn cho tên Tư Lệnh Quân Khu 7 của VC.

Đón chúng tôi ở một quán cà phê ở Vĩnh B́nh là một bi thư Xă Ủy VC. Ông nầy mê cộng sản đă hiến mười lăm mẫu đất cho VC làm công binh xưởng, cả gia đ́nh đều theo VC, có vài đứa con đă lên bàn thờ, riêng bà vợ bị bom gảy cột xương sống. Có điều là dưới thời VNCH, th́ ai cũng được bệnh viện chăm sóc, chữa trị, nhưng khi VC cướp miền Nam th́ tất cả thuốc men đều vét sạch chở ra bắc, từ đó người dân Miền Nam dù bệnh ǵ thường chỉ có xuyên tâm liên hoặc thuốc dỏm, Bác sĩ dỏm thôi. Đến 1976, th́ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị giải tán và hầu hết cán bộ VC Miền Nam cũng bị cho ra ŕa. Bất mản v́ hai thập niên theo VC, chỉ được dăm bằng liệt sĩ, vài tấm huân chương treo vách để nhát con nít khi chúng khóc, vợ đau xin cấp thuốc cũng không có… Ông bí thư Xă Ủy nầy quay sang bắt tay với " ngụy " và sau mỗi chuyến thành công được tổ chức thưởng cho hai lượng vàng.

Cạnh nhà ông Bí Thư là nhà của tên Trung Đội Trưởng du kích xă, hôm đó có giỗ. Khoảng hơn hai mươi tên du kích với AK47, CKC nhậu nhẹt rần rần; thỉnh thoảng có tên kêu vói mời Bác Năm (Ông Bí Thư) sang nhậu với chúng, ông ta thối thoát tao không khỏe, tụi bây cứ tự nhiên.

Đến đêm, ông và cậu con, chống ghe nhỏ đưa tôi và ông Đại Úy Biệt Động Quân ra chiếc ghe lớn đậu gần một trại cùi. Mọi người đă lên ghe đầy đủ và chúng tôi là hai kẻ sau cùng. Ghe bắt đầu hướng ra biển.

Theo giao hẹn, tôi chỉ trách nhiệm khi ghe ra biển, nhưng khi đi được một đoạn c̣n khá xa biển, người lái ghe nhảy xuống ghe con trở về. Phóng lao phải theo lao, tôi tiếp tục lái ghe ra cửa Ba Động.

Hồi năm 1971, khi phụ trách chiếc kiểm báo Hạm Ba Động HQ 460, tàu tôi neo ngoài khơi cách cửa Ba Động hai mươi cây số, các Sĩ Quan thay nhau vào Vĩnh B́nh mua thực phẩm cho tàu, c̣n tôi chưa lần nào vào đó.

V́ không biết ǵ về cửa Ba Động nên khi ghe ra gần đến cửa biển, dù sông thật rộng, ghe tôi bị vướng phải một cồn ngầm. May nhờ thủy triều lên, tôi rút ghe ra được và thẳng ra biển. Lúc đó biển thật động, mà ghe là ghe nhỏ đi sông, thành ghe rất thấp, không có volant nên phải lái với cái cần lái ở đuôi ghe. Do không thể đâm thẳng ra biển, tôi phải lái chếch sóng, nhưng ngày càng gần hải đăng Vũng Tàu.

Cuối cùng tôi phải liều lĩnh chấp nhận rủi- may đâm ra khơi. Hôm đó v́ biển quá động, những ghe quốc doanh đánh cá từ Côn Sơn phải chạy cả về SGN và khi ghe tôi ra khơi khoảng hơn nửa giờ th́ bị một ghe Quốc Doanh đuổi theo. Ghe chúng lớn loại đi biển được trang bị máy mạnh, c̣n ghe tôi nhỏ, máy chỉ hai Bloc; nếu chúng tiếp tục đuổi chắc chắn sẽ bắt được chúng tôi, nhưng không hiểu v́ sao chúng bỏ cuộc và ghe tôi thoát nạn.


ghe sông vượt biển

Trưa hôm sau, chúng tôi lọt vào một cơn giông. Thường th́ sóng biển từng đợt đánh theo chu kỳ, nhưng trong cơn giông th́ sóng loạn, tôi vừa lái vừa cố gắng tránh sóng, tuy nhiên v́ thành ghe thấp và đôi khi tránh không kịp nên thỉnh thoảng ghe cũng bị sóng tràn vào. Tôi yêu cầu cánh đàn ông, chia từng cặp thay nhau múc nước đổ ra biển. C̣n phụ nữ và trẻ con th́ thật tội nghiệp, họ vô cùng sợ hăi, nhưng chỉ biết x́ xụp lạy hay cầu nguyện. Trên ghe tôi có một ông Tiến Sĩ, nhưng lúc đó ông không phụ tát nước mà chỉ cầu nguyện như những người phụ nữ, tuy có tŕnh độ văn hóa cao nhưng khi hữu sự giá trị của ông lại không bằng các cậu trai trẻ. Phần tôi, đă từng hai lần thoát chết trong trại tù CS, nên lúc đó tôi không hề sợ, ngoài ra nh́n hàng chục đứa bé thật tội nghiệp, tôi càng vững tay lái hơn, vừa niệm Phật vừa lái đến khi trời sụp tối. Tôi đang lo là sẽ không thấy đường để tránh sóng th́ may thay sóng dịu dần như có một phép mầu.

Sau một ngày vật vă với sóng gió, tôi mệt đừ, nên giao tay lái cho cậu em vợ và ngả lưng bên cạnh những buồng dừa ngổn ngang. Số là tổ chức cho biết là tôi có một người phụ lái và một người thợ máy, nhưng trên thực tế th́ người phụ lái là một cựu Đại Úy Địa Phương Quân, đă có lái qua tàu sông, nhưng suốt trong chuyến vượt biên ông không lái thay cho tôi lần nào. C̣n người thợ máy th́ dỏm, thực ra chỉ là một thợ tiện, anh ta ở trong cabine trông nom máy và phụ trách giữ mấy bao bột đậu xanh và bột Bích Chi. Anh lại rất say sóng, nên giữ ǵn thế nào mà mấy bao thức ăn nầy bị lọt xuống hầm máy và ngấm dầu gas-oil nên không c̣n dùng được.

Trong đêm, khi cậu em ôm tay lái, tôi chập chờn bên cạnh th́ nghe tiếng nước chảy róc rách. Kiểm lại th́ chiếc thùng phuy chứa nước uống v́ quá cũ lại bị sóng nhồi nên bị thủng và nước thoát ra, khi tôi phát giác và bít được lỗ thủng th́ nước chỉ c̣n lại rất ít. Rồi một cơn mưa to chợt ập đến, do không được dự trù trước nên một số người vội đem cái mền căng ra hứng được đầy phuy nước. Điều thật buồn cười là cái mền cũ có lẽ từ nhiều năm không được giặt nên ngày mai khi nắng lên, nước hứng được có màu xám đen và trên mặt là một lớp váng. Dĩ nhiên là chẳng ai dám động đến, do đó suốt chuyến vượt biên, ngày hai lần, khoảng mười giờ sáng và mười bảy giờ chiều, cậu em vợ tôi và vài cậu nữa phải chặt dừa, đem phát cho trẻ con, phụ nữ và đàn ông mỗi đầu người khoảng 10cc nước dừa tươi, phần tôi cũng ngần đó.

Sang ngày thứ tư, chúng tôi gặp hai tàu đánh cá Hồng Kông đang neo và chúng tôi đến để xin tiếp tế. Mấy cục piles phải ưu tiên dùng cho hải bàn và thỉnh thoảng cho radio để nghe tin tức khí tượng, nên mỗi khi gặp tàu, v́ không có đèn làm hiệu, mấy cậu trai thường lột áo nhúng dầu buộc vào cây sào rồi đốt lửa làm hiệu cầu cứu, do đó thường các cậu chỉ c̣n có cái quần sọt, ḿnh trần, c̣n đầu th́ quấn chiếc khăn trông giống như hải tặc. Hai chiếc tàu cá Hồng Kông ít người, có lẽ sợ bị cướp nên lúc đầu ra dấu không cho chúng tôi đến gần. May thay trên ghe có một phụ nữ gốc Hoa, trao đổi tiếng Hoa với họ. Khi hiểu rơ, họ cho phép ghe tôi cặp vào để cho nước, nhớt, bánh ngọt, tạp chí. Riêng tôi c̣n được vào pḥng lái để xem vị trí nơi tàu đang neo và có lẽ nhờ ơn trên, dù chỉ lái bằng sự phỏng định, nhưng vị trí ghe tôi cũng không sai lắm so với ước tính. Với vị trí nầy, nếu không có ǵ bất thường th́ khoảng hai mươi bốn giờ sau chúng tôi có thể đến được Mă Lai hoặc Nam Dương.

Chúng tôi từ giă thủy thủ đoàn của hai chiếc tàu Hồng Kông với niềm biết ơn sâu xa. Mọi người trên ghe tôi chia nhau bánh, tạp chí, uống nước thỏa thích và v́ sắp được đến đích nên ai cũng đều lên tinh thần. Riêng tôi, miên man nghĩ về việc trong khi hàng chục chiếc tàu đủ quốc tịch đă làm ngơ trước sự kêu cứu của chúng tôi, th́ tại sao hai chiếc tàu Hồng Kông nầy lại thật tốt giúp đỡ chúng tôi. Nhớ hồi năm 1974, có hai chiếc tàu đánh cá Hồng Kông vi phạm lănh hải VN, bị chiến Hạm HQ/VNCH bắt giải giao về BTL/HQ/V1/DH. Lúc đó tôi phụ trách về việc nầy trước khi giao lại cho Quan Thuế Đà Nẵng lo về thủ tục pháp lư và liên lạc với chính phủ Hồng Kông. Thủy thủ đoàn của hai tàu đánh cá nầy rất lo sợ, họ đă t́m cách hối lộ tôi, nhưng chẳng những tôi không động đến tôm cá hay tiền bạc của họ, mà c̣n giúp cho họ trong khả năng. Không biết có phải là luật nhân quả đă ứng hiện cho trường hợp nầy chăng?.

Nhưng rồi niềm vui của mọi người sớm vụt tan, anh thợ máy dỏm không rơ vụng về thế nào, làm rơi chiếc áo tee-shirt quấn vào trục láp làm chết cả hai máy tàu và không sao khởi động lại được. Ông phụ lái của tôi lúc nầy xuất hiện, đề nghị cắt miếng bạt mui ghe làm buồm và nhiều phụ nữ tiếp tay thực hiện được chiếc buồm con, nhưng không may hôm đó gió rất yếu lại thổi ngược hướng chúng tôi muốn đi, nên buồm cũng không có công dụng lắm, ghe chúng tôi trôi lênh đênh như con tàu ma.

Không rơ ông phụ lái thuyết phục thế nào mà hầu hết mọi người nhất là mấy bà yêu cầu tôi quay mũi ghe đi Phi Luật Tân. Tôi giải thích rằng ḿnh đang gần Nam Dương, Mă Lai, Singapore, ghe hiện trên hải đạo quốc tế có nhiều tàu bè qua lại, hy vọng chúng ta sẽ được cứu vớt, c̣n đi Phi Luật Tân th́ rất xa mà ghe ḿnh chỉ có chiếc buồm con lại thiếu lương thực và nước uống. Tôi đề nghị là nếu qua hai ngày mà không có tàu cứu sẽ quyết định sau. Mọi người đồng ư, nhưng chỉ sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ họ lại nghe ông phụ lái yêu cầu tôi phải đi Phi Luật Tân lập tức. Tôi thật nản, định buông xuôi, nhưng trên bầu trời bỗng xuất hiện một chiếc máy bay cánh quạt của US NAVY bay thật thấp gần ghe chúng tôi. Mọi người la hét kêu cứu, nhưng máy bay tiếp tục bay thẳng vào Mă Lai. Thật ra th́ người trên máy bay đă thấy chúng tôi và họ cũng đă liên lạc với tàu trong khu vực đến cứu chúng tôi.

Lúc đó th́ không xa chúng tôi có hai chiếc tàu; Chiếc thương thuyền chạy thật nhanh th́ xa hơn , c̣n chiếc tàu gần th́ chạy thật chậm. Trời lúc đó mưa lất phất, trần mây th́ thấp và u ám. Lợi dụng lúc mặt trời vừa thoát ra khỏi cụm mây, tôi dùng đáy của hộp bánh sơn màu trắng inox lắc lắc như đánh đèn hiệu về hướng chiếc tàu chạy gần và liền đó chiếc nầy chuyển hướng đi về phía chúng tôi. Khoảng nửa tiếng sau th́ chiếc CHINON tàu dầu của hăng BP ( British Pétroleum ) chỉ c̣n cách ghe tôi vài chục mét. Họ ném dây xuống cho chúng tôi. Vài cậu trai trẻ nhảy ùm xuống biển để vớt dây. Tôi lo lắng v́ sợ họ bị cá mập tấn công, nhưng may thay có một đàn cá heo vài chục con nổi lên nhào lộn gần mấy cậu đă cất đi niềm lo của tôi, v́ thường đâu có cá heo là không có cá mập.

Khi ghe tôi đă áp vào tàu lớn th́ họ thả thang dây xuống để chúng tôi leo lên tàu. Tôi là người sau cùng đặt chân lên tàu và được yêu cầu lên gặp ngay vị Thuyền Trưởng. Ông cho biết là chính phủ ông không thuận để cứu ghe vượt biển, nhưng v́ lư do nhân đạo mà ông đă linh động, do đó yêu cầu tôi phải đánh đắm chiếc ghe, ông cũng ngỏ ư xin cái hải bàn và tấm hải đồ để làm kỷ niệm.

Tôi cho thi hành mọi việc, đồng thời dặn ḍ mọi người nên giữ tư cách, kỹ luật và tuyệt đối tôn trọng về an ninh pḥng hỏa hoạn cho chiếc tàu dầu. Có lẽ do vui mừng v́ sắp được bến bờ, nên mọi người đă răm rắp nghe tôi và lấy được cảm t́nh của thủy thủ đoàn của chiếc tàu dầu. Lúc đầu họ nấu thức ăn rồi đem ra boong tàu phát cho chúng tôi. Sau thấy chúng tôi không tệ nên đến giờ ăn th́ chúng tôi cũng được vào pḥng ăn chung với họ. V́ quá mừng, khi leo thang lên tàu, một số người tỵ nạn đă vứt cả giày, dép nên ông Thuyền Trưởng đă ra lệnh cho thợ mộc trên tàu cưa ván ép, đóng cho những người nầy những đôi guốc đi lốc cốc trên tàu trông thật ngộ nghĩnh; ngoài ra ông c̣n cho tổ chức văn nghệ, ca múa để mọi người giải trí.

Tối hôm đó tôi được viên Sĩ Quan đi phiên mời lên pḥng lái. Tàu dầu dài hơn ba trăm mét, trọng tải vài trăm ngàn tấn, nhưng thủy thủ đoàn chỉ ba mươi hai người và ngoài giờ hành chánh, để đi quart trên đài chỉ huy chỉ có hai người và dưới pḥng máy một người. Ông SQ trưởng phiên cho người phụ tá đi lấy một chai rượu chát và rót mời tôi một ly. Khi nghe tôi tŕnh bày, ông rất chú ư lắng nghe và cho biết là nếu ghe tôi phải quay về Phi Luật Tân th́ có thể sẽ gặp hai cơn băo nhiệt đới. Ông c̣n cho biết là khoảng thời gian nầy năm trước, tàu ông có cứu một ghe vượt biển gần ba mươi người, nhưng khi lên tàu họ phá phách quá và c̣n cắp vặt. Rút kinh nghiệm lần trước, ngoài ra v́ chính phủ Pháp không cho phép nên ông Thuyền Trưởng đă nói với thủy thủ đoàn là ghe tôi chắc đă chết hết rồi. Măi đến khi thấy vài ánh chớp, tức c̣n người sống, thủy thủ đoàn nài nỉ quá nên ông phải chiều theo và cứu chúng tôi. Đang nói chuyện với nhau, th́ có âm thanh và đèn hiệu báo động, ông SQ.TP giải thích là có chướng ngại vật trên hướng đi của tàu, tuy nhiên tàu sẽ tự động giải quyết mà không cần đến sự can thiệp của ông. Làm việc trên con tàu tối tân sướng thiệt.

Sau hơn một ngày th́ chiếc CHINON đến Singapore. Cơ quan tỵ nạn LHQ ở nước nầy cho một chiếc tàu nhỏ ra đón chúng tôi, thủy thủ đoàn của chiếc tàu dầu thật tử tế, họ quyên tiền tặng chúng tôi, nhưng tôi đại diện cám ơn rằng các ông đă cứu mạng chúng tôi, điều đó thật cao quư và xin khước từ số tiền, ngoài ra khi tiễn chúng tôi, thủy thủ đoàn chiếc tàu CHINON có nhiều người đă rơm rớm nước mắt.

Bà Mười - Vợ của DS La Thành Nghệ, đại diện HCR thật ân cần thăm hỏi chúng tôi và đưa thẳng chúng tôi vào trại tỵ nạn Sembawang - Singapore. Trại trước kia là khu gia binh của các Sĩ Quan người Anh, thật khang trang, sạch sẽ. Trại không có các ṿng rào kẽm gai, không có gác sách. Những người làm việc cho HCR th́ thật lịch sự và tử tế. Tuy chúng tôi chỉ ở trại ba tháng, nhưng họ cũng tổ chức dạy cơ bản về tiếng Anh, tiếng Pháp cho người tỵ nạn, chăm sóc tốt sức khỏe và mỗi tuần phát cho chúng tôi mỗi người mười đô la Singapore tức năm dollars Mỹ để sống và cuối tuần chúng tôi c̣n được phép đi phố chơi. Những người vượt biển hầu hết đều có mang theo tiền bạc và nữ trang, giá sinh hoạt ở Singapore cũng không đắt đỏ lắm, nên tha hồ mua sắm. Phần tôi không có xu teng nào, nhưng nhờ được cấp mười đô la mỗi tuần nên cũng thong dong. C̣n cậu em vợ theo mấy cậu trai khác lén ra phố khuân vác lặt vặt cũng kiếm được chút đỉnh để mua sắm. Người Singapore thật văn minh, lịch sự và tử tế… hàng tuần họ c̣n chở thịt cá, rau cải vào giúp cho chúng tôi. Công tâm mà nói th́ Singapore quả là thiên đường của người tỵ nạn.

Những người cùng trên chiếc ghe tôi tỵ nạn ở Singapore, trừ những ai được thân nhân ở Mỹ, Canada, Úc bảo lănh, số c̣n lại vài người v́ do tàu Pháp vớt, nên được đi định cư ở Pháp.

Phần tôi, do trước kia đă cứu mạng ba quân nhân Mỹ và được thưởng huy chương Hải Quân Mỹ, nên tôi được xếp loại ưu tiên đi Hoa Kỳ, nhưng cay cú về việc người Mỹ đă vô nhân đạo trước nỗi hiểm nguy của thủy thủ đoàn chiếc HQ 10 đào thoát trong trận hải chiến Hoàng Sa chống Trung Cộng xâm lược năm 1974, trong đó có bạn tôi là HP chiếc HQ10, ngoài ra " nực " về việc Mỹ đă phản bội VNCH, nên tôi đă khước từ đi Mỹ.

Tháng 11. 1983, tôi sang Pháp định cư đúng vào thời mà Đảng Cộng Sản Pháp cực thịnh, nên không được thuận lợi và tôi đă phải vô cùng khó khăn, vất vả để thích nghi với cuộc sống mới.

Tôi sinh ra đă sớm nếm mùi tân khổ, cuộc đời lại trải qua không ít nghịch cảnh, ngoài ra c̣n biết thế nào là địa ngục trần gian ở các trại tù VC; chính những kinh nghiệm quư báu đó đă giúp tôi vượt qua tất cả mọi khó khăn. Rồi nhờ ơn trên, sớm ngộ được thiền mà tôi có được cuộc sống thong dong, thanh thản. Hiện tôi có sức khỏe tốt, vật chất đủ, nhiều tự do, so với hàng triệu người trên thế giới, tôi thật may mắn.

Ơn đời thật chứa chan, xin cám ơn Cha- Mẹ và những người đă giúp tôi có cuộc sống hôm nay./.

nhân mùa lễ tạ ơn

Trần Kim Diệp K 17 HQ

wonderful 11-13-2019 10:10

1 Attachment(s)
Chiều buồn nghiă trang.

Nghiêm chào mày, hăy an ḷng yên nghỉ
Đảng quỷ này đă đến lúc diệt vong
Phất Cờ Vàng ... Ta lấy lại Non Sông
Xuân "Mă Đáo Thành Công" tiêu lũ cộng.



wonderful 11-13-2019 10:18

1 Attachment(s)



Lửa chiến chinh từ lâu đă lịm tắt
Kỷ niệm buồn vẫn ẩn hiện trong ḷng....tôi .

wonderful 11-13-2019 10:31

1 Attachment(s)
Kỷ Niệm thôi ! HoangLan ôi..

Tháng ngày khói lửa đă tan rồi
Nhịp bước oai hùng cũng xa trôi
Người nuốt uất nghẹn đời viễn xứ
Kẻ lết bên đường bụi mặn môi
Bao thằng c̣n lại mồ huyệt lạnh
Tháng Tư Găy Súng, xót xa ... Ôi !
Nón sắt, giày saut, đường binh lửa
T́m trang kư ức ... kỷ niệm thôi !



hoanglan22 11-13-2019 14:33

Quote:

Originally Posted by wonderful (Post 3777040)
Kỷ Niệm thôi ! HoangLan ôi..

Tháng ngày khói lửa đă tan rồi
Nhịp bước oai hùng cũng xa trôi
Người nuốt uất nghẹn đời viễn xứ
Kẻ lết bên đường bụi mặn môi
Bao thằng c̣n lại mồ huyệt lạnh
Tháng Tư Găy Súng, xót xa ... Ôi !
Nón sắt, giày saut, đường binh lửa
T́m trang kư ức ... kỷ niệm thôi !



Bác WD ơi !! người ta nói đúng khi tuổi già đến thường hay lục lại kư ức .
Có nhiều khi ngồi một ḿnh bên ly cà phê nh́n đồi núi ( CALI ) ḷng bâng khuâng tự nhiên nhớ lại những cảnh cũ mà một thời đă qua ... người c̣n người mất . Một cuộc chiến thương đau

hoanglan22 11-19-2019 14:37

HÀNH QUÂN TRỰC THĂNG VẬN
 
2 Attachment(s)


Trực Thăng UH là loại máy bay được liên kết mật
thiết nhất với các đơn vị Bộ Binh của QLVNCH.
Sau khi tổng thống
Lyndon Johnson
tuyên bố gia tăng
cuộc chiến chống
cộng sản ở vùng
Đông Nam Á bắt
đầu. Năm 1964 Ông
đă quyết định đưa quân đội Hoa Kỳ ồ ạt vào miền
Nam Việt Nam, quân số đang từ 16,000 cố vấn quân
sự năm 1963, đă tăng lên 525,000 quân tham chiến
năm 1967.
Khi chính phủ Mỹ quyết định đổ quân vào Việt Nam
th́ họ cũng đồng loạt đem theo vũ khí, quân trang,
quân dụng vào miền Nam, rồi xây cất rất nhiều phi
trường và các căn cứ quân sự dưới vĩ tuyến 17, và
trên toàn cơi miền Nam Việt Nam.
Đặc biệt Hoa Kỳ đă đưa một số lượng khổng lồ máy
bay trực thăng 12,000 chiếc sang phục vụ cho chiến
trường Việt Nam, chưa kể các trực thăng thuộc khối
dân chính quốc pḥng như: AIR AMERICA,
USOM, USAIDS và của các hăng thầu xây cất như
PACIFIC & RMK-BRJ..v.v.. Nhiều nhất là UH-1H.
Trực thăng UH Huey Bell Iroquois là loại máy bay
tham gia nhiều nhất trên chiến trường Việt Nam,
phải kể đến: UH-1A, 1B, 1C, 1D & đa số là UH-1H,
động cơ Lycoming T53, 1400HP do công ty Bell
Iroquois Helicopter sản xuất.
Trước khi Mỹ đem UH-1 vào Việt Nam, th́ họ đă
viện trợ cho KQVNCH loại trực thăng có trọng tải
nhẹ, như: H19 & H34 động cơ nổ, bay chậm, chở
được rất ít hành khách và quân dụng.
Sau đó Mỹ đem trực thăng CH21 (H-21 "Flying
Bannana, kiểu trái chuối 2 chong chóng) của US
Army vào VN. Họ xử dụng H21 bốc và đổ quân trên
chiến trường miền Nam. Nhưng loại CH21 này
không hữu dụng v́ nó khó khăn trong công tác bảo
tŕ và cồng kềnh, lại bay chậm nữa, tốc độ 127mp/h,
dễ làm mồi cho VC, mục tiêu để pḥng không bắn
hạ, nên CH21 sớm bị khai tử tại VN sau năm 1963.
Kế đến, US Army thay thế bằng loại trực thăng UH1A. Model này chỉ có 2 cánh cửa cargo, kéo hai bên
(2 sliding doors), và modified thành trực thăng vơ
trang (Gunships) UH-1B, dùng để hộ tống hợp đoàn
đổ quân. Về sau chỉ c̣n US Navy Seawolves vẫn sử
dụng loại Gunships này.
Chiến tranh ngày càng leo thang. Quân đội Mỹ cho
nhập vào VN loại trực thăng UH-1H, OH-6A cán gáo
và Gunships Cobra để escort hợp đoàn slicks UH-1H
đổ quân trên chiến trường miền Nam.
UH-1H có trọng tải nhiều hơn, khoang hành khách
rộng, có thể chở được 10 quân nhân lực lưỡng bộ
binh Hoa Kỳ với vũ khí và quân trang cá nhân mang
theo khi đi hành quân. UH-1H có tốc độ
Max.140mp/h tương đương với 210km/h.
Đối với binh sĩ VNCH, UH-1H có thể chở được trên
1 tiểu đội (12 chiến sĩ).
Lính VNCH nhỏ con hơn lính Mỹ, nên đôi khi phi
hành đoàn VNAF du di, chở tới 16 binh sĩ mà vẫn
dưới 50 Torque. Trọng tải của UH-1H, 50 Torque
Power là Max cất cánh an toàn. Trên 50 Torque th́
quá tải (Overloaded). V́ thế khi hợp đoàn bay đi bốc
quân bạn. Mỗi lift
gồm 5 phi cơ slicks
UH-1H, có thể chuyên
chở được trên 60 tới
65 binh sĩ BB với vũ
khí cá nhân trang bị
đầy đủ.
HỢP ĐOÀN TRỰC THĂNG VẬN CỦA VNAF
Bay Hành Quân. (Helicopter Combat Team) gồm:
-1 Phi cơ chỉ huy C&C (Commander & Controller)
-3 Trực Thăng Vơ Trang (Gunships Escort)
(2 gunships escort + 1 spare gunship, ground alert)
-5 Trực thăng chở quân (Slicks)

-Phi cơ C&C hướng dẫn và chỉ huy cuộc đổ quân.
Trưởng Phi Cơ (TPC) bay C&C thường là cấp Th/tá trở
lên, sẽ chỉ huy toàn bộ hợp đoàn trực thăng vận đổ quân.
Phi cơ C&C chở theo Chỉ Huy Trưởng Bộ Binh và BCH
hành quân (c̣n gọi là Back Seaters)ᴧᴧᴧᴧ
-3 Trực thăng vơ trang (UH-1H GUNSHIPS MODIFIED)
bay hộ tống hợp đoàn đổ quân và yểm trợ quân bạn.
Trưởng Phi cơ bay Leader Gunships là những phi công
lăo luyện, có khả năng bay dẫn đạo từ 2 phi cơ trở lên và
chỉ huy những phi cơ vơ trang bay theo (wing friends),
Gunships Leader đă từng bay các phi vụ trực thăng vơ
trang yểm trợ hành quân, đánh phá các mục tiêu và giải
toả áp lực địch quân
-5 Trực thăng bốc và đổ quân (slicks). Trường Phi Cơ
(Formation’s Leader) bay dẫn đầu hợp đoàn, thường là vị
Phi Đội Trưởng, dầy dạn kinh nghiệm chiến trường và đủ
khả năng bay dẫn đạo hợp đoàn. Ứng biến, xử lư và ra
lệnh khẩn cấp, khi bất kỳ phi cơ nào trong hợp đoàn, gặp
hữu sự. Hay phân công ngay, các phi vụ lệnh khẩn cấp.
ĐỘI H̀NH BAY HỢP ĐOÀN ĐỔ QUÂN:
Leader of Formation là chiếc phi cơ bay
đầu, dẫn hợp đoàn. TPC chiếc Leader
thường là cấp bậc Đại Úy hay Tr/úy kỳ
cựu. Leader có nhiệm vụ liên lạc trực tiếp
và nghe lệnh từ C&C, nhận lệnh từ C&C
và bay theo hướng dẫn của Gunships
Leader khi vào băi đáp.
-Nếu hợp đoàn ít phi cơ, bay 3 chiếc, th́
chiếc Leader bay trước dẫn đầu, chiếc số 2
bay bên phải, chiếc số 3 bay bên trái theo
đội h́nh chữ ᴧ ngược.
-Nếu hợp đoàn 4 phi cơ: Sẽ bay theo đội
h́nh Diamond. Chiếc Leader bay dẫn đầu,
số 2 bên phải, bay kè theo, song song ở 45
độ chéo góc phía sau. Chiếc số 3 bên trái
bay theo chiếc Leader và ở 45 độ. Chiếc số 4
bay sau cùng ở chính giữa của chiếc số 2 và
3 bay theo leader.
-Nếu hợp đoàn gồm 5 máy bay, th́ hợp đoàn
sẽ bay theo đội h́nh mũi tên, chữ ᴧ ngược
Phi cơ số 5 của hợp đoàn, c̣n gọi là chiếc Trailer’
TPC bay chiếc Trail số 5 thường là vị Phi Đội Phó hay là
một Phi Công lăo luyện, cũng có khả năng bay Leader.
Chiếc số 5 có nhiệm vụ, nhắc lại lệnh của Formation’s
Leader cho cả hợp đoàn cùng nghe rơ. Theo dơi và kiểm
soát các phi cơ khi bay trong độị h́nh (formation).
Formation’s Trailer luôn luôn báo cáo với Leader khi bốc
và đổ quân bạn xong, cất cánh và dời băi đáp.
Thí dụ: Leader! Leader! Đây Trailer gọi. Hợp đoàn đă đổ
quân xong cất cánh...vv.. Hoặc Leader! Đây Trailer: Hợp
đoàn cất cánh an toàn!!! vv..v.. Trường hợp v́ nhu cầu
khẩn cấp ngay tại chiến trường như: C&C yêu cầu bốc
thương binh hay tiếp tế thêm vũ khí, th́ chiếc Trailer sẽ
phải break ra khỏi hợp đoàn, thi hành ngay các phi vụ này
Với những cuộc hành
quân cấp tiểu đoàn, th́
hợp đoàn trực thăng 5
phi cơ slicks UH-1H
có thể bốc và đổ quân
5 lifts trong ṿng hơn
1 tiếng đồng hồ thần tốc, là đủ cung ứng quân số cho
trên chiến trường.
Mỗi UH-1H chở được một tiểu đội binh sĩ. Một lift
đổ quân với 5 slicks UH-1H (5PC x 12QN = 60 chiến
binh). 5 lifts x 60QN sẽ đổ xuống chiến trường trên
300 binh sĩ.
PHI VỤ LỆNH HÀNH QUÂN
Tối hôm trước khi bay hành quân. Trưởng Pḥng Hành
Quân và Phi Đội Trưởng sẽ cắt bay, phân nhiệm vụ cho
các Phi Hành Đoàn (PHĐ) và thành viên PHĐ trong phi
đội dưới quyền, gồm:
-1 PHĐ bay C&C (4 nhân viên phi hành)
-3 PHĐ bay Guships (12 nhân viên phi hành)
-5 PHĐ bay slicks bốc quân (20 nhân viên phi hành)
Mỗi khi có lệnh hành quân, th́ phi cơ C&C và 3 Gunships
sẽ cùng bay lên vùng trước. TOT đúng giờ hẹn.
C&C đến Bộ Chỉ Huy quân bạn BB, bốc Back Seaters, rồi
chở đến Phi trường hay căn cứ gần nhất để họp bàn mật
lệnh về tham mưu hành quân.
Sau đó cuộc đổ quân bắt đầu. C& C và hai gunships
escort bay lên vùng hành quân dọn băi đáp (Clear LZ) cho
hợp đoàn đổ quân.
Khi đến mục tiêu, C&C bay ở cao độ 1500 mét để quan
sát và chỉ huy. Xác định mục tiêu, phóng một quả khói
xuống vị trí tác xạ. Hai 2 gunships theo lệnh của C&C
nhào xuống đánh phá mục tiêu ngay tức khắc, dọn băi đáp
để cho hợp đoàn slicks bay đến đổ quân ngay.
Khi nào gunships dọn băi xong, cảm thấy an toàn th́ báo
cho C&C ra lệnh cho hợp đoàn đổ quân bay đến.
Khi hợp đoàn đổ quân, bay gần tới mục tiêu chiến trường
(Short final approach) khoảng 1 mile, th́ 2 gunships bay
ra đón, hộ tống 2 bên hợp đoàn, bắn yểm trợ, bảo vệ hợp
đoàn khi đáp. Hợp đoàn chạm càng, thả quân xuống đất,
th́ 2 gunships sẽ bắn ṿng quanh bao vây băi đáp, để bảo
vệ hợp đoàn. Khi nào nghe Formation’s Leader báo cáo
đổ quân xong, cất cánh, th́ 2 gunships sẽ bay ở phía sau
hợp đoàn, hộ tống hợp đoàn dời băi đáp, lấy cao độ, bay
về căn cứ, bốc quân những lifts kế tiếp. Và cứ tuần tự như
vậy, cho đến lúc đổ đủ quân số xuống chiến trường theo
yêu cầu.
Sau khi đổ hết quân xuống chiến trường, hợp đoàn slicks
sẽ về phi trường (refill) đổ xăng trước, rồi load thêm quân
dụng và vũ khí, sẵn sàng tiếp tế cho quân bạn.
C&C và Gunships ở lại yểm trợ quân bạn dưới đất, tiến
chiếm mục tiêu cho đến khi gần cạn xăng th́ về phi
trường refill.
Khi Gunships, C&C và Back Seaters về phi trường đổ
xăng, nghỉ ăn trưa, load thêm Rockets và đạn dược, sau đó
tiếp tục hỗ trợ hợp đoàn slicks bay lên tiếp tế cho chiến
trường. Nếu chiến trường quá sôi động, trong khi hợp
đoàn trực thăng nghỉ ăn trưa, sẽ có phi, pháo lên yểm trợ.
Trước nhất là pháo binh sẽ nă pháo để mở đường tiến
quân. Phi cơ quan sát L19 và khu trục lên vùng tiếp viện,
cùng với xe tăng thiết giáp (nếu có) sẽ mở đường dẫn
trước đoàn quân. Nếu cần tiếp tế thêm, th́ sau khi các
PHĐ trực thăng dùng cơm trưa xong, sẽ lên vùng ngay.
Cuộc đổ quân trong ngày. Khi chiến trường đă b́nh định,
yên tĩnh, buổi chiều hợp đoàn trực thăng vận sẽ bay ra
chiến trường bốc hết quân bạn về lại căn cứ, nơi phát xuất.
Nếu chiến trường c̣n tiếp tực sôi động, màn đêm buông
xuống, th́ phi cơ AC47 Hỏa Long & AC119 Hắc Long sẽ
lên vùng tiếp viện, thả hoả châu, tác xạ yểm trợ cho quân
bạn đến sáng, sẽ có L19 và các phi tuần khu trục vùng lên
phản công tiếp viện. Trực thăng vận chỉ đổ quân ban ngày.
Sau khi chiến trường đă giải tỏa, phi vụ trong ngày hoàn
tất. Hợp đoàn trực thăng và Gunships bay về phi trường tổ
ấm. C&C thả Back Seaters về căn cứ BB, rồi cũng bay
theo hợp đoàn về nhà. Tất cả các phi cơ của họp đoàn
hành quân, khi về tới phi trường phải ghé POL đổ xăng
đầy b́nh, bay về Ụ Parking, rồi vô pḥng hành quân ghi
báo cáo, chấm dứt phi vụ.
Ngày hôm sau được nghỉ ngơi hay trực bay phụ.
TRỰC THĂNG BAY TIẾP

nhào xuống đánh phá mục tiêu ngay tức khắc, dọn băi đáp
để cho hợp đoàn slicks bay đến đổ quân ngay.
Khi nào gunships dọn băi xong, cảm thấy an toàn th́ báo
cho C&C ra lệnh cho hợp đoàn đổ quân bay đến.
Khi hợp đoàn đổ quân, bay gần tới mục tiêu chiến trường
(Short final approach) khoảng 1 mile, th́ 2 gunships bay
ra đón, hộ tống 2 bên hợp đoàn, bắn yểm trợ, bảo vệ hợp
đoàn khi đáp. Hợp đoàn chạm càng, thả quân xuống đất,
th́ 2 gunships sẽ bắn ṿng quanh bao vây băi đáp, để bảo
vệ hợp đoàn. Khi nào nghe Formation’s Leader báo cáo
đổ quân xong, cất cánh, th́ 2 gunships sẽ bay ở phía sau
hợp đoàn, hộ tống hợp đoàn dời băi đáp, lấy cao độ, bay
về căn cứ, bốc quân những lifts kế tiếp. Và cứ tuần tự như
vậy, cho đến lúc đổ đủ quân số xuống chiến trường theo
yêu cầu.
Sau khi đổ hết quân xuống chiến trường, hợp đoàn slicks
sẽ về phi trường (refill) đổ xăng trước, rồi load thêm quân
dụng và vũ khí, sẵn sàng tiếp tế cho quân bạn.
C&C và Gunships ở lại yểm trợ quân bạn dưới đất, tiến
chiếm mục tiêu cho đến khi gần cạn xăng th́ về phi
trường refill.
Khi Gunships, C&C và Back Seaters về phi trường đổ
xăng, nghỉ ăn trưa, load thêm Rockets và đạn dược, sau đó
tiếp tục hỗ trợ hợp đoàn slicks bay lên tiếp tế cho chiến
trường. Nếu chiến trường quá sôi động, trong khi hợp
đoàn trực thăng nghỉ ăn trưa, sẽ có phi, pháo lên yểm trợ.
Trước nhất là pháo binh sẽ nă pháo để mở đường tiến
quân. Phi cơ quan sát L19 và khu trục lên vùng tiếp viện,
cùng với xe tăng thiết giáp (nếu có) sẽ mở đường dẫn
trước đoàn quân. Nếu cần tiếp tế thêm, th́ sau khi các
PHĐ trực thăng dùng cơm trưa xong, sẽ lên vùng ngay.
Cuộc đổ quân trong ngày. Khi chiến trường đă b́nh định,
yên tĩnh, buổi chiều hợp đoàn trực thăng vận sẽ bay ra
chiến trường bốc hết quân bạn về lại căn cứ, nơi phát xuất.
Nếu chiến trường c̣n tiếp tực sôi động, màn đêm buông
xuống, th́ phi cơ AC47 Hỏa Long & AC119 Hắc Long sẽ
lên vùng tiếp viện, thả hoả châu, tác xạ yểm trợ cho quân
bạn đến sáng, sẽ có L19 và các phi tuần khu trục vùng lên
phản công tiếp viện. Trực thăng vận chỉ đổ quân ban ngày.
Sau khi chiến trường đă giải tỏa, phi vụ trong ngày hoàn
tất. Hợp đoàn trực thăng và Gunships bay về phi trường tổ
ấm. C&C thả Back Seaters về căn cứ BB, rồi cũng bay
theo hợp đoàn về nhà. Tất cả các phi cơ của họp đoàn
hành quân, khi về tới phi trường phải ghé POL đổ xăng
đầy b́nh, bay về Ụ Parking, rồi vô pḥng hành quân ghi
báo cáo, chấm dứt phi vụ.
Ngày hôm sau được nghỉ ngơi hay trực bay phụ.
TRỰC THĂNG BAY TIẾP TẾ & LIÊN LẠC
UH-1H = Utility Helicopter là loại trực thăng đa dụng, có
thể sử dụng trong nhiều lănh vực và các công tác, như:
Chuyên chở VIP và hành khách -Vận chuyển quân đội -
Chuyên chở hàng hóa -Tiếp tế tiếp liệu -Câu móc quân
dụng -Liên lạc -Thám sát -Vơ trang yểm trợ quân bạn -
Giải tỏa đồn bót đang bị bao vây.
Thường thường các phi vụ liên lạc do các Sư Đoàn hay
các Tiểu Khu xin (Request). Mỗi nơi có thể xin 1 hay 2
phi cơ, cho các cấp chi huy đi thị sát, đi công tác hay chở
vũ khí hàng hóa tiếp liệu trong khu vực trách nhiệm.
TRỰC THĂNG UH-1H BAY TẢN THƯƠNG
Mỗi Sư Đoàn KQ có 2 phi đội UH-1H trực bay Rescue và
Tản Thương trong vùng trách nhiệm của quân khu.
SĐ4KQ có hai phi đội tản thương “Hồng Điểu 259H & I”
Call sign Hồng Điểu = Chim Hồng Thập Tự
Mỗi ngày hai phi đội tản thương của SĐ4KQ có: 4 phi cơ
UH-1H trực bay tản thương: 1 Chiếc Rescue Alpha
(ground Alert) (Call sign Kim Cương KC)
-1 phi cơ tản thương KC Charlie bao vùng từ bờ bắc sông
Hậu lên tới ranh giới tỉnh Long An.
-1 phi cơ tản thương KC Delta bao vùng từ bờ Nam sông
Hậu xuống tận mũi Cà Mau.
-1 phi cơ tản thương KC Echo bao vùng cho Biệt Khu 44
gồm: Mộc Hóa, Cao Lănh, Châu Đốc, Hà Tiên, đảo Phú
Quốc và cả chiến trường Campuchia khi QĐ/VNCH sang
giúp nước bạn.
SĐ4KQ có 5 phi đoàn trực thăng vận. Khi bay hợp đoàn
hành quân, họ bắt buộc phải dùng các danh hiệu riêng cho
từng phi đoàn và từng loại máy bay, do Pḥng Hành Quân
Chiến Cuộc SĐ4KQ cung cấp. Do đó các hiệp sĩ
VNAF/SĐ4KQ khi đang bay trên không, cưỡi gió, đạp
mây, mà nghe Danh Hiệu gọi, liên lạc với đài Radar
Paddy, họ biết ngay là phi cơ loại nào? Của phi đoàn nào?
Bay đi hướng nào rồi:
Danh hiệu các loại Phi Cơ của SĐ4KQ, khi bay Hành
Quân, liên lạc với Radar Paddy:
-L19 máy bay quan sát = Danh hiệu: Sơn Ca, Họa Mi
-A37 khu trục phản lực = Danh hiệu: Thần Hổ, Thần Báo
-AC47 = Hỏa Long
-AC 119 = Hắc Long & Tinh Long
-Phi đoàn 249 trực thăng Chinook CH47= Đại Bàng
-Trực thăng bay biệt phái danh hiệu là Kim Cương (KC)
-Các Phi Đoàn Trực Thăng Vận khi đi bay đổ quân:
-Phi đoàn 211 = Hắc Mă
-Phi đoàn 217 = Bạch Mă
-Phi đoàn 225 = Hồng Mă
-Phi đoàn 227 = Phi Mă
-Phi đoàn 255 = Hải Mă
Phi Cơ Trực Thăng Rescue = Kim Cương Alpha
Trực Thăng dành cho Tướng Vùng = Kim Cương Bravo
Trực Thăng dành cho Tư Lệnh SĐ4KQ = Mékong I
Những danh hiệu trên chỉ dùng để liên lạc, gọi đài Radar
Paddy mà thôi. C̣n các phi đoàn vẫn có các danh hiệu sử
dụng trên giấy tờ hành chánh và show off hàng ngày như:
-Phi đoàn 211 Thần Chùy – Gunships Sét Thần
-Phi đoàn 217 Thần Điểu – Gunships Hỏa Điểu
-Phi Đoàn 225 Ác Điểu – Gunships Diều Hâu
-Phi Đoàn 227 Hải Âu – Gunships Ó Biển
-Phi Đoàn 255 Xà Vương – Gunships Măng Xà
-Phi đoàn 249 Chinook CH47 Mănh Long
Xin nói sơ qua về Trực Thăng Vận của US Army.
Trước khi bàn giao các phi đoàn trực thăng UH-1H cho
Không Quân VNCH, th́ quân đội Mỹ hoàn toàn nhận
trách nhiệm bốc và đổ quân trên chiến trường. Huấn luyện
các phi công trực thăng KQ/VNCH bay hành quân.
Chúng ta biết Mỹ là quốc gia nhà giàu đi đánh giặc, nên
lực lượng vơ trang của họ rất hùng hậu.
Trước khi đổ quân Bộ Binh bằng trực thăng vận, th́ họ
cho Pháo Binh, Khu Trục Cơ và xe Tăng vào quần nát
mục tiêu chiến trường, rồi mới đổ quân. Hơn nữa hợp
đoàn trực thăng vận của US Army bay rất hùng hậu.
US Army Combat Team gồm:
-1 Heli. C&C Command & Control hỗn hợp Việt Mỹ
-1 Hel. OH-6A và 1 Hel. LOH -58 thám sát và quan sát
-2 Cobra (AH-1G Gunships)
-5 Hel. Slicks Trực thăng vận đổ quân
-1 Hel. UH-1 nữa, sẽ bay ṿng quanh băi đáp thả khói,
tung hỏa mù, bao che hợp đoàn đồ quân.
Sau khi Phi, Pháo và xe Tăng quần nát băi đáp nơi chiến
trường, rồi mới tới Trực Thăng C&C và Bộ Chỉ Huy BB
lên vùng hành quân, dẫn theo:
-1 Trực thăng cán gáo OH-6A bay sát mặt đất ḍ t́m địch
-1 trực thăng loại nhỏ LOH 58 mũi nhọn bay lưng chừng
phía sau, theo dơi hợp đoàn và chiếc OH6.
-LOH58 luôn bay cặp kè với 2 chiếc Cobra.
-2 Trực Thăng gunships Cobra bay ở cao độ 300 mét, tác
xạ dọn băi đáp với OH6 + LOH58 và hộ tống đoàn slicks.
Lư do: Cobra phải bay cao v́ các súng gắn cố định.
Không moving súng được như Gunships của VNAF do
các xạ thủ xử dụng quơ qua, quơ lại uyển chuyển khi tác
xạ. Cobra có hỏa lục rất mạnh. Một chiếc Cobra được gắn:
-1 cây Canon 20mm
-1 cây Minigun 6 ṇng
-1 cây M79 bắn đạn nồi
-2 ống phóng Rockets. Mỗi ống loading 19 quả rockets
Do đó họ có dư vũ khí đạn dược, bao vùng thời gian lâu
-5 Slicks bốc quân. Mỗi Slick 2 cây đại liên M60.
US Army luôn luôn hành quân theo sách vở huấn luyện,
nên khi ra chiến trường, họ đổ quân chậm hơn VNAF.
Combat Team của họ dọn băi đáp rất cẩn thận và tốn thời
gian. Slicks bốc quân th́ phải cất cánh lấy cao độ đủ an
toàn, rồi hạ cánh phải từ từ, theo hướng dẫn của cặp Cobra
và LOH 58, đúng như sách vở chỉ dậy.
C̣n trực thăng vận VNAF nhà nghèo, đánh nhanh và rút
gọn. Nếu hành quân ở vùng đồng bằng, hợp đoàn VNAF
khi bốc và đổ quân không cần cất cánh lấy cao độ, mà chỉ
bay Low Level, rồi đáp nhanh. Như vậy sẽ an toàn hơn
bay cao, tránh bị pḥng không VC bắn hạ.

VNAF COMBAT TEAM: C&C bay cao, hướng dẫn hợp
đoàn bay đúng hướng đến đến target và về. Hai Gunships
hộ tống bay kè hai bên hợp đoàn slicks, dẫn hợp đoàn đáp
và rời băi, về bốc quân lift khác.
Cuộc hành quân hỗn hợp, chiến dịch “Long Knife” ở Mộc
Hoá năm 1971:
-US Army đổ quân cánh hướng Đông
-VNAF đổ quân cánh hướng Nam tiến lên
Hợp đoàn US Army, đổ được 1 lift quân, th́
Hợp đoàn VNAF đổ được 2 lifts quân
(vừa tiết kiệm xăng, vừa tiêt kiệm thời giờ, lại tiến nhanh)
Đánh gọn, đánh nhanh và rút mau là chiến thuật của phe
VNAF chúng ta. Chiến thuật này, đă được quân đoàn khen
thưởng. Ngoài ra dân VNAF c̣n tung ra chiến thuật
“ĐÁNH MẠNH THỌC SÂU” cũng rất hữu dụng
VNAF Miệt Dưới


hoanglan22 11-20-2019 14:22

Biệt Kích Dù
 
2 Attachment(s)
Người Tù Kiệt Xuất



Tôi đă nhiều lần định viết về những người tù kiệt xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa: những anh em Biệt Kích Dù, những người “từ trên trời rơi xuống,” nhưng tôi cứ lần lựa măi. Lười biếng th́ chỉ có một phần. Lư do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở trong một t́nh trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng quư vẫn c̣n liên lạc được với gia đ́nh. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn c̣n có chút âm hao để mà theo dơi. Những anh em Biệt Kích Dù th́ đúng là “thượng diệt, hạ tuyệt” - không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào được đăng kư, không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những con người ấy ở dưới tay.



Không được liên lạc với ai, coi như không c̣n hiện diện trên trái đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, những anh em Biệt Kích Dù đă tham dự một cuộc chiến tranh tối mật (secret war). Những người t́nh nguyện tham gia cuộc chiến này đă tự coi như ḿnh đă chết; nhảy xuống, t́m được địa bàn hoạt động, trà trộn được, ẩn dấu được là sống, là thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt, bị giết th́ “Anh tự lo liệu cho cái thân anh, không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay bảo trợ cho anh được”. Những người tù “đứt dây rơi xuống này không được hưởng chút quyền lợi nào từ quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao để can thiệp, v́ các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi được đăng kư hợp pháp ở một chính phủ nào.

Dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, (thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm), nghe nói đại tá Lê Quang Tung, em là thiếu tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan t́nh báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai cũng hiểu là phải có, nhưng cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan t́nh báo Ngũ Giác Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai dám biết. Nghe nói những người được tuyển chọn vào Biệt Kích Dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những người khả năng đặc biệt về nghiệp vụ như t́nh báo, truyền tin, phá hoại, trà trộn dưới đồng bằng, ẩn dấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối phương, với bệnh tật, với thiên nhiên, được trang bị thật kỹ từ A đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ c̣n phải là những người tuyệt đối tin tưởng vào quốc gia, vào lănh tụ. “Sống không rời nhiệm vụ, chết không bỏ lập trường” đó là vũ khí chung của anh em Biệt Kích.....

Như mọi người đă biết, cuộc chính biến 1 tháng 11 năm 1963 đă làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, anh em tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng hộ đến cùng anh em tổng thống Diệm là anh em đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu tất nhiên cũng bị triệt hạ theo. Các anh em Biệt Kích Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê Quang Tung-Lê Quang Triệu bị hạ sát, đă bị rơi vào t́nh trạng rắn mất đầu. Sự tan vỡ như thế là không tránh khỏi. Không biết có một sự kiện “vỡ kế hoạch” vô t́nh hay cố ư nào không, nhưng các anh em Biệt Kích Dù ra Bắc lần lượt bị phát giác, bị truy bức, bị giết và bị bắt.

Không ai biết rơ hay biết mà không ai dám nói ra, đă có bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng họ lập nên được những ǵ? Bao nhiêu người sống, bao nhiêu người chết? Chiến tranh tối mật nên những người thực hiện sống hay chết đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc chơi. Một cuộc chơi quyết liệt và tàn nhẫn. Có nhiều người cho rằng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, người có công nhất chưa chắc đă là viên thống soái chỉ huy ba quân tướng sĩ, mà người có công nhất có thể là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh lùng dưới biển cả. Thời gian cũng như ḷng người, đều vô t́nh như nhau. Nào ai c̣n nhớ trong biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc đầu thập niên 60 năm ấy, ai c̣n, ai mất?

o0o

Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi đến huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bắc. Đây là một trại tù “ẩn giấu”. Lũ tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành phần An ninh, Pḥng nh́, Trung ương t́nh báo, Chiến tranh chính trị, B́nh định nông thôn... thành phần mà “Cách mạng” cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây th́ chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu thập niên 60 đă nhảy dù ra Bắc.

Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mửi người một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: “Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh Phú xuống?” Chúng tôi gật đầu đồng ư. Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói: “Chúng em là Biệt Kích Dù đây”.

Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang chưa biết nói năng ǵ th́ một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa nghẹn ngào: “Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh trong t́nh cảnh này, đau đớn quá”.

Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi đă trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại “Mục xương” Cao Bằng hay trại Sơn La “âm u núi khuất trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, th́ có lẽ anh em Biệt Kích Dù vẫn c̣n quẩn quanh nơi rừng núi phía Bắc.

Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi “Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với ‘nhân dân’ nhiều nhất. Cũng v́ thế nên mới được gặp các anh hôm nay”. Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17 năm. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” chúng tôi đi cải tạo đă được 5 năm, đă thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù này th́ thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn c̣n liên lạc được với gia đ́nh, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh c̣n được người nhà từ trong Nam ra thăm nuôi nữa.

Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đă lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi đă có leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù th́ từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người, coi như những người “bị bỏ quên” trên hành tinh trái đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng c̣n thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em được về - nhưng... đó là “về với đất”.

KHẨU LỆNH BIỆT KÍCH DÙ

Phân trại K2 của chúng tôi nằm cách K1 nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở cách K2 chừng một giờ đi bộ c̣n có K3 - nơi giam tù h́nh sự dữ nhất: cướp của, giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1 khoảng 15 cây số. Ngày xưa, hồi kháng chiến chống Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa danh Hồi Xuân, La Hán ở trên rừng là đă rợn người. Nhưng mà đường đến Hồi Xuân-La Hán so với đường vào trại Thanh Phong th́ chưa đi đến đâu... Một người bạn có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ ôm chồng mà khóc. Người vợ đau khổ ấy không dám nói cho người chồng xấu số biết chị vừa trải qua những khốn khổ nào.

Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào đây chưa đầy 20 cây số mà 2 ngày mới đến, phải ngủ giữa rừng. Cái ǵ đă xảy ra cho người đàn bà miền Nam một nách trên 30 kư quà cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường băng rừng lội suối. Nếu đang đi mà trời mưa đổ xuống th́ là tai họa. Suối đang nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền Trung đất hẹp, rừng không giữ được nước, nên trời đổ mưa xuống là nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay ra biển. Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở đó làm ǵ có phương tiện sang sông nước đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau mà xuống cũng mau. Người đàn bà đi thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái cḥi vắng ven rừng. Đêm đến, những “con người thú” đă khai thác đến tận cùng thân xác và của cải người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng sâu. Sáng ra chị đă muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng v́ không muốn bỏ rơi mấy đứa con nhỏ c̣n ở lại Sài G̣n, nên chị mới lê tấm thân nhơ nhớp đến gặp chồng đang cải tạo. Quà cáp cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ chồng cứ ôm nhau mà khóc.

Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó trở thành một nửi âu lo âm ĩ trong đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó được thăm nuôi, được gặp vợ, gặp con. Nhưng nếu vợ con ḿnh, thân nhân của ḿnh phải hứng chịu những tai vạ đau thương nhường ấy để được thăm nuôi ḿnh th́ khốn nạn cho vợ con ḿnh quá. Nhưng lo th́ lo vậy, biết tính làm sao. Thân ḿnh c̣n chưa chắc là của ḿnh th́ c̣n lo cho ai được nữa.

Trước sự kiện mất an ninh, cướp bóc, hiếp đáp giữa đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ điều tra, sẽ trừng trị nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể. Anh em Biệt Kích Dù th́ ngược lại phản ứng tức thời. Đa số anh em Biệt Kích Dù ở đây là “diện rộng” tỏa ra đi lao động trên rừng. Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù nhưng trong thực tế, trại “nể” anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù v́ tác phong của họ, v́ sự trên dưới một ḷng của họ, nhưng lư do chính yếu nhất là v́ Biệt Kích Dù chính là cái “túi tiền” của ban Giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu c̣n chấm mút được ǵ. Nhưng v́ ở chốn rừng sâu, không ai léo hánh đến đây, nên trại dễ làm mưa làm gió.

Tục ngữ có câu “Nhất phá Sơn lâm, nh́ đâm Hà bá”. Chỉ cần có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này th́ không ai sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quư thiếu ǵ, lại c̣n có quế. Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông Phương. Bây giờ không c̣n bao nhiêu nhưng một tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn được lên rừng t́m quế cho trại trưởng Thùy “mồi”, nhưng bên ngoài gọi là đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi rừng lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng th́ ít mà lấy gử súc đem ra Thanh Hóa bán chui th́ nhiều.

Tôi được biết trại trưởng Thùy “mồi”, phân trại trưởng K2 Vũ B. ai cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mửi người một số danh mộc (như lim, như sến, cán bộ vừa vừa th́ có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở quê nhà. Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ tù “thượng thừa” của trại. Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ quan chỉ huy, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được gặp anh, nhưng tất cả anh em Biệt Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất cả ḷng kính mến. Rất ít người được gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, v́ anh không lao động, không đi ra ngoài. Tuy vậy, một mệnh lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong cảnh tù đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.

Phản ứng trước sự mất an ninh con đường từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một “dịch vụ chuyên chở” từ huyện lỵ đến trại Thanh Phong. Lúc ấy đang có phong trào “hạch toán kinh tế”. Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng 2 cái xe trâu, do trâu của trại kéo cùng với hai anh em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, một ra một vào, giúp cho thân nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải gồng gánh đi chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định. Hoặc có thể dùng xe trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này được chấp thuận và sau đó gia đ́nh cải tạo viên tới thăm nuôi có xe trâu chở hàng, chở người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt chẹt về giá cả gồng gánh - quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng được bảo vệ an toàn.

Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù “diện rộng” đi “rỉ tai” khắp các vùng thôn bản xa gần trong huyện Như Xuân “khẩu lệnh” của Biệt Kích Dù. Khẩu lệnh như sau: “Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào con nào động đến thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân thân, là Biệt Kích Dù nhất định không để yên. Luật của Biệt Kích Dù là “mất một đền mười”. Động đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt chân, chặt tay, nặng là giết mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không có ǵ để mất, đă nói là làm”.

Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đối...

GẶP NGƯỜI CHỈ HUY BIỆT KÍCH DÙ

Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không những giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an toàn thuận tiện, mà c̣n là một đường dây giúp chúng tôi liên lạc với “thế giới bên ngoài”? Muốn “bắn” một cái thư khẩn cấp về Sài G̣n, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo chí... cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều nào, vào khoảng ba, bốn giờ là xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán của đội mộc, đội rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đường. Biệt Kích Dù hầu như quen biết hết cán bộ coi tù. Anh em có “mánh” để giao thiệp với họ. Bao giờ anh em cũng làm đầy đủ thủ tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc có cán, hay là tờ báo.

Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không ít th́ nhiều. Vài bó nứa sửa lại cái căn nhà, cây tre làm cột, ít ṿng mây buộc lại cái cổng, cái giàn hoa. Cán bộ có chức có quyền th́ như đă nói, anh em Biệt Kích Dù “đấm mơm” hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc th́ cũng gỗ súc hay đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi thứ nghề, cung cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy gỗ, lấy nứa, lấy mây - ở nhà th́ có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội chăn nuôi... anh em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm niên 20 năm có khác. Biết rơ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.

Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1 đặt dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, trung tá Công An Thùy “mồi”, nhưng trên thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đày gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh của vị chỉ huy của họ, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người huyền thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được gặp, v́ anh không đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc đến “ông thầy” của họ. Truyện về đại úy Biệt Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền thuyết. Đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn c̣n tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa... tôi chưa thua các anh.

Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này”. - Bắt Nguyễn Hữu Luyện đi lao động, anh nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không cho phép tôi làm những công việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như vậy”. Anh đă bị kiên giam nhiều năm tại rất nhiều trại rùng rợn, dă man nổi tiếng, nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau vẫn là Nguyễn Hữu Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc Nguyễn Hữu Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay đă trở thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải chấp nhận.

Người ta chưa lường được hết quyền năng của Nguyễn Hữu Luyện đối với anh em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh em Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho “tổn” nhiều năm không có thuốc nên anh “về nước Chúa”. Phần lớn các anh em Biệt Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn Hữu Luyện. Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều nói “anh em lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu chúng tôi chưa có chết. C̣n ẩn lánh đâu đó... Lănh tụ chúng tôi ngày nào đó sẽ trở về...”. Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt Kích Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi làm.

Họ nói “được lệnh của đại úy Nguyễn Hữu Luyện, anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa mới mất”. Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc điều hành của trại. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Các anh tôn trọng đồng chí của các anh th́ chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tôi. Nghĩa tử là nghĩa tận, anh em chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh biệt người nằm xuống”. Sau điều đ́nh măi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ hết.

Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện kể về đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa tự hào vừa buồn bă. Tự hào v́ đồng đội đă có những người kiệt xuất như vậy, buồn bă v́ nh́n lại bản thân, nh́n anh em xung quanh ḿnh thấy khá nhiều người bất xứng. Những năm tháng trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với chúng tôi, vừa là một đường dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, c̣n là một nơi nương tựa tinh thần.

o0o

Tết năm 1982. Một số lớn anh em trong trại K2 đă chuyển về Nam. Đội văn nghệ nghiệp dư của tụi tôi thiếu rất nhiều “nhân tài” nhưng vẫn phải tŕnh diễn cho anh em vui Tết. Thiếu người, thiếu tiết mục, chúng tôi nhập luôn đội múa lân vào đội văn nghệ cho xôm tụ. Không ngờ đội văn nghệ “què” như vậy, Tết lại phải đi “lưu diễn” trên K1 và K3. Mùng 2 chúng tôi lên K1 - đường dài 4 cây số chúng tôi đi gần hai tiếng đồng hồ, khoảng gần 9 giờ mới tới. Một đại diện anh em Biệt Kích Dù nói rằng: “Chẳng mấy khi được đón tiếp các anh bữa nay, anh em K1 chúng tôi xin hạ một con heo để đón mừng anh em văn nghệ”. Tôi được biết sau này sự hậu đăi ấy là do ư kiến của đại úy Nguyễn Hữu Luyện đề xuất. Chưa bao giờ đội văn nghệ tù chúng tôi được tiếp đón long trọng và săn sóc chu đáo như vậy. Theo chương tŕnh, đội văn nghệ tŕnh diễn buổi trưa, diễn xong ăn uống rồi về.

Đang trông nom cho anh em dựng sân khấu ở hội trường, chợt có một anh em Biệt Kích Dù đến bên tôi khẽ nói: “Anh Luyện em mời anh vô trong lán uống trà”. Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của tôi là được gặp người sĩ quan Biệt Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người thật và con người “huyền thoại” giống nhau, khác nhau ra sao. Tôi vội vàng theo người anh em Biệt Kích Dù đi vào trong lán. K1 cũng như K2, K3 lán tù thường tối và thấp. Đi qua hai ba căn nhà dài hôi hám, mờ mịt tôi tới một căn buồng đầu lán. Vừa bước chân vô chưa kịp định thần, tôi đă thấy một con người cao lớn, mắt sáng trán cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động tác quân sự, giơ tay chào đúng lễ nghi quân cách, miệng nói: “Mes respects, mon colonel!”.

Tôi thảng thốt không biết phản ứng ra sao. Đi tù 5, 6 năm nay, ḿnh là giai cấp đang bị triệt tiêu, là tù nhân đứng hàng thứ bét của nấc thang xă hội, tại sao lại có người chào ḿnh trân trọng như vậy. “Mes respects, mon colonel” đây là lễ nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu năm nay, có nghe thấy, nh́n thấy kiểu chào này đâu. Ḿnh bây giờ, là tù khổ sai biệt xứ, đâu c̣n ǵ mà “kính chào trung tá”.

Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay người đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ nghi quân cách mà hỏi: “Thưa anh, anh là Nguyễn Hữu Luyện?” Người ấy, vẫn đứng nghiêm, chỉ đưa tay xuống rồi nói tiếp: “Vâng thưa anh, tôi là Luyện”, “Anh Luyện ơi, anh làm vậy tôi khó xử quá, thời buổi này, anh em ḿnh gặp nhau là quư”. Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời bỏ tư thế đứng nghiêm, khẽ nói “Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi làm như vậỵ. Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh của tôi”.

Nguyễn Hữu Luyện học khóa 4 phụ Thủ Đức. Tôi học khóa 2 có ra trường trước anh vài khóa thật, nhưng 20 năm qua, nếu anh c̣n ở lại miền Nam, với khả năng ấy, thiện chí ấy, không biết anh đă lên tới cấp nào, đâu có lẹt đẹt như tôi. Khóa 5 Thủ Đức đă có người lên tướng. Nhưng đối với người như Nguyễn Hữu Luyện, theo tôi cấp bực là thứ yếu, nhân cách mới là chính yếu. Ở trong quân đội miền Nam, về nhân cách, ai xứng đáng là đàn anh của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giờ?

Sau một tuần trà, Nguyễn Hữu Luyện chậm răi nói nhỏ với tôi: “Có một ‘thằng em’ vừa nhận được một cái tin rất lạ, rất mới. May là lại được gặp anh hôm nay ở đây. Được biết anh vốn là một nhà báo. Xin anh cho ư kiến về tin vừa mới nhận này”. Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra dấu cho một anh em nào đó đứng gần bên “Gọi Th. lên đây”. Trước khi Th. tới, anh Luyện có cho tôi hay Th. là một biệt kích dù cấp bậc thượng sĩ chuyên lo về truyền tin. Th. là một chuyên viên về địa hạt này. Hai chục năm bị bắt nhưng Th. vẫn xử dụng được tay nghề. Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn của một người “phấn đấu tiến bộ” là đạt 3 Đ: xe đạp, đồng hồ và Đài (radio).

Trong hàng ngũ cán bộ th́ công an vốn là một nơi an toàn mà “kiếm được”. Chỉ có hàng ngũ bộ đội là phải đi chiến trường chết banh thây mất xác hoặc phải đóng quân ở những nơi đầu sóng ngọn gió nghèo mạt rệp mà thôi. Cán bộ Công an tương đối có nhiều người đạt tiêu chuẩn 3 Đ. Nhưng đài ngoài Bắc phần lớn thuộc loại xưa, khó xài, dễ hỏng. V́ vậy nên chuyên viên truyền tin Th. luôn luôn có việc làm. Một lát sau, anh Th. lên gặp chúng tôi. Anh nói rằng: “Em sửa đài cho cán bộ quanh năm không lúc nào hết việc. Nhưng không bao giờ em sửa đài xong xuôi, rốt ráo. Lúc nào em cũng phải lấy cớ này, cớ kia để giữ lại bên ḿnh một cái đài “chạy được”.

Em giữ lại để đeo “ê-cút-tưa” vào nghe tin tức một ḿnh. Thưa anh, tối hôm qua, mùng 1 Tết, chính tai em nghe có một ông tướng Mỹ mà em không nhớ được tên đang ở Việt Nam, nói chuyện với các nhà lănh đạo Hà Nội về vấn đề cựu chiến binh Mỹ mất tích, về tù nhân chính trị... Lần đầu tiên chính tai em nghe là những biệt kích nhảy dù ra Bắc đầu thập niên 60 cũng được xét đến trong dịp gặp gỡ này. Thưa anh, vài chục năm nay nghe đài, đây là lần đầu em nghe đài nhắc đến số phận tụi em. Chúng em là những người bị bỏ quên, coi như đă chết rồi. Không số quân, không tên tuổi, không nơi nào nhận. Chúng em là những người “đứt dây rơi xuống luôn luôn sống ở một xó rừng góc núi ‘trên không chằng, dưới không rễ’, không c̣n liên hệ ǵ với xă hội loài người.

Bây giờ em nghe tin ông tướng Mỹ sang Hà Nội nói đến số phận tụi em, em nghe xong mà tự nhiên nước mắt chảy ṛng ṛng... không biết là mơ hay thật đây”. Tôi vội cầm lấy tay người thượng sĩ Biệt Kích Dù mà nói: “Đúng đấy bạn ơi, thời gian này ông tướng Vessey, đặc sứ (special envoy) của tổng thống Mỹ Reagan đang viếng thăm Hà Nội. Các báo Việt Nam đều nhắc đến sự kiện này. Tin mà bạn vừa nghe được rất đáng tin cậy”. Nguyễn Hữu Luyện vội chen vào “Làm sao ḿnh tin được đài Hà Nội”. Tôi nói tiếp “Đây là một sự kiện có tính cách quốc tế, truyền thông thế giới đều theo dơi sự viếng thăm của tướng Vessey, nên đài Hà Nội dù muốn dấu cũng khó ḷng. Vả chăng tin tức của khối Xă Hội Chủ Nghĩa xưa nay chỉ loan những tin nào có lợi cho họ.

Tin bất lợi, họ quên đi ngay. Việc tướng Vessey đến Việt Nam, ở bên trong chắc đă có một thỏa thuận nào có lợi cho Hà Nội không mặt này th́ mặt kia. Ḿnh chưa biết được sự thỏa thuận ấy đến đâu, chi tiết ra sao, nhưng việc loan tin sự hiện diện của đặc sứ Vessey đến Hà Nội, nh́n chung là một chỉ dấu thuận lợi cho lũ tù nhân chúng ta, đặc biệt là đối với các anh, những người mà trên 20 năm nay họ cố ư hay vô t́nh quên lăng. Nguyễn Hữu Luyện trầm ngâm “Như bản thân tôi và anh em chúng tôi ở đây đă từng rút kinh nghiệm không nên tin tưởng nhiều quá vào người Mỹ” - “Đồng ư trên nguyên tắc, nhưng trong số những người Mỹ c̣n nhớ đến đồng minh cũ, c̣n lưu ư đến số phận khốn khổ của chúng ta th́ ông Reagan này là số 1.

Nếu năm ngoái cái tên Mỹ khùng nào nó bắn ông ấy chết th́ chúng ta c̣n vất vả hơn nhiều. Bây giờ đặc sứ của ông Reagan, tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc đến Biệt Kích Dù th́ tôi nghĩ sớm muộn trường hợp các anh sẽ được giải quyết. Các bạn có thể được về...”. Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn Hữu Luyện. Anh như nói một ḿnh “Được về, được về, mà về đâu....”

Lời b́nh Mao Tôn Cương của tôi hồi đầu năm khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng nghiệm. Đến giữa năm 1982, có hai lượt thả Biệt Kích Dù, mỗi lượt trên dưới 100 người. Chuyện không ai ngờ mà tới. Ông tướng Vessey đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan đă giở lại chồng hồ sơ mật đầu thập niên 60, can thiệp với Hà Nội để cho những Biệt Kích Dù bị giam trên dưới 20 năm ở nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội nhập với loài người.

Cùng thời gian đó chương tŕnh “nước sông công tù” đem cải tạo viên đến khai hoang những vùng rừng núi âm u (như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ Lào này) trở thành nông trường, lâm trường, rồi đem gia đ́nh cải tạo viên lên chỉ định cư trú ở những chốn rừng sâu nước độc, cũng được dẹp bỏ luôn. Phần lớn anh em tù chính trị được chuyển về Nam hay đổi đi trại khác. Đến cuối năm 1982, trại Thanh Phong K2 chỉ c̣n lại trên 50 tù chính trị. C̣n lại toàn là tù “đui, què, mẻ sứt” già yếu, bịnh tật... hay là thuộc loại “không tiện cho về Nam”. Tôi thuộc số trên 50 người c̣n lại này. Ngày 14 tháng 11 năm 1982 trên nguyên tắc phân trại tù chính trị K2 giải thể. Những người tù c̣n lại đi ra K1. Ở đây tù chính trị sẽ cùng anh em Biệt Kích Dù c̣n lại lên xe đi đến một trại khác ở Nghệ Tĩnh: Trại Tân Kỳ.

VỀ TRẠI TÂN KỲ

Trại Tân Kỳ này là một trại “trung chuyển”. Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc c̣n lại hồi 76-77 trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù h́nh sự thứ dữ. Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi là “Tây Đức” và “Đông Đức” v́ khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Đông. Ở đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Vơ Tr. lănh tụ VNQĐD ở miền Trung, Quảng Ngăi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng “chính phủ trong bóng tối” và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lănh Biệt Kích Dù. Chính trong thời gian này, v́ chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện.

Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh) chỉ c̣n độ trên 50 người. V́ có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuôi... Riêng thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rau. Tôi xưa nay đi tù cũng có chút “chuyên môn” nên ở đây, trại mới, tôi cũng được xử dụng đúng theo “tay nghề”: chuyên trị về phân và nước tiểu. Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón này. Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị.

Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng tọa nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm phán Ṭa án Quân sự, là giáo sư Trường Vơ Bị Quốc Gia v..v... Ở đây th́ đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu th́ 1 là biện lư, 1 là đại đức, 1 là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tôi. Sự tuyển dụng “trước sau như một” này là chấp hành đúng tinh thần “Mao-ít”: “Chữ nghĩa không bằng cục phân”. Tôi lại nhớ đến thái độ của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao động. Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đă trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau nhưng anh nhất quyết không đi làm.

Toán “nhà cầu” tụi tôi khoảng 10 giờ sáng là công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đă dọn sạch, chuyển cho đội rau. Nhà cầu đă quét tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi tắm v́ dù đă đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể ḿnh hôi hám quá. Mùa nực được đi tắm là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại là một cực h́nh. Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể gầy c̣m, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suối. Nguyễn Hữu Luyện không lao động, người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng chúng tôi đi tắm. Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện. Anh nói: “cứ ào một cái là xong”. Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra không có nghĩa lư ǵ. Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giang. Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở miền cực bắc nước ta, cái lạnh c̣n ác liệt hơn nhiều. Người tù Biệt Kích trên 20 năm, đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị: “Cứ ào một cái là xong”.

Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một vấn đề hết sức quan trọng là ăn. Ai cũng đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất của tù. Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện h́nh như anh coi rất nhẹ vấn đề ăn. Anh được phát đồ ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nào. Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đói. H́nh như anh ở tù lâu quá, đói trở thành thường trực nên anh đă quen đi. Một vài anh em được thăm nuôi, hoặc nhận quà, có ḷng quư mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một bữu cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng vật nào. Tôi một bữa nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối từ. Tôi mới nói: “Chỗ anh em sao anh kỹ quá”. Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ: “Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đ̣i hỏi thật ít. Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi th́ lại khổ đấy anh ạ”.

Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận. Nhận một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lùng. Xà bông đối với anh thật là cần thiết. Như đă nói ở trên, chúng tôi dân “nhà cầu” làm việc xong, ḿnh mẩy hôi hám nên cực chẳng đă mùa rét mà phải đi tắm. Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.

Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn. Người đă cao anh lại c̣n đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khênh. Đi tù anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc, gót đỏ hồng. Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bửng nhiên nhớ đến 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:

Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này

Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đây. Tù đi tắm th́ cứ thế cởi truồng ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa. Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt th́ cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh răng là cùng. Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp. Màu men óng ả chói ngời... tương phản rơ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu xám xịt. Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện: “Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vậy?” Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái chậu này. Của tên trại trưởng trại “mục xương” ở Cao Bằng tặng cho tôi đấy.

Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc sang. Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhăn hiệu chỉ rơ. Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi th́ nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn ăn. Mùa lạnh nó c̣n đổ nước xuống hầm nữa. Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa.

Nó hành tôi măi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn c̣n sống. Nhưng mà chết th́ thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không chịu thua chúng nó”. - “Như vậy th́ tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại tặng anh cái chậu này?”- “Tôi cũng không biết nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giam. Một bữa hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói: “Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm phải không? Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này”. Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như thế”.

TẤM H̀NH NHẬN ĐÊM CUỐI NĂM

Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện là một người ít nói, ít giao thiệp. Không đi làm, cả ngày tôi thường thấy anh ngồi quay mặt vào tường, kiểu thiền sư diện bích. Nhưng không phải anh ngồi thiền mà anh đọc sách. Một cuốn sách dày để trước mặt. Anh người Công giáo, tôi tưởng anh ngày ngày đọc thánh kinh. Nhưng một hôm tôi biết là không phải. Một buổi chiều anh mời anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ anh. Anh hỏi về văn phạm, về cách đọc một vài chữ khó. Th́ ra cuốn sách dày anh luôn để trước mặt là một cuốn tự điển Anh Việt. Bạn tôi hàng ngày ngồi học thuộc từng trang tự điển. Tôi mới hỏi: “Ông học Anh văn kiểu ấy th́ bao giờ cho xong?” Luyện trả lời: “Được chữ nào hay chữ nấy mà cũng để cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi”.

Nhưng học Anh văn, theo tôi nghĩ rất khó mà tự học. C̣n văn phạm c̣n cú pháp, c̣n cách đọc, cách nhấn... làm sao cho người ta hiểu. Ông bạn giáo sư Anh văn và tôi cùng dân “nhà cầu” nên ở gần nhau. Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi tối Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù ŕ bàn chuyện tiếng Anh. Ở trong trại cải tạo, tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Pháp, tiếng Anh nguyên tắc là cấm chỉ. Nhưng dạo này ở Sài G̣n có phát hành tuần san Nga Sô ấn bản tiếng Anh gọi là New Time. V́ nhu cầu đọc báo cũng như nhu cầu t́m học tiếng Anh, nên tờ New Time anh em nhận được từ gia đ́nh gởi tới khá nhiều. Thấy sách báo của đàn anh Nga Sô vĩ đại là cán bộ trực trại gật đầu cho nhận. Anh em đọc New Time với quan niệm “Nó nói ǵ, kệ cha nó - miễn là ḿnh có tài liệu học Anh văn”. Nguyễn Hữu Luyện là người t́m đọc New Time kỹ nhất.

o0o

Chúng tôi về trại mới Tân Kỳ đă được gần 3 tháng. Anh em Biệt Kích Dù được tha về từ trại cũ Thanh Phong có lẽ cũng đă được trên dưới nửa năm. Đă gần tới Tết, sắp sang năm mới 1983. Anh em nhận được quà nhà gởi “đông” hơn dạo trước. Trại này ở gần ngay huyện lỵ Tân Kỳ nên thư từ, quà cáp tới mau hơn Thanh Phong nhiều. Tôi nhận thấy hằng ngày vào khoảng buổi chiều sắp sửa đóng cửa lán, thế nào cũng có một vài anh em Biệt Kích Dù đến nói điều ǵ đó với Nguyễn Hữu Luyện, như là “báo cáo” hằng ngày của anh em với chỉ huy trưởng. Vừa có một sự kiện đặc biệt xảy ra với anh em Biệt Kích Dù. Trên 20 năm nay, anh em Biệt Kích Dù không bao giờ nhận được thư, được quà... Anh em là những người bị bỏ quên trong xă hội loài người.

Nhưng gần đến Tết năm 1983, có trên 10 gói quà gửi đến cho một số anh em Biệt Kích Dù. Những anh em được về từ nửa năm trước đă họp nhau gửi quà cho những người c̣n ở lại. Trong một buổi tối lên ngồi nói chuyện với tụi tôi, Luyện kể: Một số lớn anh em được về nhưng không c̣n liên lạc được với gia đ́nh nữa. 20 năm qua gia đ́nh xiêu tán không c̣n nhận được âm hao. Có anh th́ vợ đă lấy chồng khác, đă an phận với một cuộc đời mới từ mười mấy năm qua. Ván đă đóng thuyền, người trở về không muốn gây phiền muộn cho cố nhân làm ǵ nữa. Những anh em t́m lại được thân nhân, gia đ́nh phải nói là rất hiếm.

V́ vậy nên một số lớn anh em Biệt Kích Dù sau khi đi tù 20 năm biệt xứ trở về đành tụ họp cùng nhau, tùy nghề nghiệp, tùy hoàn cảnh mà quây quần bên nhau xây dựng một cuộc đời mới, trong một xă hội mới đầy khó khăn, thù hận. Cuộc sống mới của anh em hẳn là vất vả, gian nan, nhưng những món quà của anh em ở ngoài gửi vào cho anh em ở lại đều là những đồ gia dụng cả: gạo nếp, gạo tẻ, ḿ, trứng muối, thịt ướp, cá khô, cá hộp v.v... những thứ cần thiết cho một ngày Tết cổ truyền. Anh em được về như vậy đă không quên những người ở lại.

Tôi có nghe buổi chiều Luyện dặn một anh em Biệt Kích Dù “sẽ họp lại ăn chung”. Một số anh em nhận được quà, được thư, nhưng bản thân Nguyễn Hữu Luyện th́ không. Anh là người ít nói, không thích tỏ bày nên tôi cũng không tiện hỏi. Không biết gia đ́nh của anh bây giờ ra sao? Có thể bản tính anh kín đáo, hoặc là nghề nghiệp Biệt Kích, được huấn luyện về bảo mật quá kỹ nên anh không muốn nói về ḿnh; hay là những năm tù kiên giam trong hầm đá đă làm cho anh quen đi với bóng tối và im lặng. Tôi không biết nữa. Tôi chợt nhớ đến chi tiết khi tôi gặp anh lần đầu ở trại Thanh Phong, sau khi nghe tin đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan, tướng Vessey can thiệp th́ các anh em Biệt Kích Dù có thể được về, Nguyễn Hữu Luyện đă âm thầm khẽ nói “được về, được về... mà về đâu?”

Bây giờ tôi mới hiểu hơn hai chữ “về đâu” của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết anh có c̣n gia đ́nh, có c̣n người thân chờ đợi? Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên lạc, không tin tức... đâu phải người đàn bà nào cũng bền gan hóa đá vọng phu? Cái dấu hỏi sau 2 chữ “về đâu” của Nguyễn Hữu Luyện là hoàn toàn hữu lư. Gần Tết năm nay, khi một số khá đông anh em Biệt Kích Dù đă có tin tức... tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho t́nh trạng của anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn đề riêng tư rất tế nhị, có khi thiêng liêng nữa, không nên vội vàng đề cập tới.

Một buổi tối Nguyễn Hữu Luyện đến với tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time như mọi khi mà thay vào đó là một bao thư. Chuyến quà buổi trưa vừa tới có thêm một số gói cho anh em Biệt Kích Dù, và trong gói quà mới có bao thư này. Gói quà gởi cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một số h́nh ảnh nhờ anh Biệt Kích Dù này gửi cho Nguyễn Hữu Luyện, anh vừa nhận được buổi chiều. Anh ngồi quay lại, đưa h́nh cho chúng tôi coi. H́nh ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể đang đứng lạy trứơc bàn thờ khói hương nghi ngút.

Trên bàn thờ có tấm h́nh phóng lớn của thân sinh cô dâu. Đôi trẻ vừa thành hôn đang cúi đầu trước người đă khuất. Tấm h́nh trên bàn thờ nh́n kỹ đâu phải ai xa lạ chính là h́nh Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về trước. Nguyễn Hữu Luyện nói trong xúc động: “Khi tôi đi con gái đầu ḷng tôi mới có 4 tuổi, năm ngoái con tôi nó đă lấy chồng. Hơn 20 năm cách biệt không thư từ, không tin tức, vợ con tôi tưởng rằng tôi đă chết”. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một giọt nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong sương của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Trong đêm cuối năm giá buốt ở trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, có 3 người tù cùng âm thầm nhỏ lệ trong đêm.

BẠN TÙ FULRO

Ở trại “Tây Đức” có 4 lán th́ 3 lán là tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán c̣n lại là tù h́nh sự. Trại Tân Kỳ này, thời kỳ “phồn thịnh” chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được đưa về Nam khá đông nên cả hai khu “Đông Đức - Tây Đức” chỉ c̣n lại chừng 500 tù. Chúng tôi ở đội rau cùng lán với anh em Fulro thuộc đội “củ quả”, chuyên trồng bí, trồng khoai, trồng tra, trồng mía... Những anh em Fulro theo chức danh ghi trong “lư lịch trích ngang” đều là những nhân vật lớn như thiếu tướng, chuẩn tướng, đại tá, trung tá, thiếu tá v.v... nhưng thật ra chỉ là những đồng bào thiểu số không biết chữ, nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe... luôn luôn cười nhe hai hàm răng cà sát lợi.

Sự ngây thơ, chân thật hiện rơ trong từng dáng điệu, từng lời nói. Nghe, nh́n họ khó có thể tưởng tượng đó là tướng, tá trong mặt trận giải phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front unifié pour la libération des races opprimées). Phong trào này đă phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đă gây phiền nhiễu không ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng 4 đen 1975 khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức Fulro không những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt trận vơ trang chống đối cộng sản rất mạnh mẽ tại miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương Thổ cũ. Rất đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum-Pleiku bị bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200 tướng, tá Fulro bị bắt giữ.

Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền, biệt kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh em Fulro lộ vẻ “căm thù” ǵ hết. Nhiều khi anh em c̣n tiếp tế củ khoai, đẫn mía... Anh em đội rau th́ đưa lại su hào, rau cải. Không nói ra nhưng tù chính trị và tù Fulro thông cảm nhau trong t́nh cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nhưng một buổi tối có một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có một anh c̣n trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt Kích Mũ Xanh (green beret) của Mỹ hoạt động trên vùng Cao nguyên “Hoàng Triều Cương Thổ”. Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ, nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch thường.

Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng Anh rất “chạy”. Anh nói tiếng Anh dễ hơn, giỏi hơn nói tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta thường nghe thấy nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ lạ, cái thơ ngây man dă ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ khoai, khúc sắn th́ anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù chính trị “tiền trao cháo múc”. Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được nhưng phảng phất một nổi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của người da đen ở Hoa Kỳ.

Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa để cải thiện bữu ăn. Ăn không hết anh mới bỏ những con vật ấy vào trong một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái hũ sành nầy anh để dưới sàn, gần chử đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh th́ chịu được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần chịu không nổi mới nói với anh trực buồng. Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải nhờ một anh Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm của anh đi chử khác.

Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại tá sang một bên rồi vùng vằng đi nằm, hết sức bất b́nh. Cái hũ mắm càng ngày bốc mùi càng nặng, nên một buổi nhân mọi người đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy ra ngoài, đặt ở sau lán, bên đống củi. Đi làm buổi chiều về khi lán đă đóng cửa, anh thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không c̣n ở chử cũ. Anh nổi giận đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó mới chỉ anh trực buồng.

Anh này chạy bay đến chử anh trực buồng già cận thị, nắm ngực áo lôi xền xệch hét lên: “Sao mày lấy của tao, I’m gonna to get you, to kill you...” (Tao sẽ đánh mày, giết mày). Một anh Fulro có tuổi ở gần đấy liền đứng dậy, định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng giận, đẩy anh Fulro già ngă chúi, kéo áo anh trực buồng rách toạc, cái kính cận văng xuống đất. Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến ra sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú.

Bửng có một người cao lênh khênh bước tới, đó là tay thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Không biết bằng một chiêu thức Judo hay cẩm nă thủ tuyệt vời nào, hai tay của anh Fulro điên loạn đă bị khóa chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng: “Đừng làm ồn”. Tay Fulro hét lên: “It's none of your business” (không phải chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn tồn nói tiếp: “Chuyện không đáng ǵ. Sáng mai chúng ta gặp nhau giải quyết”. Không biết lời nói của tay thủ lĩnh Biệt Kích Dù có một mănh lực ǵ mà sau đó tay thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng nguôi đi, nh́n xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện dừng tay khóa, nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói “Thôi đi nghỉ đi...”.

Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm, hai người (anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu sao cái hũ mắm được để lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa anh em tù chính trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng, không ngờ ngược lại, nó tốt hơn lên, kiểu “đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận anh em”. Tay Fulro Biệt kích mũ xanh bây giờ mới nhận ra “ông thầy”, ở nơi thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu Luyện nói tiếng Anh, nói bất cứ chuyện ǵ để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện “accent”. Có khi anh ta c̣n đem tới củ khoai, đẫn mía nữa, nhưng theo như cựu lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao giờ.

Sau khi những tấm h́nh của vợ con anh nhờ một anh em Biệt Kích khác được gởi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữu mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện “Tại sao anh không có thư, có quà riêng của gia đ́nh?” Trầm ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện mới nói: “Thực t́nh tôi không nghĩ là vợ con tôi c̣n đó, đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em kín đáo đi t́m hộ... Rất may là đă t́m ra. Vợ con tôi đă rời Sài G̣n, xuống Cần Thơ sinh sống. Tôi cũng đă dự pḥng trường hợp này. Gần 20 năm nay vợ con tôi, anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đă chết.

Thôi cứ để như thế cho tiện, chết là hết, phải không anh. Không phiền ai, gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ con tôi c̣n nghĩ đến tôi, c̣n chờ đợi tôi th́ đó là ơn riêng của Chúa đă ban cho. Nhưng tôi đă nói trước là vợ con tôi nếu c̣n đó, khi nhận được tin tôi th́ không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư nhận quà rồi là tôi phải trả lời. Làm sao mà ḿnh không thương vợ, thương con ḿnh cho được. Xưa nay mấy chục năm ở các trại tù, ḿnh là thằng trọc đầu, trên không chằng dưới không rễ, họ không nắm ḿnh vào đâu được. Bây giờ ḿnh thương vợ ḿnh, thương con ḿnh, họ đọc thư, họ biết như vậy, th́ ḿnh không sống được yên đâu anh ơi. Họ không hành được ḿnh, bây giờ họ hành vợ con ḿnh để bắt ḿnh quy phục, th́ làm sao đây thưa anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư, nhận quà riêng là v́ thế...”

ĐỨNG VỮNG KHÔNG LÙI

Có lẽ trại Tân Kỳ này trước đây đă xây dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại c̣n một số cây cổ thụ c̣n sót lại. Ở cuối sân “tập kết” bên “Tây Đức”, trước cửa mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn Du đă nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây không những người buồn, (một lũ tù nhân rạc rài đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người thời mông muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây ǵ mà khẳng khiu, trơ trụi, không c̣n một chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay chịu tội giữa trời.

Xưa nay cây thường là một biểu tượng thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho nơi che chở, cho chim ca và gió hát. Ở đây th́ ngược lại; cây đa già trơ lá trụi cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh lùng của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đa. Những cái rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống như một đàn trăn gió đang ŕnh mồi, những hốc tối ṃ làm liên tưởng đến hang ổ của lũ cáo, chồn, rắn rết, nhưng điều chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đă có hơn một người tù treo cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng b́nh dân gọi là “có hương”. Con ma treo cổ thường dẫn dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống giống như ḿnh để oan hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.

Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm 1983. Trời dù đă cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn c̣n buốt giá. Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống, đợi điểm danh xuất trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ cuối sân tập kết, phía cây đa. Mọi người nh́n lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba của cây đa trụi lá, vươn cổ ra ḥ hét: “Tộ cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây hại con tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu...”. Cán bộ trực trại vội vàng đi lại gốc cây đa, giơ tay quát nạt “Anh kia, anh chửi aỉ” - “Tao chửi bây, chưởi tộ cha tụi bây”.

Một công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo “cu lat” loạch xoạch. “Anh kia, xuống ngay”. Một phát súng nổ vang lên; mọi người giật ḿnh nhưng nh́n lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn dọa... Người đứng trên cây, nh́n kỹ, cổ đă quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành cây cao cạnh đó. Người đó nói như thét: “Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt cổ”. Cán bộ trực trại giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống.

Người đứng trên cây tiếp tục chưởi bới, tiếp tục ḥ hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi ra trước sân tập kết, vội vă thổi c̣i ra lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa xúc động vừa tê điếng trước phản ứng bất ngờ của một bạn tù. Các đội hôm nay được ra khỏi trại rất mau, rất vội. Trại không muốn các tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận từ kia. Anh em x́ xào “Ai đấy nhỉ?” - “Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa phương quân người Huế hay Quảng B́nh, Quảng Trị” - “Đúng hắn rồi c̣n ai nữa, nghe đâu ít lâu nay hắn bị tâm thần”.

Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập kết trở lại vắng người, im vắng. Tiếng chưởi rủa của thiếu tá Địa Phương quân Th. vẫn c̣n róng rả: “Tộ cha bây, bây giết con tao”. Mấy tên làm việc trong trại như đội “nhà cầu” tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ngớt băn khoăn, lo lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn. Ông bạn đồng nghiệp nhà cầu, Đại Đức Như L. cho hay “Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải tạo mà con trai mới lớn lên ở nhà lại phải đi ‘nghĩa vụ’ sang Campuchia. Anh vừa nhận tin con trai anh mới chết; chết mà không mang được xác về.

Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván, ngất đi khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không đủ nuôi con, làm ǵ có quà cáp cho chồng nữa. Th. lâu nay là con bà phước. Ở nhà vợ anh ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn thay lại bị bệnh tâm thần ngớ ngẩn. Cả nhà bây giờ trông vào một cô con gái mới đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con... Anh ta vẫn đi làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như vậỵ..”

Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới, ḥ hét. Nhưng tiếng chửi bới, ḥ hét thưa dần v́ không c̣n “đối tượng”. Vào khoảng 9 giờ sáng, trại trưởng Trung tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa nói: “Anh Th., có chuyện ǵ xuống đây tôi giải quyết”. - “Bắn cho tôi một phát đi, tôi không xuống”. Thấy không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù. H́nh như y đi t́m một người nào đó. Tôi được nghe nói là Trung tá công an đi t́m đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện.

Trời đă gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi cơn điên vẫn đứng trên cây, cổ quàng sẵn vào một ṿng dây thừng oan nghiệt. Chợt có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện. Hai người đứng nói chuyện ǵ với nhau không rơ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn điên Th. tháo bỏ cái ṿng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo xuống. Nguyễn Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống đất và d́u anh ta vào trong lán. Không biết người thủ lănh Biệt Kích Dù đă nói những ǵ, đă làm thế nào để cho người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc đời.

o0o

Những ngày tiếp theo đó cả trại Tân Kỳ nín thở theo dơi hậu quả đến với người tù cựu Thiếu tá Địa Phương Quân. Hậu quả đầu tiên là biên chế lại. Tù đội này đổi sang đội kia, từ lán này sang lán khác. Giản bớt khu “Tây Đức”. Cho một số đội sang khu “Đông Đức”. Mỗi lần biên chế là mỗi lần trại phá bỏ những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất của tù gây dựng được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái thân quen vừa tạo lập đă mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn luôn bắt tù nhân ăn ở trong một t́nh trạng tạm thời, nghi ngờ, bất trắc.

Sau vụ biên chế này, tôi vẫn làm công tác nhà cầu nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một chuyến xe GMC (lấy được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ. Tôi vội chạy ra xem có gặp lại người quen? Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra toàn là bạn cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên úy Công giáo từ trại B́nh Đà ngoài Bắc đổi trại vào miền Trung. Các bạn tù linh mục này năm ngoái tháng 4, 1982 đă từ biệt tụi tôi ở trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội trưởng đội rau kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T. Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói “Xă hội tù xoay chuyển ṿng tṛn. Ḿnh lại gặp nhau ở đây, mừng quá”.

Nhưng cái mừng của người bạn cũ không được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983), chuyến xe GMC lại chở một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người tù di chuyển kỳ này có tên tôi. Chuyến xe đi vội vă. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy vẫy. Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những người bạn tù đă cùng tôi trải qua một thời kỳ gian khổ. Tôi nh́n thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy theo. Trong số những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến nay thấm thoát đă 12 năm rồi. Xin những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu năm 1983, hiện giờ ở hải ngoại t́nh cờ đọc đến những ḍng này, nếu các anh được biết tin ǵ về người bạn tù khốn khổ của chúng ta Thiếu tá Th. Địa Phương Quân xin các anh vui ḷng cho tôi được biết.

Đặc biệt về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa với anh mà tôi không giữ được tṛn. Một buổi sau khi anh cho tôi xem tấm h́nh con gái anh bữa lấy chồng, đang cúi lạy trước chân dung người cha đă khuất (là anh) tôi mới nói với anh rằng “Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra chuyện này”. Anh nắm tay tôi mà nói: “Thôi đừng anh ạ, ḿnh xét ra cũng chỉ làm nhiệm vụ của một người lính t́nh nguyện gia nhập cuộc chiến tranh bí mật. Quy luật của nó là thế th́ ḿnh đành phải chịu, thưa anh”.

Nhớ lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo tôi đă muốn lắm, muốn được kể chuyện người tù kiệt xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại măi. Bây giờ tôi được biết rơ là anh đă tới Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo lắng cho một số anh em Biệt Kích Dù đồng đội của anh làm thủ tục xuất ngoại. Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ tưởng đă nằm im trong cát bụi lăng quên bây giờ đang được mở lại hồ sơ. Cho nên bữa nay tôi mới dám viết ít ḍng này với tư cách của một người bạn tù cùng trại nói ra những điều tai nghe mắt thấỵ...

Phan Lạc Phúc

hoanglan22 11-20-2019 15:01

‘Bà quả phụ Trung Tá Dù’ nuôi 9 đứa con mồ côi
 
3 Attachment(s)
SÀI G̉N (NV) – Không ai nghĩ trong con hẻm nhỏ trên đường Lư Chính Thắng, quận 3, lại có cái chợ. Có khi chính những cái chợ nhỏ kiểu này là nơi nuôi sống nhiều gia đ́nh công chức, sĩ quan của chính thể VNCH và những ai bị mất tất cả sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975.

Trong con hẻm này, chúng tôi gặp bà quả phụ Nguyễn Thị Xa, vợ cố trung tá sư đoàn Dù, quân lực VNCH, Trần Văn Sơn.



Bà quả phụ Nguyễn Thị Xa trong những ngày Tháng Tư năm 2016 ở Sài G̣n
(H́nh: Trần Tiến Dũng/Người Việt)

Bà Xa, ở tuổi ngoài bảy mươi, sức khỏe kém và trải qua hơn 40 năm buôn bán lam lũ kiếm sống nuôi 9 người con khi người chồng tử trận, vẫn giữ cốt cách của một phu nhân lữ đoàn phó, Lữ Đoàn 2, thuộc một sư đoàn VNCH tinh nhuệ.

Nói bằng giọng người Bắc-Sài G̣n trầm ấm, bà Nguyễn Thị Xa cho biết, bà là người Bắc, gia đ́nh vào Nam năm 1942, c̣n cố Trung Tá Trần Văn Sơn người tỉnh Quảng Trị.

Bà là nữ sinh trường Nguyễn Văn Khuê, ông học trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức và như các mối t́nh của những người thanh niên yêu lư tưởng quốc gia và chính thể Dân Chủ-Tự Do, họ lập gia đ́nh trong thời chiến, chấp nhận mọi hiểm nguy một ḷng phụng sự lư tưởng “Tổ Quốc Trên Hết.”

T́m chồng trong ngày tàn chiến cuộc

Khi nhớ về chuyện xưa, bà Nguyễn Thị Xa kiềm nén xúc động, kể: “Ở tận Gio Linh, Quảng Trị, anh Sơn bị thương một mắt. Tôi hỏi, giờ anh đă là thương binh anh ở nhà với vợ con em, đừng đi trận nữa. Anh cười nh́n tôi rồi nh́n mấy đứa con nhỏ, lặng lẽ gật đầu nhưng ánh mắt anh lại nh́n về hướng khác. Sau đó anh lại đi. Tôi buồn nhưng không trách anh, thời chiến mà biết làm sao được!”

Cố Trung Tá Trần Văn Sơn sinh năm 1940, là sinh viên sĩ quan Thủ Đức khóa 11, là sĩ quan của binh chủng Nhảy Dù, đời binh nghiệp của ông trải suốt các điểm nóng trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến.

Bà quả phụ Nguyễn Thị Xa kể tiếp: “Tôi nhớ vào khoảng đầu Tháng Tư, 1975, tôi không c̣n tin tức ǵ về anh nhưng không biết anh đă mất. Tôi lên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn và căn cứ ở Long B́nh để hỏi nhưng họ cũng không biết. Sau đó có đồng đội ảnh cho biết là ngày 15 Tháng Tư ảnh có nói chuyện trên đài. Tôi lại lên Bộ Tư Lệnh sư đoàn để đón những người chạy về hỏi tin tức. Không ai biết cả.”



Chân dung cố Trung Tá Trần Văn Sơn, lúc c̣n mang lon trung úy.
Theo bà Xa, gạch trắng dưới hai bông mai trong tấm ảnh chân dung này của
ông là do gia đ́nh thêm vào để lấy làm ảnh thờ tại gia (H́nh: Trần Tiến Dũng chụp lại)
“Ở gần nhà tôi là nhà ông lữ đoàn trưởng, cùng là vợ lính nên bà lữ đoàn trưởng cho tôi biết chồng bà và chồng tôi đă hy sinh. Sau đó, Bộ Tư Lệnh sư đoàn có nói là sẽ đón gia đ́nh tôi đi di tản, nhưng tôi không đi v́ không tin chồng ḿnh hy sinh. Tôi nhủ ḷng tiếp tục đợi anh, hơn nữa lúc đó cả đàn con c̣n nhỏ quá, tôi lại đang mang bầu đứa út, không thể đi. Rồi tôi gặp một ông đại tá, ông cho tôi hy vọng khi nói chồng tôi c̣n sống, đang bị giam ở đầm Bà Th́n, tôi mừng quá và tin là anh đă qua khỏi hiểm nguy.”



Vẫn theo lời bà Xa: “Sau 30 Tháng Tư, tôi có xin phép chính quyền Việt Cộng để đi Phan Rang t́m anh. Họ không cho giấy phép nhưng tôi liều đi đại. Tôi đón xe balua chở hàng đến Phan Rang. Tôi kiếm anh ở mọi nhà thương, nhà tù, nhà thờ, nhà chùa. Không ai biết ǵ về anh. Đi đâu cũng nghe người ta nói: Người chết nhiều quá làm sao biết ai với ai.”



Ở Phan Rang, tôi mừng muốn phát điên khi gặp một chiếc xe Jeep có huy hiệu binh chủng Nhảy Dù bị lật bên đường, không hiểu sao tôi tin trong chiếc xe đó có tin về anh. Nhưng rồi tôi lại tuyệt vọng khi người dân ở đây nói: “Dân quanh đây chôn lính ḿnh nhiều lắm, có đọc được tên trên áo cũng không nhớ nổi, mà cũng đâu có ai giữ thẻ bài làm ǵ.”

Tảo tần nuôi 9 người con

Sau khi biết không cách nào giữ được căn nhà gần bệnh viện V́ Dân, ở Sài G̣n, bà quả phụ Nguyễn Thị Xa dắt 9 đứa con đi kinh tế mới ở Cụ Bị, Bà Rịa.

Bà Nguyễn Thị Xa cho biết chỉ ở kinh tế mới 5 năm. Sau đó về lại Sài G̣n và tiếp tục mua bán để nuôi con. Chúng tôi hỏi, được biết bà trải qua tất cả mọi nghề mua gánh bán bưng, có lúc làm cả nghề mua bán ve chai để nuôi con. Bà nh́n chúng tôi, ánh mắt của người mẹ già như đang t́m lại được ánh sáng tinh anh từ nghị lực ngày trước.

Bà nói: “Anh đừng nói tôi mua bán ve chai, cứ nói chung chung là tôi mua bán đồ cũ là được rồi. Tôi may mắn có mấy đứa con trai đầu biết phụ mẹ nuôi em. Cực khổ lắm anh. Họ xét lư lịch, đâu cho con ḿnh học hành tới nơi tới chốn, phải lao động thuê mướn cho người ta khổ cực ngàn lần hơn mới kiếm sống được.”



Giấy thăng cấp cố Trung Tá Trần Văn Sơn được gia đ́nh ǵn giữ. (H́nh: Trần Tiến Dũng chụp lại)

Đồi Con Ngỗng và nguyện vọng người quả phụ

Những câu chuyện về chiến tranh, nhất là chiến tranh Việt Nam, hầu như được kể lại từ nhiều phía. Bỏ qua yếu tố tô son trét phấn của bên thắng cuộc, dư luận công chính luôn ư thức rằng: Chính nghĩa của cuộc chiến tranh không thuộc về bên chiến thắng với những chiếm đoạt, phân biệt đối xử tồi tệ với người lính thua cuộc và gia đ́nh họ.



Cách khác, sự tồn tại và vươn lên từ đống tro tàn cuộc chiến của gia đ́nh những quân nhân VNCH đă buông súng trong suốt thời hậu chiến mới là người thật sự chiến thắng, chiến thắng của phẩm giá và quyền con người trong nghịch cảnh đau thương nhất.



Trong câu chuyện của ḿnh, bà quả phụ Nguyễn Thị Xa luôn nhắc đến những đồng đội của chồng. Bà tế nhị nói: Tôi không rơ chồng tôi ăn ở thế nào với cấp dưới, nhưng mấy chục năm qua các ông ấy dù ở nước ngoài hay trong nước luôn quí trọng anh và nhớ đến gia đ́nh tôi. Bây giờ các ông ấy người đă mất, người th́ già rồi nhưng vẫn mong giúp tôi t́m được kỷ vật nào đó của anh để an ủi gia đ́nh.



Cách nay hai năm, tôi và một vài gia đ́nh có đến Đồi Con Ngỗng ở Phan Rang để t́m lần nữa tin tức hay kỷ vật về anh Sơn.



“Theo chỉ dẫn của một người địa phương, chúng tôi cúng và thắp hương ngay trên đồi cho các tử sĩ VNCH rồi khấn nguyện, nhưng khi đào lên th́ cũng chỉ thấy mấy thùng đạn, trong đó là phần xương thịt đă là cát bụi của các anh. Không có bất cứ kỷ vật nào. Nhưng với chúng tôi, cái am thờ bé nhỏ mà chúng tôi chung ḷng dựng nên nơi đấy thật sự có ư nghĩa cho cả người đă khuất và người luôn tưởng nhớ.”



Khi được hỏi về nguyện vọng cuối đời, ban đầu bà im lặng, phải một lúc sau mới bùi ngùi nói: “Phần tôi th́ chẳng mong muốn ǵ, có chăng là mong các chị em quả phụ khác, nhất là những người có hoàn cảnh khổ hơn cả tôi được quan tâm hơn.”



Chiến dịch Phan Rang-Xuân Lộc là một trong những trận chiến ác liệt cuối cùng của cuộc chiến tranh ác liệt nhất thế kỷ 20. Chính thể VNCH đă bị xâm đoạt và rồi đây lịch sử sẽ minh bạch phán xét. Nhưng ngày nay vẫn c̣n đó những con người, những gia đ́nh VNCH với nghị lực phi thường, bất kỳ có sự giúp đỡ nào vẫn phải cô độc hàng ngày, hàng giờ cố chữa lành vết thương chiến tranh trên thân xác và tâm hồn để tồn tại. Những ai sống ở trong nước dưới chế độ chuyên chế, nhất là những năm đầu sau biến cố 1975, mới có thể biết các trường hợp như bà quả phụ cố Trung Tá Lữ Đoàn 2, Binh Chủng Nhảy Dù, quân đội VNCH, để tồn tại được, là khó đến mức nào!

Trần Tiến Dũng/Người Việt

hoanglan22 11-30-2019 19:03

Cặp lựu đạn "Mini"
 
1 Attachment(s)


Miền Nam, kể từ đầu tháng tư, trời h́nh như trở nên nắng gắt, có lẽ để chuẩn bị chào đón mùa mưa sắp tới, đâu đây cũng đă có rải rác một vài cơn mưa sớm. Những cơn mưa đầu mùa như thúc dục nhà nông thêm tất bật dọn đất, ruộng, cho kịp thời vụ. Suốt một cánh đồng rộng, dài mút tầm mắt, những cột khói đốt đồng chừng như cũng mệt mỏi, ră rời v́ nắng hạ, đang uể oải uốn ḿnh bay lên nền trời trong vắt, cánh đồng về chiều bỗng trở nên vắng lặng, khi những người nông dân âm thầm thu dọn đồ đạc trở về.


Gian quán đầu làng của Bà Ba lần lần đông khách, dân trong làng thường tụ tập vào buổi chiều tà. Khi công việc đă tạm ổn cho một ngày, trên đường về nhà, họ gặp nhau uống ly cà phê, ly chanh đường giải khát, sau một ngày làm việc vất vả, trao đổi với nhau vài ba câu chuyện thời sự, chiến sự, chuyện làng xóm, chuyện mùa màng v..v.. Một số người có máu Lưu Linh, rủ nhau "lai rai ba sợi" cho ấm ḷng, trước khi về nhà dùng bữa cùng gia đ́nh.

Trong góc quán, nơi kê chiếc bàn tṛn lớn nhất, đă có 4, 5 người đàn ông đang ngồi nhâm nhi bên chai rượu, mặc cho những tiếng rầm ŕ to nhỏ chuyện tṛ của những người trong quán, tiếng thăm hỏi, tiếng cười đùa, họ vẫn im lặng uống, không ai nói với ai một lời, h́nh như mọi người đều có tâm sự, hoặc đang chờ đợi chuyện ǵ.

Đột nhiên một người trong nhóm lên tiếng:
- Sao lâu quá chưa thấy Ba Đuông tới, không biết có chuyện ǵ không?
- Chắc không có ǵ đâu, năm nào chẳng vậy, cứ đến tháng này là gần đến ngày giỗ ông già nó, nên nó khật khật, khừ khừ vài bữa thôi - Từ ngày Trung đội ḿnh thanh toán xong mấy thằng "ly khai" ám sát ông già nó, coi như thù nhà được trả, tui thấy nó bớt buồn nhiều lắm rồi đó.

Họ lại im lặng ngồi uống, mỗi người theo đuổi một ư nghĩ riêng, nhưng chung quy họ cũng đều chỉ quan tâm đến một người mà họ vừa nhắc đến.. Ba Đuông.

Có tiếng động cơ xe Honda từ xa, tiếng máy lớn dần, lớn dần rồi ngừng ngay trước cửa quán - Trên xe có hai người, chú lính ngồi sau xuống xe, chú này chắc vừa trổ mă, mặt mày non choẹt, đầy mụn trứng cá, lưng đeo một máy truyền tin PRC.25, tay xách cây M.16 gắn băng đạn cong , 2 băng đâu ngược lại, cột dính với nhau bằng băng keo. Người lái xe là một thanh niên khoảng 26, 27 tuổi, dáng nhanh nhẹn, nai nịt gọn gàng trong bộ đồ kaki màu đen, may theo kiểu quân phục tác chiến, giày "saut", thắt lưng T.A.B với giây ba chạc, bên phải lủng lẳng cây Colt 45, đầu bao súng có một sợi giây dù cột chặt vào đùi, kềm chắc đầu bao để khi đụng chuyện rút ra cho lẹ, đây là lối bắt chước mấy tay cao bồi Texas, những người hùng trên màn ảnh trong các phim Western kiểu "Bắn chậm th́ chết" đấy - bên tay trái là con dao găm, mà hai chữ US nổi bật lên ngoài bao da, giữa bụng dắt cây K.54 không bao, có ư khoe chiến lợi phẩm, trên giây ba chạc, chỗ hai bên ngực, buộc gọn gàng hai trái lựu đạn "mini", bằng giây "ruban" đỏ, món quà tặng rất quư do một người bạn của anh Hai hắn tặng. Từ ngày hắn mới cưới vợ, món này rất đắc dụng khi lâm chiến, nhưng hiện tại, nó được coi như đồ "trang sức"- Hai túi hộp phía ngoài hai bên ống quần, mỗi bên một tấm bản đồ bọc plastic, thấp thoáng những đường gạch xanh xanh, đỏ đỏ bằng bút ch́ mỡ - Thoạt nh́n, mọi người đều có nhận xét chung là anh ta vừa nghiêm chỉnh trong trong quân phục, lại vừa có vẻ "nặng phần tŕnh diễn" trong trang bị - Thật sự anh ta có "vẽ vời" một chút cũng chẳng sao, mọi người có thể vui vẻ chấp nhận được, v́ anh ta hiện là một Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân sáng giá nhất trong Quận. Là sát tinh của bọn cộng sản cơ sở, giao liên, nằm vùng trong Xă, trong Quận, Trung Đội anh ta mười lần ra quân, có đến tám lần đạt thắng lợi, anh ta là Trung Đội Trưởng Nghiă Quân Lê Văn Đức, con người vui tính, dễ mến với hai, ba cái biệt danh như Ba Đuông, (v́ thích nhậu con đuông lăn bột), Ba Cơ Động, (v́ chuyên phục kích VC bằng ḿn claymore cơ động), Ba Sát Tinh, (v́ có tay sát cộng), Ba Cải Lương, (v́ những thứ lỉnh kỉnh anh ta mang trên người và thích ca cải lương). Được tiếng "chịu chơi", gan dạ, nên dù là Nghĩa Quân, một lực lượng chỉ đứng trên Nhân Dân Tự Vệ, nhưng Trung Đội của Ba Đức trang bị không kém ǵ các đơn vị Chủ Lực, v́ những công tác hành quân mà Trung Đội này luôn t́nh nguyện đảm trách và nhờ đó đă tạo nên nhiều thành tích lẫy lừng. Rồi trên Quận, trên Tỉnh thương, cho thêm đồ này, thứ khác ngoài cấp số, rồi các đơn vị bạn có dịp hoạt động chung, cũng v́ cảm t́nh riêng mà tặng thêm món nọ, món kia, cho nên Ba Đức vẫn tự hào là Trung đội anh ta có đủ "đồ chơi" với bọn Việt cộng.

Ba Đức bước vào quán, tươi cười dơ tay vẫy vẫy, đáp lại lời chào của bà con trong quán rồi tiến thẳng về chiếc bàn tṛn trong góc, nơi có mấy người bạn, đúng hơn là những người Nghĩa Quân trong Trung Đội, đang nóng ḷng chờ đợi tin tức của anh ta.

Vừa ngồi xuống, Ba Đức đă nghe hai, ba người trong nhóm hỏi dồn dập:
- Sao "có được không?" Vẫn đi "làm ăn" như b́nh thường chớ!!

Không vội trả lời, Đức nâng ly rượu uống cạn, đặt ly xuống bàn đoạn thở dài nhẹ nhẹ, gương mặt thoáng buồn, anh chậm rải trả lời mọi người:
- Ông Quận không đồng ư với đề nghị đột kích của ḿnh, ổng nói đă có ngưng bắn rồi, ḿnh phải tuân thủ, hơn nữa bây giờ xin yểm trợ khó khăn, ḿnh hăy chờ, cứ thủ cho kỹ đă, c̣n vụ phục kích đón đường liên lạc, tiếp tế của chúng th́ ổng thuận cho ḿnh cứ tiếp tục làm.
- Tụi nó tốt lành ǵ mà ḿnh phải tuân thủ hiệp định, xem chừng, lúc này mà tấn công mới chắc ăn à! Sao anh Ba không nói với ổng như vậy?

- "Mẹ" họ!!! chẳng lẽ tui c̣n phải đợi mấy ông "chỉ sao?" - Mấy ông và ngay cả ông Quận nữa, biết tôi quá rồi mà - Cho dù mấy ông đă phụ lực cùng tôi "đưa" mấy thằng ám sát ông già tôi hồi đó về "hầu hạ" ổng, nhưng năm nào cũng vậy, cứ đến gần ngày giỗ ba tôi, tôi vẫn muốn có thêm một "chút quà" ǵ đó, để làm lễ cúng ổng tôi mới "phái", v́ thế mà đôi ba phen tôi xin với ông Quận, cho bọn ḿnh làm một cú đẹp đẹp một chút cho ông già tôi vui mà không được, thật nản quá.

Nhắc đến người đă khuất, bàn nhậu như chùng xuống, không khí bỗng ngưng đọng, mọi người im lặng, mỗi người chừng như đang theo đuổi những ư nghĩ riêng tư...

Tháng Tư năm 1959...

Chiều xuống dần, trên cánh đồng chỉ c̣n lác đác vài ba người mà công việc c̣n một chút dở dang, đang cố làm thêm cho xong trước khi mặt trời lặn. Cha con ông Tư Trương cũng vội vàng dồn mấy ôm cỏ cuối cùng vào đống, rồi châm lửa đốt - Gió hiu hiu thổi, lửa bén vào cỏ, cột khói từ từ bốc cao, nhè nhẹ lan rộng trong trời chiều, việc tạm ổn, ba cha con ông Tư lững thững trở về - Hai thằng con trai của ông : Hai Tài và Ba Đức, thằng lớn 12, thằng kế 9 tuổi, vẫn đang đi học, nhưng con nhà nông, ngoài việc học hành để mở mang kiến thức và có cơ hội tiến thân, ông c̣n muốn chúng cũng vẫn biết những công việc đồng áng, những vất vả, cực nhọc của nhà nông, để từ đó, chúng hiểu và gắn bó với ruộng đồng, nơi tổ tiên, gịng họ chúng vẫn hàng ngày đổ mồ hôi bên ruộng lúa, nương khoai - V́ thế, ngoài giờ học, ông thường khuyến khích hai đứa ra đồng phụ ông, để ông dạy bảo chúng cung cách làm đồng . Được cái hai thằng con ông rất ngoan, ở trường chúng học giỏi, về nhà chúng chăm chỉ nghe ông hướng dẫn mọi việc . Rút kinh nghiệm cuộc đời ông, bị mồ côi sớm, học hành dang dở, nên lúc nào ông cũng tâm niệm phải lo cho các con học hành đến nơi đến chốn.

Thời điểm này, miền Nam đang được sống trong khung cảnh thanh b́nh êm ả, dưới chế độ Cộng Hoà mới thiết lập được mấy năm, không khí độc lập, tự do là động cơ làm hưng phấn mọi người, họ chăm lo sản xuất, thanh thiếu niên chăm lo học hành, phong trào thể dục thể thao và giáo dục văn hoá được chính quyền thúc đẩy mạnh mẽ, giới trẻ tham gia nhiệt liệt, ông Tư thấy cũng vui vui trong dạ . Từ ngày ông khôn lớn, đến bây giờ ông mới thực sự được sống trong chế độ tự do, dân chủ, không phải nơm nớp lo sợ bọn cường hào, ác bá, bọn quan quân thực dân hành hạ, cảnh chèn ép thô bạo người dân không c̣n nữa, ông cảm thấy bây giờ đời sống mới là thực sự của ḿnh - Ḷng hân hoan vui sướng, ông cũng muốn đóng góp một chút công sức vào việc xây dựng đất nước, cho nên khi bà con trong ấp đồng thanh bầu ông vào chức vụ Trưởng Ấp, ông vui vẻ chấp nhận ngay, không ḷng ṿng từ chối, không ngại khó, ngại khổ, mà ông cảm thấy đây là cơ hội để ông đóng góp công sức vào việc củng cố thôn ấp, cải tổ làng xă và quy mô hơn là xây dựng đất nước, có nhiều người dân đóng góp công sức, chắc chắn tương lai sẽ là nước mạnh, dân giàu, ông đơn giản nghĩ và nhủ ḷng như vậy .

Ông Tư là một trong những Trưởng ấp xuất sắc của Quận, ông chịu khó t́m hiểu đường lối, chính sách của chính phủ qua sự truyền đạt của các viên chức trong Quận, khi thấu triệt, ông nhẹ nhàng, kiên nhẫn phân giải rơ ràng, lợi hại, cho dân chúng trong ấp hiểu rơ để tham gia, thi hành - Ông thẳng thắn, khoan hoà, trên kính, dưới nhường, không quản ngại khó khăn hay vất vả, nên công việc trong ấp ông luôn tiến triển tốt đẹp - Thôn ấp ông xưa kia là nơi phát xuất phong trào chống thực dân Pháp, có nhiều người tham gia kháng chiến. Có những người sau một thời gian theo kháng chiến, do Việt Minh lănh đạo, họ nh́n rơ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, nấp dưới danh nghĩa giải phóng đất nước, nên đă quay về, nhưng cũng có những người trong vùng ông, v́ lư do này hay lư do khác, vẫn phục vụ cho cộng sản, sau hiệp dịnh Genève 54, họ tập kết ra Bắc, trốn tránh trong mật khu, hay có khi nằm ngay tại một căn hầm bí mật nào đó, quanh quẩn đâu đây thôi, để chờ cơ hội nổi lên chống phá .

Là dân địa phương, ông không lạ ǵ những người này - Ông ra công, ra sức thuyết phục gia đ́nh những người ấy, kết quả là phần lớn đều nh́n rơ dă tâm của cộng sản, quay về với chính nghĩa quốc gia, c̣n một số ít v́ đă "lậm" với chủ nghĩa cộng sản, hoặc v́ khăng khíu bà con, quyền lợi, sự an toàn cá nhân v...v.. nên vẫn tiếp tục đi theo con đường cũ, có điều bây giờ những công việc tuyên truyền rỉ tai, phá hoại, của họ không c̣n có giá trị nữa, v́ người dân đă biết nh́n sự thực và biết so sánh giữa hai chế độ . Ông rất mừng v́ thấy những kết quả khả quan, làm thăng tiến đời sống người dân nông thôn ngày càng vững mạnh, đó là bằng chứng hùng hồn để mọi người chiêm nghiệm và tin tưởng nhiều hơn vào chính nghĩa quốc gia, ông rất hănh diện v́ những thành quả này, v́ trong đó có sự đóng góp một phần nhỏ nhoi công sức của ông. Nhiều lần trên Quận hoặc Tỉnh gởi giấy ban khen, ông đều cảm thấy hơi thẹn thẹn, v́ với tâm hồn chất phác, ngay thẳng, ông tự nghĩ việc đóng góp một chút công sức vào việc xây dựng làng xóm, đất nước là nhiệm vụ chung của người dân, có ǵ quan trọng lắm đâu mà mấy ông trên Tỉnh, Quận coi lớn chuyện quá vậy.

Ư nghĩ đơn giản của ông cũng hợp với ư nghĩ của nhiều người, những người có ḷng đạo đức, sẵn sàng gánh vác việc chung, nhưng ông càng làm được nhiều việc công ích, càng được nhiều người dân trong ấp thương mến, quư trọng, th́ ông lại càng bị một phe khác căm thù, oán hận, đó là những tên cộng sản nằm vùng. Bọn này không thể nào hoạt động, tuyên truyền hay dụ dỗ người dân theo chúng được, v́ những điều Tư Trương đă nói, đă làm, hoàn toàn là những việc mang lại ích lợi chung cho mọi người trong ấp, nó cụ thể, đang xảy ra trước mắt, không phải những hứa hẹn xa vời như các cán bộ cộng sản thường nói - Ông trở thành một chướng ngại to lớn, trên con đường phản dân hại nước của chúng, cần phải tiêu diệt ông, chúng mới có thể hoạt động được - Trong khi đó ông không hề hay biết tính mạng ḿnh đang bị đe dọa, ông vẫn nghĩ ḿnh làm việc công ích, mọi người nếu không quư mến th́ cũng chẳng có ǵ phải ghét bỏ ông cả.

Về đến cổng nhà, đứa con trai nhỏ 3 tuổi, mà ông bà hay gọi đùa là "út một" chạy lăng xăng ra đón, nhơng nhẽo đ̣i ông ẵm lên thả xuống mấy lần, rồi mới bi bô nói chuyện với hai thằng anh, đứa con gái thứ ba đang phụ mẹ dưới bếp, lo bữa ăn chiều cho gia đ́nh. Trời đă chạng vạng, bà Tư hối chồng và hai con lo tắm rửa cho khỏe khoắn trước khi ăn cơm. Cha con ông Tư ra giếng tắm trong khi bà Tư và đứa con gái lo sắp cơm lên bộ ván ở nhà sau, bà lấy cây đèn dầu "cao cẳng" thắp lên cho sáng khắp gian nhà .

Dưới ánh đèn, gia đ́nh ông Tư quây quần quanh mâm cơm, bà Tư cũng là người nội trợ đảm đang, hết ḷng lo lắng cho chồng, con, từng miếng ăn, giấc ngủ - Mâm cơm là cả một sự khéo léo, chế biến của bà, ngoài những món chính như kho mặn, canh chua, rau sống, cho các con ăn cơm, bà c̣n có mấy con cá trê vàng, nướng mỡ hành, dằm nước mắm gừng, để ông Tư làm mồi nhậu - Đây là món ăn khoái khẩu của ông, nên khi nh́n thấy, ông cười khà khà nói với bà: "má nó thiệt biết ư", ông Tư lấy hũ rượu thuốc, rót một ly để nhâm nhi, rồi gia đ́nh vừa ăn vừa chuyện tṛ vui vẻ, "út một" không chịu ngồi bên mẹ, nó chễm chệ ngồi trong ḷng ông bố, thỉnh thoảng há miệng nhận miếng cá nướng , nhai nhóp nhép, nếu không bận nhai, nó lại hỏi bố và hai anh hết chuyện này đến chuyện khác, câu chuyện mà nó quan tâm hơn hết, thường hay hỏi đi, hỏi lại, là có bao nhiêu con dế, chuồn chuồn mà hai anh gặp khi theo Ba đi làm?... Cả nhà cười vui vẻ, không khí trong gia đ́nh thật đầm ấm, hạnh phúc.

Đột nhiên con chó đang nằm chờ ăn dưới gầm bộ ván bỗng hực lên một tiếng, như phát giác có người lạ vào nhà, nó chạy lên nhà trên sủa dữ dội, rồi vừa sủa vừa lùi xuống nhà dưới, mọi người ngồi trong mâm cơm đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện ǵ, bỗng hai bóng người mặc đồ đen từ trên nhà vụt xuống, một tên chĩa cây súng tiểu liên vào ông Tư bắn xối xả, tên kia hai con mắt láo liên canh chừng, sau loạt đạn chớp nhoáng, chúng hè nhau tung cửa sau, lủi ra vườn, trước khi chạy, một tên vứt lại tờ giấy, trên đó viết những ǵ không rơ.

Tiếng đạn nổ làm mọi người trong nhà mất hồn, đồng thời khuấy động cả xóm, bà Tư đứng chết trân, trợn trừng đôi mắt, nh́n chồng đang quằn quại trong vũng máu, thằng út gục chết trên bụng bố, tấm thân nhỏ xíu cũng đẫm đầy máu, máu nó và máu bố nó, hai thằng anh và đứa em gái ôm chặt lấy nhau, mặt xanh như tàu lá, chúng c̣n sợ lắm, không dám nhúc nhích, thậm chí c̣n không dám thở mạnh nữa - Ông Tư chợt nấc lên một tiếng lớn, thân ḿnh quằn quại, hai mắt đứng tṛng, máu từ ngực, từ bụng ông vẫn tuôn ra ồng ộc, bà Tư nghe tiếng nấc của ông chợt tỉnh, cảnh tượng tang thương trước mắt làm bà cũng không c̣n đủ b́nh tĩnh, bà hét lên một tiếng "ông ơi" rồi lăn xả vào, ôm ông dậy, lay cho ông tỉnh, vừa lay, bà vừa kêu khóc thảm thiết, máu me dính đầy áo quần bà, mấy đứa con thấy mẹ lên tiếng cũng bớt sợ, chúng cũng gọi Ba, gọi em rồi gào khóc với mẹ - Bà con cḥm xóm nghe tiếng khóc trong nhà vội vàng chạy đến, mọi người sững sờ trước cảnh giết người tàn nhẫn, thương tâm như vậy, hai cha con ông Tư chết ngay tại mâm cơm, trên thân thể hai cha con lỗ chỗ vết đạn - Không thể làm ǵ để cấp cứu được nữa, bà con bảo nhau cho người báo lên Xă, Quận, mọi người chờ đợi chính quyền xuống lập biên bản xong, sẽ giúp thu xếp, dọn dẹp.

Theo biên bản của Quận, ông Trưởng ấp Lê Văn Trương đă bị việt cộng ám sát lúc 7 giờ tối, ngày 14 tháng 4 năm 1959, tại tư gia, trong bữa cơm chiều, bằng súng tiểu liên - cùng tử nạn với ông có đứa con trai, tên Lê Văn Thuận, 3 tuổi - Sau khi khám nghiệm tử thi, pháp y đếm được 14 vết đạn trên ngực và bụng người bố, 11 vết đạn trên ngực, cổ và đầu em bé, có những viên đạn xuyên qua thân xác người con, rồi mới ghim vào người bố, tổng số vỏ đạn nhặt được ở phạm trường là 22 - Các chuyên viên vũ khí xác nhận đây là loại đạn 9 ly, dùng cho súng tiểu liên MAS. 49, do Pháp chế tạo - Tội ác nhăn tiền này, do cán bộ cộng sản nằm vùng gây ra, chúng đă để lại một tờ giấy có ghi những chữ như sau : "Đội hành quyết thi hành án tử h́nh tên việt gian Lê Văn Trương, tay sai Mỹ-Diệm". Mọi chứng cớ đă rơ ràng, các vết thương trí mạng, đều do bọn khủng bố bắn bằng súng tiểu liên, với khoảng cách gần, đạn xuyên thủng, hoặc c̣n nằm trong thân thể, gây tử vong cho nạn nhân, v́ thế Hội đồng Pháp Y quyết định, không cần thiết phải đưa đi giải phẫu giảo nghiệm tử thi, mà cho phép thân nhân được giữ thi hài tại nhà để lo tang lễ.

Ông Tư Trương là người đầu tiên trong Xă bị ám sát, tiếp theo đó có thêm 4 người nữa, gồm 1 Trưởng ấp, 1 Xă trưởng, 1 Ủy viên Cảnh sát và một Đồn trưởng Dân Vệ, không khí khủng bố bao trùm khắp làng xă, cho đến mấy tháng sau, khi chính quyền đẩy mạnh phong trào ấp chiến lược, củng cố an ninh thôn ấp, sàng lọc những phần tử nằm vùng, việc ám sát các cán bộ chính quyền Xă, Aáp mới được chặn đứng - Hơn nữa, sau vài ba vụ án, những người tham gia chính quyền cũng đề pḥng cẩn mật, lực lượng an ninh, Dân vệ, cũng tuần pḥng nghiêm ngặt, nên bọn chúng khó bề thao túng.

Đối với Bà Tư, cái chết của ông Tư và đứa con nhỏ là một mất mát quá lớn lao cho Bà và các con, nhưng là người đàn bà Việt Nam, mang đầy tính cần cù, nhẫn nại, bà cắn răng chịu đựng, thay chồng nuôi con - Để an ủi bà, chính quyền các cấp cũng hết ḷng giúp đỡ về tinh thần, vật chất đủ lo cho bầy con - Thêm vào đó, bà con cḥm xóm, sẵn cảm t́nh gắn bó với gia đ́nh bà từ trước, cũng quây quần, săn sóc bà và lũ nhỏ, bà cảm thấy cuộc đời cũng bớt cô quạnh - Bà và ba đứa con cứ như vậy, sống và khôn lớn trong t́nh yêu thương đùm bọc của mọi người .

Ngoài Tư Hiếu, đứa con gái của bà, không có ấn tượng ǵ rơ nét đối với cái chết của cha, nhưng bà và hai thằng con trai : Hai Tài, Ba Đức, th́ lúc nào cũng canh cánh bên ḷng cái chết tức tưởi của người chồng, người cha yêu dấu - Hai thằng con bà chỉ trông cho mau lớn để gia nhập quân đội, giết hết bọn Việt cộng, trả thù cho bố và những người bị chúng ám sát chết oan ức .

Thời gian lặng lẽ trôi qua, sau cuộc đảo chánh 1-11-63, t́nh h́nh chính trị của miền Nam không c̣n ổn định như trước. Ấp chiến lược bị phá bỏ, bọn VC lại có dịp trở về làng xă hoành hành như trước, ban đêm, chúng từ "căn cứ lơm" trở ra thu thuế, nhận tiếp tế, đôi khi c̣n tập họp dân chúng ở một vài nơi hẻo lánh để tuyên truyền nữa. Hai Tài năm ấy mới 16 tuổi, đang học lớp 10, nó sốt ruột lắm rồi, chỉ nhấp nhổm muốn đi đăng lính vào năm tới, nhưng nhiều người khuyên nó nên kiên nhẫn chút nữa, cố gắng học thêm, lấy được bằng Tú tài để đi sĩ quan, bề ǵ cũng hay hơn. Khi tṛn 19, vừa đậu Tú Tài, nó không suy nghĩ và cũng chẳng cần hỏi ư kiến ai nữa, tức tốc t́nh nguyện vào Thủ Đức ngay. Măn khóa, Chuẩn úy Lê Văn Tài được đưa về binh chủng Biệt Động Quân. Sau vài ba lần bốc thăm chọn đơn vị, Tài thuyên chuyển ra Tiểu đoàn 22, Liên đoàn 2/ BĐQ, đóng tại Pleiku, Tài tham dự hầu hết những cuộc hành quân lớn nhỏ của đơn vị và với ḷng căm thù giặc cộng ngất trời. Chuẩn úy Tài luôn luôn là người tiên phong trong mọi công tác, nhất là những cuộc phục kích, với tính kiên tŕ chờ đợi, ít khi trung đội của Tài đi không về rồi - Hương hồn ông Tư chắc cũng ngậm cười nơi chín suối, mong ông phù hộ cho con trai b́nh an trong mọi công tác an dân, trừ loạn.

Nhà chỉ c̣n ba mẹ con, Hai Tài đă ra đi, Ba Đức tất nhiên là người đàn ông duy nhất trong gia đ́nh, nhưng với ḷng căm thù của nó, anh Hai nó đă đi rồi, nó lại càng nôn nóng đi theo, chứ không hề nghĩ rằng nó sẽ phải ở nhà lo cho mẹ - Với Ba Đức, việc học hành nhẹ nhàng hơn, 18 tuổi nó xong bằng Tú Tài, cũng mắt trước mắt sau t́nh nguyện vào Thủ Đức, rút kinh nghiệm người anh, nó chẳng cần bàn soạn với ai, sau khi nộp đơn và nhận được giấy gọi, nó vẫn kín như bưng, đợi đúng ngày là lừng lững khăn gói vào trại nhập ngũ số 3 - Cả tuần sau Bà Tư mới biết rơ t́nh trạng của Ba Đức, bà khóc quá, không phải bà lo sợ các con bà phải xông pha nơi lằn tên mũi đạn, nhưng bà khóc v́ nghĩ tới những ngày cô đơn sắp tới, nếu Ba Đức ra đi, nhà chỉ c̣n hai mẹ con, là đàn bà cả, biết lấy ai trụ cột gia đ́nh - Có người hiểu chuyện bàn với bà, nên đi lên tŕnh bày với ông Quận trưởng, xin ông giúp đỡ, bằng cách cấp cho một giấy chứng nhận gia cảnh để xin miễn hay hoăn dịch cho Ba Đức. Ông Quận Trưởng mới về coi Quận được vài năm, ông dân Bắc kỳ chính hiệu, nhưng có vẻ rất "rành sáu câu", nghe Bà Tư tŕnh bày tự sự, ông hiểu ngay sự việc này phát xuất từ ḷng căm thù cộng sản đến cao độ mà ra, xét đến hoàn cảnh Bà Tư, ông bỗng thấy có thiện cảm với gia đ́nh bà, v́ chính thân phụ ông cũng bị bọn Việt minh thủ tiêu, khi ông cụ chỉ là một ông Chánh Tổng. Ông ân cần thăm hỏi cặn kẽ, cấp giấy chứng nhận theo đơn xin, đồng thời ông cung cấp phương tiện chuyên chở, c̣n cắt cử luôn ông Trưởng Ban 5 Chi Khu, đích thân lo liệu vụ này giúp bà Tư. Nhờ mọi người hết ḷng giúp đỡ, chỉ 1 tuần sau, mẹ con Bà Tư đă ng̣âi chờ tại pḥng tiếp khách của Quận, đợi ông Quận trưởng ra để trực tiếp cám ơn ông. Nh́n mái tóc ngắn ngủn của Ba Đức, bà Tư thấy tức cười, thật hú hồn, hú vía, xém chút nữa thằng con bà cũng lại đi biền biệt như anh nó.

Ba Đức ngồi đối diện với ông Quận Trưởng, lắng tai nghe giọng nói đều đều của ông chậm rải như rót vào tai:
- Tôi biết cháu nóng ḷng v́ thù nhà, nợ nước, nhưng thật sự th́ chính phủ cũng không đ̣i hỏi nhiều ở gia đ́nh cháu đâu, anh cháu đă nhập ngũ rồi, c̣n ḿnh cháu ở nhà lo săn sóc mẹ và em, tôi nghĩ cháu cũng nên suy xét lại, đừng làm mẹ cháu phải lo lắng nhiều hơn.
- Thưa ông Quận, mỗi lần nhớ tới h́nh ảnh ba và em cháu chết thảm trước mâm cơm, ḷng cháu lại sôi sục căm thù, anh em cháu có nói chuyện với nhau và hứa trước vong linh ba cháu, chúng cháu sẽ tận diệt bọn cộng sản, nếu không cũng phải trừ khử càng nhiều, càng tốt, để trả thù cho ba cháu và những người dân vô tội khác bị chúng giết.

Trong khi ông Quận Trưởng gật gù ra chiều suy nghĩ, Ba Đức thấy ông chưa nói ǵ, anh ta vội nói tiếp:
- Cháu cám ơn ông Quận đă lo cho gia đ́nh cháu, cháu cũng ráng chờ đôi ba năm nữa, con em cháu có chồng, là có người lo cho mẹ cháu với nó, lúc đó cháu sẽ đi.

Nghe Ba Đức nói, ông Quận lắc đầu nhè nhẹ, miệng hơi mỉm cười như có vẻ thấy hay hay v́ tính cương quyết của cậu bé . Ông nghĩ thầm trong bụng : "Những đứa như thế này th́ nó đánh giặc phải biết đây" - Đột nhiên ông nảy ra một ư nghĩ hơi là lạ, ông thăm ḍ :
- Muốn báo thù cho Ba cháu và những người trong Xă, bị VC ám sát mấy năm trước, tại sao cháu không hoạt động ngay tại Xă nhà, trừ ngay chính những tên đă cầm súng giết hại Ba cháu và những người khác, có hay hơn không .
- Dạ thưa ! Làm sao có thể như vậy được ông Quận.

- Được lắm chứ!

Ông Quận nở một nụ cười thật hiền, dẫn giải:
- Cháu phải biết rằng, bọn VC nằm vùng từ trước đến nay chỉ hoàn toàn hoạt động có tính cách cục bộ, vùng nào quậy phá ở vùng đó thôi . Như vậy có thể nói, những đứa ám sát ba cháu toàn là bọn sinh đẻ, hay cư ngụ trong Xă, chúng nắm vững t́nh h́nh tại địa phương, chúng được cấp chỉ huy của chúng cắt đặt phải nằm vùng, thoát ly, tập kết v . . .v . . , muốn trừ khử chúng, ta cứ bắt đầu từ đây là đúng nhất . Nếu cháu muốn hoạt động trong ṿng bí mật th́ gia nhập Thám Báo của Quận, hay làm Mật báo Viên, Cảnh Sát Đặc Biệt chẳng hạn - C̣n nếu cháu muốn cầm súng chiến đấu th́ gia nhập Nghĩa Quân - Có văn hóa như cháu nếu nhập ngũ cũng đi học sĩ quan, ra trường mang cấp bậc Chuẩn úy, làm Trung đội Trưởng - Trường hợp cháu vào Nghĩa Quân ở quận nhà, sau ít tháng, tôi sẽ gởi cháu đi học khóa Trung đội Trưởng, sau đó cháu cũng làm Trung đội Trưởng Nghĩa Quân, cũng có ba mươi mấy, bốn chục người lính, cũng hành quân như ai, có điều tầm hoạt động chỉ quanh quẩn trong phạm vi của Xă, nên cháu vẫn có thể chăm sóc gia đ́nh b́nh thường , giúp đỡ mẹ và em những việc nặng nhọc, không sao.

Hai mẹ con Ba Đức chăm chú theo dơi từng lời nói của ông Quận - Bà Tư có vẻ đồng ư với giải pháp này, c̣n ǵ sung sướng hơn khi thấy chính kẻ giết chồng ḿnh bị đền tội dưới mũi súng của con ḿnh - Ôi! thật tuyệt ! - Bà quay sang nói với con:
- Đúng đấy con ạ ! Cứ như lời ông Quận nói, nếu con làm việc trong Xă nhà, rồi hạ được những đứa đă sát hại ba con, th́ c̣n ǵ sung sướng cho mẹ hơn nữa . Mẹ c̣n nhớ như in nét mặt của hai đứa đă xả súng bắn vào ba con và em Thuận.

Lời nói của bà Tư làm cả ông Quận lẫn Ba Đức đều bất ngờ, thích thú - Đối với ông Quận, việc Ba Đức biết được tin này, chắc chắn anh ta sẽ không đi đâu nữa cả, muốn báo thù nhà, cứ việc gia nhập nghĩa quân là xong - Vậy là ông có dịp đưa những người trẻ, có học vào lực lượng Nghĩa quân, hầu nâng cao khả năng tác chiến các trung đội sau này - Với Ba Đức đây là điều hắn khắc khoải từ lâu, làm sao biết được đứa nào đă sát hại ba hắn, chả lẽ cứ gặp VC là giết, cũng đúng thôi, nhưng nếu hạ chính những tên đă nhúng máu cha ḿnh, sự trả thù, dĩ nhiên, sẽ thống khoái hơn nhiều chứ . Hắn nh́n mẹ bằng ánh mắt băn khoăn, như có nhiều điều muốn hỏi - May quá, ông Quận đă gỡ rối giúp:
- Bây giờ bà c̣n có thể nhận diện ra chúng nó không?
- Thưa ông Quận, chắc chắn tôi vẫn nhận ra.

Ông Quận đưa tay nhấn chuông, người tùy phái bước vào chờ lệnh, ông bảo:
- Mời Đại úy Trưởng Ban 2 lên gặp tôi.

Người tùy phái lui ra, chỉ một phút sau, viên Đại úy Trưởng Ban 2 bước vào, chưa kịp đưa tay chào th́ ông Quận đă hỏi:
- Anh có đủ hồ sơ, h́nh ảnh bọn VC cơ sở, giao liên, nằm vùng trong Quận ḿnh không?
- Thưa, về lư lịch có đủ, nhưng h́nh ảnh th́ đứa có, đứa không ạ!

- Anh về lấy đưa lên tôi xem và tiện dịp cho bà Tư đây nhận diện luôn thể.

Cũng chỉ mấy phút sau, Đại úy Trưởng Ban 2 trở lại với một chồng hồ sơ dầy cộm đặt trước mặt ông Quận, ông ra lệnh:
- Để khỏi mất th́ giờ, Đại úy lấy ngay hồ sơ của những tên thuộc Xă của Bà Tư trước, cho bà ấy nhận diện.

Ông Đại úy nhanh nhẹn lựa một tập hồ sơ đặt trước mặt ông Quận - Ông Quận Trưởng thong thả lật từng tơ,ø thỉnh thoảng gặp chỗ nào có ảnh, ông đưa qua cho Bà Tư coi, tập hồ sơ ngày càng mỏng dần, bà Tư đă coi hàng chục tấm ảnh, nhưng chưa nhận diện được ai, đến tấm ảnh cuối cùng trong tập hồ sơ, bà bỗng kêu "Á" lên một tiếng, tay run run chỉ vào, giọng nói lạc hẳn đi:
- Đúng tên này đây, ông Quận.

Ông Quận Trưởng đưa tấm ảnh đến trước mặt Ba Đức để hắn nh́n cho rơ - Đức chăm chú ngó, cặp mắt mở rộng, nét mặt hằn nên vẻ căm thù, như muốn ăn tươi nuốt sống người trong ảnh, một lát sau, chừng như đă ghi nhận đầy đủ h́nh ảnh kẻ thù, Đức mới liếc mắt đọc đến phần lư lịch:
- Vơ văn Bầu tự Bầu Cá, sinh năm 1939, cha vô danh, mẹ Vơ thị Bảy, nghề nghiệp: ở đợ - Bắt đầu hoạt động giao liên cho Việt minh từ năm 1950 - Năm 1952 bị Pháp bắt giam, đến năm 1953 được thả, vẫn tiếp tục hoạt động cho Việt minh, sau 1954 không thấy xuất hiện, có nguồn tin cho rằng y đă tập kết ra Bắc, đầu năm 1959, y xuất hiện trở lại trong vai tṛ khủng bố, thường hay từ "căn cứ lơm" ra các cơ sở nằm vùng của chúng ở các Xă chung quanh để thu thuế, nhận tiếp tế, đôi khi ám sát các viên chức của ta. Theo nguồn tin t́nh báo, y hiện ở trong Ban ám sát Quận.

Điều quan trọng đối với Ba Đức là nhận rơ mặt những tên VC này, c̣n phần lư lịch, hoạt động của chúng th́ có càng tốt, không có cũng chẳng sao, hận thù của Ba Đức hiện đang ngút ngàn, nó nghĩ thầm trong bụng: bây có làm được việc hay không được việc, thành tích nhiều hay thành tích ít cũng đều đáng chết cả. Với nó, một chú bé 18 tuổi, mang mối thù giết cha, th́ chính phủ rất phí phạm tiền bạc, công sức để lập ra Bộ Chiêu Hồi.

Bà Tư coi đến quyển thứ hai, không có ǵ, quyển thứ ba cũng vậy, đến quyển thứ tư cũng là quyển chót, được vài tờ, bà lại nhận diện được một tên nữa - Nh́n tấm ảnh tên này, Ba Đức thấy mặt mũi nó có vẻ sáng sủa nhưng gian ác hơn tên Bầu Cá - Tên này lớn tuổi hơn, đọc phần lư lịch, Ba Đức thấy ghi:
- Nguyễn văn Sang, tự Hai Sang, tên Cha Nguyễn văn Giàu, mẹ Trần thị Nhỏ, sinh năm 1929 - Hai Sang thuộc loại gia đ́nh khá giả, nhưng tính t́nh gian trá và ham chơi - Năm 1950, y là Thủ Bạ trong Hội đồng Tề của làng, nhưng v́ gian lận, biển thủ công quỹ nên bị tù 2 năm, sau khi được thả, v́ đă có tiền án, y không làm được công việc ǵ cả, y bất măn đi theo Việt minh. Thời gian đầu y hoạt động rất tích cực, hiện nay y đă được tin dùng và là một trong những tên chỉ huy ṇng cốt của Huyện ủy.

Không hiểu có sự may mắn ǵ run rủi, mà công việc tiến triển một cách tốt đẹp, mẹ con Ba Đức không ngờ sự việc được giải quyết một cách nhanh chóng và nhiều thuận lợi cho gia đ́nh như vậy. Hai mẹ con không ai nói ra, nhưng đều thầm nghĩ: "Có lẽ hồn thiêng ông Tư xui khiến, nên mới đẩy đưa đến cơ hội may mắn này?"

Trước khi chia tay, ông Quận ân cần nói với Ba Đức:
- Cháu cứ về nhà nghỉ ngơi, lo việc gia đ́nh, và suy nghĩ cho chín chắn, vài tháng nữa lên đây, sẽ có việc cho cháu làm thôi!

....... . . . . . . . Ḷng nóng như lửa đốt, làm sao có thể chờ đợi vài tháng như lời ông Quận nói - Chỉ mươi ngày sau, Ba Đức đă lấp ló trên văn pḥng Quận để xin gia nhập Nghĩa quân, ông Đại úy Trưởng Ban 2, đă biết mặt Đức, đem nó vào Ban 1 để giới thiệu và hỏi dùm nó thủ tục gia nhập. Một khi đă quyết chí th́ mọi trở ngại, rắc rối đều phải cố gắng vượt qua, huống chi đối với trường hợp Ba Đức ai ai cũng đều rơ và thông cảm với nó, v́ thế chỉ một tuần sau là nó đă có mặt trong lực lượng Nghĩa quân Quận, chờ đi Trung Tâm huấn luyện để học quân sự.

Chuyện một thanh niên có bằng Tú Tài, hoặc bằng cấp cao hơn, gia nhập Nghĩa quân không phải là chuyện lạ ở mấy xă ven đô , v́ những người đó, thực sự chỉ t́m một chỗ hợp lệ t́nh trạng quân dịch, để tính toán những việc khác cho cuộc đời họ - Nhưng với Ba Đức, đây là dịp nó mang hết khả năng để phục vụ, nói đúng hơn nó sẽ tận lực để báo thù...

Từ lúc học quân sự xong, chính thức trở thành một Nghĩa quân viên, Ba Đức không từ nan một công việc ǵ mà Trung đội cắt cử cho hắn, từ tuần tiễu đêm, hoạt động thám sát địa thế, phục kích trên những trục lộ mà bọn giao liên thường qua lại - Với tinh thần phục vụ cao, tuổi trẻ, nhanh nhẹn, tháo vát, nhất là luôn t́nh nguyện trong những công tác khó khăn, nguy hiểm, Ba Đức dễ dàng chiếm được cảm t́nh của đa số đồng đội và những viên chức trong Quận.

Đúng như lời ông quận Trưởng đă hứa, chỉ sáu tháng sau Ba Đức được đề nghị theo học khóa Trung đội trưởng Nghĩa Quân - Ngoài vấn đề giữ lời hứa, ông Quận c̣n nói thẳng với mọi người là Ba Đức rất xứng đáng theo học khóa này, căn cứ vào tŕnh độ văn hóa và nhất là tinh thần phục vụ của nó trong sáu tháng qua mà mọi người đă biết.

Đúng như sự tiên đoán của ông Quận "Bắc Kỳ", từ ngày Ba Đức được chính thức nắm chức Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân, chỉ trong ṿng hơn một năm trời, hắn đă đưa Trung đội của hắn lên hàng đầu của Quận, rồi của Tỉnh - Những thành tích mà Trung đội Ba Đức lập được không ai có thể chối căi, số địch quân bị hạ trong những trận phục kích, số vũ khí tịch thu được, t́nh trạng an ninh trong vùng hoạt động của Ba Đức ngày càng khá hơn, đă chứng minh điều đó.

Khi đă được nhiều người tin yêu, giúp đỡ, Ba Đức mới nghĩ đến việc tổ chức riêng một mạng lưới t́nh báo, hầu theo dơi những tên có trong sổ đen, tức là những tên xa gần đă nhúng tay vào máu ba và em anh ta. Người ta thấy Ba Đức hay qua lại với Đại úy Trưởng Ban 2 Chi Khu để trao đổi tin tức và những lần phục kích của Ba Đức đạt kết quả cao hơn, v́ nhờ tin tức t́nh báo chính xác - Thời điểm này là lúc cao trào "làm ăn" của Trung đột Ba Đức lên thật cao - Anh ta "phát minh" ra kiểu phục kích bằng ḿn Claymore cơ động, hàng đêm,Trung đội tung ra bốn, năm điểm phục kích, mỗi điểm chỉ ba, bốn người, bọn họ gài ḿn Claymore, cho nổ khi ng̣i nổ chạm điện, rồi tùy theo vị trí, họ đặt ḿn theo ṿng cung, thước thợ, nổ dọc hay chặn ngang v...v... tính toán làm sao để triệt hạ bằng hết những tên trong tổ của chúng, những cái bẫy để bọn VC đạp nổ được ngụy trang khéo léo - Đặt ḿn xong, họ t́m một chỗ an toàn nằm chờ, nếu đêm ấy, điểm phục kích phát nổ là họ "có ăn", họ tức tốc gọi ngay về Quận, xin Pháo Binh diện địa "chơi" thêm cho vài trái nổ chụp, rồi nằm chờ sáng ra ...lượm súng - Nếu không có ǵ, họ chịu khó dậy sớm, ra gỡ ḿn về, để hôm sau .....làm tiếp - Những hoạt động tích cực và đạt nhiều kết quả như vậy, đương nhiên Ba Đức trở nên cái gai trước mắt bọn VC - Theo tin tức từ trong mật khu ở "căn cứ lơm", t́nh báo ta cho biết, VC đă họp nội bộ, nhất quyết t́m cách hạ Ba Đức, để cứu vớt tổ chức của chúng đang trên đà dần dần bị tiêu diệt, chúng cũng đă hoạch định cả một trận tấn công quy mô vào đồn Nghĩa quân do Trung đội Ba Đức trấn đóng, để tiêu diệt bằng được tên "Trung đội Trưởng ác ôn", đă hạ rất nhiều các "cán bộ cách mạng", đồng bọn của chúng - Nhận được tin này, Ba Đức thích lắm, hắn họp hành liên miên với ông Trưởng Ban 2, Ban 3 và Ông Quận Trưởng đều phác họa một kế hoạch ngăn chặn.

Trong một buổi họp, Ba Đức tŕnh bày ư kiến:
- Con (đối với ông Quận và các cấp trong Quận, Ba Đức đă nhiều lần đắn đo suy nghĩ, bằng vào tuổi tác và với sự yêu thương mọi người dành cho, chỉ c̣n cách xưng con với họ là đúng hơn cả) - Con nghĩ tụi nó có "uấn" cũng c̣n lâu, ít ra nó c̣n phải điều nghiên, rồi xin xin lực lượng về cũng mất nhiều thời gian - Việc ông Quận với mấy Thày lo th́ cứ lo, phần con, con sẽ cùng anh em bung ra thật nhiều, để "hốt" trước mấy thằng về điều nghiên là tụi nó hết đánh luôn thôi.

Mấy ông nh́n nhau tủm tỉm cười - Đối với Ba Đức, chuyện ǵ nó cũng cho là "ngon ăn" cả - Nhưng thật sự nó nói rất có lư - Chặt xong mấy thằng đi điều nghiên, c̣n ai đưa đường dẫn lối nữa mà đánh với đấm, có điều không hiểu giờ nào chúng mới đi điều nghiên, đi bao nhiêu lần, phương hướng thế nào - Chặn được bọn này phải mất bao nhiêu công lao, ngày giờ v...v... Nghĩa là muốn làm việc này phải có thừa can đảm và ư chí - Chuyện này Ba Đức có thể đảm đương, v́ nó có đủ cả hai yếu tố đó - Cộng với ḷng căm thù nung nấu - Ba Đức không khi nào bỏ cuộc, đă nói là làm và làm đến nơi đến chốn.

Ba Đức quay về Trung đội, họp tất cả anh em tŕnh bày những hoạt động trong thời gian tới, anh ta dấu chưa cho mọi người biết tin tức nhận được là VC sẽ t́m cách triệt hạ anh ta bằng mọi giá, kể cả việc tấn công nơi Trung đội trú đóng . Mọi người thấy đây cũng giống như công việc b́nh thường, bất quá có nằm nhiều chỗ hơn thường lệ cũng không sao - Họ vui vẻ thi hành v́ đặt hết tin tưởng vào Ba Đức mà không hề thắc mắc ǵ cả . Ba Đức âm thầm, lặng lẽ làm theo chương tŕnh đă hoạch định - Một tháng rồi hai tháng, năm sáu điểm kích của Trung đội đi không lại về không, chẳng được chút kết quả nào cả - Ba Đức đă hơi nản chí, nhưng rồi anh ta bỗng nảy ra một ư nghĩ , có lẽ địch đánh hơi, hay chúng cũng có tai mắt, nên Trung đội càng đi ra khỏi đồn nhiều, địch càng giữ kỹ, không ló mặt ra nữa, v́ thế Ba Đức đánh lừa địch bằng cách không cho anh em ra khỏi đồn nữa - Tất cả Trung đội bỗng được lệnh tu bổ hệ thống pḥng thủ, đêm đêm thủ đồn, canh gác cẩn mật mà thôi - Đêm thứ nhất, Ba Đức ở trong đồn cùng anh em, đêm thứ hai, trời vừa tối hẳn, Ba Đức giao tất cả mọi việc trong đồn cho người Trung đội phó, anh ta cùng ba người t́nh nguyện, âm thầm rời đồn đi ra - Đêm đó và đêm kế tiếp yên tĩnh - Đến đêm thứ ba, vào lúc 1 giờ sáng, có tiếng ḿn claymore nổ liên tiếp 4 lần, mọi người trong đồn được báo động ra vị trí pḥng thủ, trong hầm chỉ huy, người hiệu thính viên ngạc nhiên thấy hệ thống truyền tin êm re, chẳng thấy trên Quận hỏi han rối rít như mọi khi nghe tiếng nổ, c̣n ông Trung đội phó ngồi tỉnh bơ hút thuốc, không hề lên tiếng, đă vậy sau dăm phút c̣n có thêm mấy tiếng nổ do pháo binh bắn đạn nổ chụp, rồi tất cả trở về im lặng - Trung đội được lệnh nằm ngủ tại vị trí pḥng thủ.

Bốn giờ rưỡi sáng, ông Trung đội phó đánh thức tất cả dậy báo tin, đêm qua, Ba Đức và mấy anh em âm thầm ra ngoài đồn phục kích và đă chạm địch, v́ những tiếng nổ đêm qua anh em đă nghe - ông cắt đặt một tiểu đội ở lại coi đồn, c̣n tất cả chờ trời rạng sáng sẽ theo sự chỉ huy của ông ra lục soát.

Kết quả cuộc phục kích bằng ḿn đem lại kết quả ngoài sự mong đợi của mọi người - Bốn tên chết tại chỗ, một tên găy cẳng, nằm lại bị ta bắt sống - Điều làm cho Ba Đức sướng phát điên lên được là trong 4 tên chết, có cả hai tên Vơ văn Bầu, tự Bầu Cá và Nguyễn văn Sang, tự Hai Sang, hai tên đă ám sát ông Tư Trương và một số viên chức xă ấp năm nào . Theo cung từ của tên c̣n sống sót, đúng có hai tên Bầu và Sang, chúng đi điều nghiên đồn Nghĩa quân - Quả như sự phán đoán của Quận, hai tên này, giờ đă thuộc thành phần lănh đạo, chúng chỉ xuất hiện trong những trường hợp đặc biệt, hạ được chúng phải kể là rất may mắn....

Ba Đức đang ngồi nói chuyện với mẹ, bà Tư hôm nay trong ánh mắt đă ánh lên niềm vui - Ước vọng của bà đă thành sự thực, những kẻ giết chồng bà và các người lương thiện, nay đă đền tội, và đặc biệt là đền tội dưới tay con bà - Hôm nghe tin Ba Đức đă hạ được mấy tên này, Bà và con Hiếu vội vàng bỏ cả công việc, hai mẹ con dắt nhau chạy lên trụ sở Xă, v́ những xác chết được đem về đó để bà con nhận diện - Những người có mặt tại chỗ ngày hôm đó thật cảm động khi chứng kiến hành động của bà - Bà nh́n sững hai xác chết tên Bầu Cá và Hai Sang, tay run run chỉ vào mặt chúng, miệng lắp bắp: "Đúng, đúng chúng nó" - Hai hàng nước mắt bà rơi ṛng ṛng. Đột nhiên bà ôm chặt Ba Đức và Tư Hiếu cười như điên dại, giọng cười thật thỏa măn, trong khi đôi ḍng lệ vẫn tuôn trào như suối . Nhớ lại quang cảnh ngày hôm đó, bà vẫn c̣n thấy nao nao trong dạ - Khi biết chắc mối thù của ḿnh đă được thằng con trai cưng trang trải, bà an tâm, đưa mắt quan sát chung quanh, nhiều người sau khi nhận diện những tên sát nhân, biết chắc chúng là những tên đă giết người thân của ḿnh, nay thật sự đă đền tội, ai nấy đều có cảm t́nh với những người thay họ mà trả thù - họ đến bắt tay Ba Đức và mấy người cùng đi với anh đêm ấy, các bà th́ kéo tay, ôm vai, một vài bà c̣n mếu máo nói với người đă khuất, nhưng để gián tiếp cám ơn Ba Đức và mọi người: "Ông ơi ! vậy là ông ngậm cười chín suối nghe! thù của ông có người trả dùm rồi !". Chợt nhớ lại chuyện ǵ đó, Ba Đức quay sang nói với mẹ, giọng rất thật t́nh:
- Không phải tụi con hay ho ǵ đâu má, làm như có sự run rủi của ba nhà ḿnh với mấy người bị chúng nó giết, nên tụi nó tự t́m đến chỗ chúng con gài ḿn đấy chứ - chỗ đó tụi con chỉ gài cầu may thôi chứ có tính toán ǵ như mọi khi đâu.

Bà Tư nh́n con tŕu mến, gật gù ra vẻ đồng ư, nhưng miệng bà mỉm cười, thầm mắng yêu thằng con:
- Thằng thiệt dễ thương, không bao giờ nhận riêng cho ḿnh một công trạng nào cả.

Cũng v́ vậy mà Bà Tư đă vui vẻ hạ một con heo tạ, trước là để cúng chồng, con, sau để Bà và các con tạ ơn Trời đất cùng những người đă tạo cơ hội, góp công sức trong việc trả thù chung này.

Bỗng có tiếng xe gắn máy tới gần, rồi ngừng trước ngơ, một bà già xăng xái bước vào, theo sau là người thiếu nữ, tuổi ngoài 20 , dắt chiếc Honda Dame . Bà già chân bước, miệng nói liến thoắng:
- Chị Tư ơi! có nhà không, ghé thăm chị chút nè!

Bà Tư và Ba Đức nghe vậy, cùng đứng dậy bước ra - Hai Bà dường như có quen nhau từ trước, chào hỏi tíu tít - Sau khi cúi đầu chào bà khách, Ba Đức đưa mắt sang nh́n người thiếu nữ, chàng ta chợt sững sờ v́ vẻ đẹp của cô nàng - Khó nói quá - Vừa đơn sơ, vừa quyến rũ - vừa nghiêm trang, vừa mời gọi - Không biết diễn tả thế nào, nhưng đúng như t́nh trạng của Ba Đức gặp bây giờ, người ta gọi là "tiếng sét ái t́nh" th́ phải - Phần cô gái cũng không khá ǵ hơn, sau khi cúi chào mẹ con Bà Tư, thấy cung cách Ba Đức nh́n ḿnh, cô bỗng thấy mất tự nhiên, tim cô không c̣n đập b́nh thường nữa, nó rộn ràng, gấp rút hẳn lên, rồi một luồng hơi nóng từ ngực bốc thẳng lên mặt, làm mặt cô vụt bừng đỏ - Cô luống cuống, loay hoay dựng chiếc xe măi mà không được, Ba Đức thấy vậy chạy lại giúp, khiến mặt cô đă đỏ càng đỏ thêm - Bà Tư lên tiếng giới thiệu vói con trai:
- Con à! Bà đây là bà Sáu Phúc, ổng làm Xă Trưởng ở xă trên, ổng cũng bị nạn hồi đó, cũng do mấy tên đă ám sát ba con giết hại, sau ba con ít tuần thôi.

Bà Sáu vui vẻ tiếp lời:
- Thiệt t́nh chỉ v́ chuyện gặp nạn của mấy ổng, chị em ḿnh mới quen biết nhau há chị Tư - Bây giờ có lẽ c̣n thân thiết hơn, v́ gia đ́nh tôi mang ơn cháu Ba nó ở đây nhiều lắm.
- Có ǵ đâu mà chị Sáu coi trọng như vậy - Bất quá cũng chỉ là nhiệm vụ của cháu thôi mà.

- Chị nói vậy đâu được, không có anh em tụi nó, biết đến bao giờ mấy ổng mới xong được cái oán này - Chị Tư c̣n hy vọng v́ có con trai, chớ gia đ́nh tôi th́ đành chịu - Bốn đứa con gái cả - Rồi như muốn nhân dịp này giới thiệu cô gái, bà day qua cô ta:
- Nhỏ này là út đây, cháu tên Dung, đang học trên Sàig̣n, nhưng năm nay tôi bắt nghỉ, về nhà mẹ con hủ hỉ với nhau, mấy con chị nó có chồng hết rồi, nhà vắng hoe... à !!

Sau choáng váng v́ bất ngờ gặp gỡ, Ba Đức đă b́nh tĩnh trở lại, nghe bà già nói chuyện, chàng ta nghĩ bụng: " Bà già thiệt hay, chỉ vài câu nói đă giới thiệu tạm đủ về con gái của bà - H́nh như bà muốn đem con khoe với ḿnh và để "cho" ḿnh th́ phải" - Ư nghĩ chợt đến làm Ba Đức khoái chí, mỉm miệng cười, đưa mắt nh́n sang cô gái. Cô Dung tuy vẫn c̣n hồi hộp lắm, nhưng sắc diện đă tạm trở lại b́nh thường, khi Ba Đức đảo mắt sang nh́n cô, cô cũng đang nh́n trộm hắn, hai mắt gặp nhau, mặt cô lại đỏ bừng lên... Cô cảm thấy vui vui... Sáng nay, khi mẹ cô bảo cô chở sang để cám ơn và mời ông Trung đội trưởng Nghĩa quân cùng các anh em đă hạ được những tên trước kia ám sát ba cô, sang dự buổi giỗ ba cô, cô không có h́nh tượng ǵ về người Trung đội trưởng này cả, v́ thông thường, những người trung đội trưởng mà cô đă gặp, trung b́nh cũng khoảng tuổi ba mươi mấy, bốn mươi - Đâu ngờ anh chàng này chỉ ngoài hai mươi, trông thật thư sinh v́ dáng người cao, mảnh khảnh, nước da trắng xanh, có lẽ nhiệm vụ đ̣i hỏi phải thức đêm nhiều - Nhưng mà con mắt chàng ta nh́n cô thật ... kỳ, làm ḷng cô xao xuyến, có lẽ trong chỗ riêng tư, chàng đă có cảm t́nh với cô, riêng cô, không hiểu sao nh́n ánh mắt, nụ cười ấy, cô cũng đă cảm thấy có phần rung động - V́ thế, nếu muốn nói cho chính xác, th́ phải nói thế này: - Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, hai người đă có cảm t́nh với nhau!

Sau đám giỗ ông Sáu Phúc, Ba Đức thường xuyên vắng nhà, b́nh thường sau những giờ hoạt động đêm, bao giờ anh ta cũng cần một giấc ngủ ngày thật dài, để lấy sức cho ban đêm hoạt động lại, từ ngày quen biết cô Dung, giấc ngủ ngày của Đức thất thường, khi có, khi không, khi dài, khi ngắn, bà Tư cũng lo ngại, nhắc nhở con, nhưng lần nào chàng cũng gạt đi, nói rằng ḿnh không cảm thấy mệt - Mà quả thật vậy, mặt hắn lúc nào cũng tươi roi rói, gặp ai cũng cười đùa vui vẻ, thỉnh thoảng lại c̣n hát nghêu ngao mấy câu vọng cổ của trai gái tỏ t́nh - Đúng! t́nh yêu chẳng dấu được ai, và Ba Đức cũng chẳng cần dấu diếm t́nh cảm của ḿnh - Bà Tư thấy đôi trẻ như vậy cũng vui, bà hối thúc Ba Đức mau mau tiến tới để bà có cháu bồng.

Rồi đám cưới hai người diễn ra ngon lành, xuông xẻ, hai bà thông gia đều là goá phụ của những viên chức xă ấp đă bị VC sát hại, nên họ hạp nhau và thông cảm với nhau hơn ai hết - Về dự đám cưới có cả Hai Tài, bây giờ anh ta đă là Trung úy làm Đại Đội Trưởng một Đại Đội Biệt Động Quân ở Liên Đoàn 2BĐQ

Gặp anh Hai lần này, Ba Đức học hỏi thêm được một số kiến thức về quân sự và các loại vũ khí - T́nh cờ Hai Tài gặp một người bạn cùng khóa, trước kia phục vụ tại Nha Kỹ Thuật, nay bị thương, xuất ngành, thuyên chuyển sang Tiểu khu, hiện làm Đại Đội Trưởng Đại Đội Địa Phương Quân, đi hành quân qua.

Trong bữa nhậu tại nhà bà Tư, có cô dâu mới lo tiếp đăi, thấy Ba Đức cứ chăm chú nh́n vào hai trái lựu đạn "mini" mà người bạn ḿnh đang đeo ở giây ba chạc, ánh mắt thèm thuồng, Hai Tài biết thằng em ḿnh "kết" hai trái lựu đạn đó lắm, anh dự tính trong bụng, sẽ chờ dịp hỏi xin cho thằng em - Không ngờ anh bạn quá sành điệu, anh ta nh́n chai Martell cổ lùn gật gù, anh nghĩ đến t́nh cảm của bạn và em bạn thết đăi ḿnh quá trịnh trọng, rồi nh́n qua Hai Tài nói:
- Tao thấy thằng em mày có vẻ khoái hai trái đồ chơi này lắm, hôm nay cũng may, t́nh cờ gặp anh em mày, lại c̣n nhậu nhẹt với nhau, thôi th́ nếu nó thích, tao tặng nó, cho nó vui.

Miệng nói tay gỡ hai trái "mini" trao cho Ba Đức đem cất - Ba Đức thích muốn nhảy lên, nhưng vẫn đẩy đưa:
- Cho em rồi anh lấy ǵ xài?
- Ôi! hơi đâu mà lo chuyện đó em, M.67 thiếu ǵ - Vả lại, "cái này" ít khi dùng tới, hồi tụi anh đi toán, thường mang thủ thân, để dành khi cần đến th́ ?cưa đôi? thôi mà ! Khi nào có dịp ghé qua Sở gặp bạn bè, chắc anh sẽ xin tụi nó mấy trái khác, lúc đó chưa chừng chú mày có thêm à!

Nghe vậy, Ba Đức hí hởn đem cất ngay, kể từ ngày hôm sau, trong hành trang dùng để "trang trí" của Ba Đức có thêm hai trái lựu đạn "mini".

Quán Bà Ba dần dần thưa khách, giờ này mọi người đều về nhà để ăn bữa chiều - Ba Đức và toán Nghĩa quân cũng giải tán, anh em người nào lo việc đó, riêng Ba Đức cũng tạt qua về nhà, ăn cơm với mẹ và vợ con, rồi cũng vào đồn ngủ như mọi khi - T́nh h́nh an ninh bây giờ không được tốt lắm, dù hết ḷng bảo vệ thôn xóm, nhưng nhiều khi "cái khó bó cái khôn", những phương tiện mà Trung đội của Ba Đức cần dùng để phục kích, diệt giặc không c̣n nữa - lợi dụng hiệp định ngưng bắn, địch hoạt động, xâm nhập, phá hoại nhiều hơn, trong khi bên ta lại tuân thủ, hay nói đúng hơn bị bắt buộc tuân thủ và ngồi yên nh́n địch vi phạm. Tiếp liệu đă bị thiếu thốn đủ thứ, viện trợ của Đồng Minh đang từ 10 sụt xuống c̣n 1, vũ khí đạn dược hết sức hạn chế, đôi khi đụng trận, xin yểm trợ vài trái đạn pháo binh cũng trần ai, lai khổ mà không được như ư, v́ thế khả năng hoạt động của Trung đội Ba Đức cũng không c̣n hữu hiệu nhiều như mọi năm nữa, giờ đây hoàn toàn trông vào sức ḿnh, với số vũ khí cá nhân, cộng thêm sự gan dạ, thỉnh thoảng mới có được chút kết quả gọi là yên ủi mà thôi - Buồn thật!

Nh́n nét mặt dàu dàu của con, bà Tư không hiểu chuyện ǵ, gặng hỏi măi, Ba Đức mới trả lời lấp lửng:
- Hết trơn mọi thứ, không c̣n ǵ mà xài.

Bà muốn an ủi con một tiếng, nhưng không biết nói ǵ, v́ chẳng hiểu rơ ư con nên cũng làm thinh luôn.

Ba Đức cũng cảm thấy việc ông Quận không chấp thuận đề nghị của chàng là điều bắt buộc, v́ với trang bị như vậy, yểm trợ như vậy, các đơn vị chính quy c̣n không đủ dùng, nói chi đến Nghĩa quân, làm ra chỉ thấy hại nhiều hơn lợi, chi bằng cố gắng tỉnh thức pḥng thủ, c̣n có thể bảo tồn lực lượng được, để chờ khi thuận lợi - Mà biết đến bao giờ mới thuận lợi, cơ hội có đến hay không.

Lùa vội vài chén cơm cho xong bữa, Ba Đức chơi với hai đứa nhỏ một lát rồi từ giă gia đ́nh đi vào đồn - Hai thằng con trai í éo đ̣i theo, nhưng bà ẵm đứa lớn, mẹ ẵm đứa nhỏ, hai đứa đành lặng thinh nh́n bố chạy xe thẳng ra cổng.

Cuối năm 1974, hoạt động phá hoại của VC nổi lên khắp nơi và quy mô gấp bội, kế hoạch lấn chiếm của chúng rất có bài bản - Đánh thăm ḍ vài nơi, thấy đồng minh của ta không phản ứng ǵ, chúng lập tức gia tăng cường độ - Đầu năm 1975, t́nh h́nh miền Nam bi đát thấy rơ, bọn VC đă chiếm được một vài tỉnh của ta - Chính quyền miền Nam hoàn toàn bị động - Lệnh rút bỏ cao nguyên, rút bỏ vùng 1, như khuyến khích bọn giặc cộng tăng thêm áp lực - Quân chính quy Bắc Việt xâm nhập công khai, không cần dấu diếm như mọi khi nữa, chúng chuyển quân bằng xe, chúng kéo cả xe tăng, đại pháo rầm rập chạy vào để sớm dứt điểm miền Nam, trong khi đó th́ đồng minh Mỹ im hơi lặng tiếng, quốc hội Mỹ lại "cẩn thận" hơn nữa, khi đưa ra đạo luật không cho phép Tổng Thống đem quân đội hay không quân can thiệp vào các trận chiến ở nước ngoài - Viện trợ quân sự cho VNCH bị cắt gần hết -Trong khi đó th́ những thành phần chính trị gia xôi thịt, những chính khách sa lông, phe này, phái nọ, ráo riết vận động cho một cuộc đầu hàng trá h́nh bằng cách tuyên bố thẳng sẽ nói chuyện với "người anh em phía bên kia" - Cuộc rút quân gọi là "di tản chiến thuật", "tái phối trí", hoàn toàn thất bại - Không phải là rút lui nữa mà là tháo chạy, tổn thất của cả quân lẫn dân làm cả nước bàng hoàng - Đến giai đoạn các ông ấy bàn giao chính quyền là ...hết thuốc chữa.

Đầu óc Ba Đức không c̣n tỉnh táo nữa, lúc nào cũng "bưng bưng" như có ai cầm búa gơ trong đầu - Nh́n mẹ già, vợ dại, con thơ, nếu có chuyện ǵ xảy ra, làm sao có thể cáng đáng được - T́nh h́nh bất lợi lắm rồi - Thương mẹ, thương vợ, thương con, mà đầu óc không làm sao tỉnh táo để đối phó cho kịp với hoàn cảnh - Ba Đức lẩn thẩn tự trách ḿnh - Sao hồi đó ham cưới vợ làm chi, để bây giờ khổ cho tất cả mọi người.

T́nh h́nh đă biến đổi không ai có thể ứng phó kịp, kể cả những ông vẫn được tiếng là tài giỏi, tiên đoán mọi việc như thần
- Địch quân càng ngày càng lợi thế và chuyện ǵ phải đến đă đến
- Miền Nam đă hoàn toàn bị cưỡng chiếm.
- Không nói đến những ông chính trị gia xôi thịt, chạy đôn, chạy đáo, t́m đường rút.
- Đừng nhắc đến Tướng Tá chẳng một chút tiết tháo, chí khí nhà binh, cũng xa chạy, cao bay.

Chúng ta hăy nhớ đến những người đă oai hùng tuẫn tiết, các vị Tướng, Tá, Úy, Hạ sĩ Quan, Binh sĩ, Cảnh Sát Quốc Gia v...v... trong đó có cả anh Trung đội Trưởng Nghĩa Quân thân thương của chúng ta nữa............. .

Mọi chuyện diễn tiến quá bất lợi, hầu như ai ai cũng biết và có thể đoán trước kết quả, nhưng khi nghe đích thân ông Tổng Thống lên đài phát thanh ra lệnh buông súng đầu hàng th́ mọi người đều hỡi ôi !!!

Toàn thân như tê cứng, đầu óc quay cuồng, Ba Đức hét lên một tiếng, đưa tay cầm chiếc radio transistor đập mạnh xuống đất, vỡ tan - Việc làm vô ích, không thay đổi ǵ được cuộc diện, cũng chẳng vơi được niềm đau, chỉ đơn giản đem lại khoảnh khắc im lặng trong gian hầm chỉ huy trong đồn.

Tiếng rè rè trong chiếc máy truyền tin đột nhiên cũng im và giọng nói chậm răi của ông Quận Trưởng cất lên:
- Tôi thông báo cho các đơn vị trực thuộc biết, từ giờ phút này, tôi không c̣n là người chỉ huy của anh em nữa, xin anh em tự lo liệu.

Mấy lời ngắn, gọn rồi im lặng, Ba Đức bốc máy, tính nói chuyện với ông Quận, nhưng gọi hoài không được, chàng chán nản buông máy, đôi mắt thất thần nh́n các anh em - Không ai lên tiếng, họ vẫn sẵn sàng chờ quyết định của người chỉ huy trẻ tuổi của họ mà họ hằng quư mến .

Ngồi im lặng cả tiếng đồng hồ, Ba Đức mới lên tiếng nói với anh em:
- Trên đă nói vậy, tôi cũng nói với mấy ông như vậy, tuỳ ư các ông, tôi cũng không c̣n là Trung đội trưởng của mấy ông nữa . Rồi như dứt khoát, Ba Đức đứng dậy, lấy giây ba chạc súng đạn mang vào người, bỏ đi.

Mọi người ngơ ngác, nhưng kết cuộc ắt phải xảy ra, làm sao có thể xoay chuyển được - Cả một guồng máy chính quyền, quân đội, như vậy mà c̣n phải chịu, huống chi một trung đội Nghĩa quân - Buồn th́ buồn lắm, nhưng họ phải nh́n vào sự thật phũ phàng, họ cũng im lặng ngó nhau, bỏ lại súng đạn , người trước, kẻ sau, rời đồn về với gia đ́nh.

Ba Đức chạy thẳng về nhà vợ chồng người em gái - Mấy hôm trước, thấy t́nh h́nh lộn xộn, để giữ an toàn cho mẹ và vợ con, cũng như sự an tâm cho chính ḿnh, anh đă đưa cả nhà về ở nhờ người em rể, v́ ở đây, có căn hầm trú ẩn rất rộng răi, chắc chắn.

Không khí trong gia đ́nh thật ảm đạm, giống như nhà có đám tang - mà nếu nói là gia đ́nh có tang, trên phương diện nào đó cũng đúng thật . Suốt ngày 30-4, Ba Đức nằm dí trên giường, không ăn uống, hỏi không nói, gọi không thưa, nằm vắt tay lên trán, thỉnh thoảng thở dài nghe muốn đứt ruột - Hai đứa con rất mến bố, nhưng thấy bố như vậy cũng không dám lại gần - Mẹ, vợ, em gái, em rể, ái ngại nh́n, không biết nói ǵ để an ủi, v́ họ hiểu sự mất mát này quá lớn lao, nỗi đau này là nỗi đau chết người, họ cũng buồn lắm, biết nói ǵ đây!

Nh́n ra ngoài trời, mây kéo về xám xịt, bầu trời cũng âm u, như chia sẻ niềm đau, nỗi hận, với nhân dân miền Nam . Cḥm xóm ai cũng ngơ ngơ, ngác ngác, trước cuộc thay đổi nghiệt ngă này - Họ bị hối thúc treo cờ, mít tinh v...v... để gọi là "chào mừng giải phóng", nhưng ai cũng chỉ à ới cho qua chuyện thôi.

Chập tối, chú em thân tín nhất trong Trung đội, thường theo sát Ba Đức ghé thăm, hai anh em th́ thầm với nhau một lát, những điều chú nói cho Ba Đức tóm tắt như sau:
- Anh Sáu Bộ (một Trung đội trưởng Nghĩa quân trong quận) bị tụi nó giết ngay tại đồn.
- Chú Tám Én, Trung đội Trưởng Cầu Vơng, bị tụi nó vô nhà vây bắt, rồi đem ra ngoài xử bắn luôn.

- Anh Ba t́m đường thoát đi, chắc chắn tụi nó đang kiếm anh, tụi VC vào đồn ḿnh, chỉ thấy súng đạn để lại, không gặp một ai, chúng không nắm vững t́nh h́nh ở vùng ḿnh, nên chưa kiếm ra anh đấy thôi.

Ba Đức suy nghĩ lung lắm, trước sau ǵ cũng phải đối diện thực tại - Anh đă có quyết định riêng cho ḿnh, nhưng không muốn ảnh hưởng đến những người thân yêu, nhất là đang ở nhà em rể - Qua một đêm hồi hộp đợi chờ , Ba Đức càng quyết tâm hơn nữa - Mờ sáng 1-5-75, Ba Đức nai nịt gọn gàng, giọng b́nh tĩnh nói với mẹ:
- Con về nhà trước thắp nhang lễ Ba, má với vợ con về sau nha! Hôm nay kể như tạm yên, ḿnh về nhà được rồi.

Hướng về hai người em anh nói:
- Má với anh chị cám ơn cô, dượng nhiều nghe

Quay sang vợ, Đức dặn ḍ:
- Chờ mấy đứa nhỏ ngủ dậy rồi em với má đưa con về. Anh về trước.

Hai nhà cách nhau không xa lắm, không muốn nổ máy xe ồn ào, Đức để xe lại, lủi thủi đi bộ về nhà.

Sau khi mở cửa vào, anh đóng cửa lại cẩn thận, thắp ba nén nhang, đứng trước bàn thờ bố, miệng lầm thầm khấn vái - cắm xong mấy nén nhang, anh ta thay bộ đồ cũ đă mặc mấy hôm nay bằng một bộ đồ ủi hồ mới tinh - Ngắm ḿnh trong tấm kiếng, với một giọng hết sức tỉnh táo, kèm đôi chút hănh diện, anh nói nhỏ riêng ḿnh nghe: Nghĩa Quân là phải "ngon"!

Vừa xỏ xong hai ống quần, Ba Đức nghe tiếng ồn ào ngoài ngơ, rồi giọng nói của má chàng vọng vào:
- Tui đă nói với mấy ông là con tôi ở nhà chứ có trốn tránh ǵ đâu

Bà lớn tiếng gọi:
- Ba à! Đang làm ǵ đó con?

Ô, vậy là chương tŕnh không đúng như dự tính, chắc phải ồn ào hơn chút đỉnh rồi - Nhưng không sao, cũng "vui" thôi - Nghĩ vậy, Ba Đức lên tiếng trả lời mẹ:
- Con đang thay đồ.

Nh́n qua khe cửa, anh thấy mẹ đi trước, theo sau bà cả chục tên du kích VC, súng ống đầy đủ, lố nhố tiến vào trong sân - Phía sau là Dung và hai đứa con nhỏ, rồi đến hai vợ chồng cô em và đứa con, một số bà con trong xóm cũng ngấp nghé ngoài cổng, không hiểu v́ ṭ ṃ hay bị lùa đến để chứng kiến cuộc vây bắt.

Vừa nghe Ba Đức lên tiếng trong nhà, tên chỉ huy toán du kích trở mặt liền với bà Tư - Hắn quát lớn:
- Thôi bà kia đứng lại, lui ra phía sau.

Hắn ra lệnh cho đồng bọn:
- Tổ 1 triển khai bố trí sau nhà, khẩn trương - Các đồng chí c̣n lại vây phía đằng trước.

Hướng vào phía trong nhà hắn la lớn:
- Ba Đức ra hàng ngay, nếu không lực lượng du kích sẽ tấn công vào nhà.

Hắn lại ra lệnh cho thuộc hạ:
- Các đồng chí, chuẩn bị thủ pháo - Miệng nói, tay hắn vẫy vẫy cho ba tên tiến gần cửa, trong tầm ném.

Ba Đức đứng trong nhà nghe không sót một câu, từ lúc nó đuổi bà mẹ ra, cho đến khi nó ra lệnh cho mấy đứa tiến vào, gia đ́nh Ba Đức và bà con thấy vậy cũng lùi ra xa

Ba Đức từ trong nhà lên tiếng:
- Tôi chuẩn bị ra đây!
- Dơ hai tay lên khỏi đầu, mở cửa bước ra!

Cánh cửa từ từ mở rộng, người ta thấy hai bàn tay khum khum dơ cao đưa ra, rồi một bóng người xuất hiện trong khung cửa, bộ quần áo trận màu đen thẳng nếp, cổ quấn một lá cờ vàng ba sọc đỏ, hai tay vẫn dơ cao khỏi đầu, từ từ bước ra khỏi nhà, cặp mắt quét nhanh một nửa ṿng tṛn nhận định vị trí - Tên VC chỉ huy quát lớn:
- Nằm sát xuống đất, hai tay dang ra!

Ba Đức hơi khựng lại, rồi đột nhiên anh ta vụt chạy thật nhanh đến chỗ tên chỉ huy và ba tên du kích đang đứng gần nhau, tay trái buông thơng xuống, tay mặt vung mạnh về phía đầu hồi, nơi có mấy tên khác đang quỳ lom khom bố trí hướng súng vào trong nhà - Đồng thời có tiếng hét bật ra từ lồng ngực: "Việt Nam Cộng Hoà muôn năm - Đả đảo cộng sản" - Trước sau hai tiếng nổ chát chúa vang lên - khói, bụi, cát, đất, lẫn vào nhau tung lên mù mịt - Dân chúng hoảng hốt kéo nhau chạy dạt ra - Bọn du kích không tên nào kịp phản ứng - Ba Đức và tên chỉ huy du kích chết banh xác tại chỗ, hai tên khác đang dẫy dụa trong vũng máu, tên thứ ba cũng nằm gục xuống, không rơ c̣n sống hay đă chết - Phía đầu hồi, chỉ có một tên lănh đủ v́ trái lựu đạn trúng ngay chỗ, hai tên khác bị thương nhẹ - Thật khủng khiếp, lần ra tay cuối cùng của Trung đội Trưởng Ba Đức - Anh đă quyết lấy cái chết để đền nợ núi sông, đồng thời nói lên tinh thần chiến đấu đến hơi thở cuối cùng của người chiến sĩ Nghĩa Quân.

Lần đầu và cũng là lần cuối, Ba Đức dùng đến món quà mà đàn anh đă tặng: "Cặp lựu đạn Mini".

A20 Nguyễn Văn Học

wonderful 12-02-2019 23:30

4 Attachment(s)
Những h́nh ảnh Hào Hùng của Binh Chủng Nhảy Dù - QLVNCH

Xin dành tặng những h́nh ảnh về Binh Chủng Nhảy Dù - Những "Thiên Thần Mũ Đỏ" của QLVNCH đến cho 1 người bạn theo yêu cầu và cho tất cả mọi người, những ai đă từng sống qua thời chinh chiến, và yêu mến NGƯỜI LÍNH VNCH.

Em biết tại sao lúc này Lính Dù lên điểm
Đi ra đường phố, nhiều cô nh́n nổ con ngươi
Cô th́ khen là lính chịu chơi
Cô th́ khen là lính hào hoa
Có cô mơ chồng, có cô mơ mộng lắm đêm nằm khóc.

Anh biết nhiều cô thích bồ thiên thần mũ đỏ
Bởi anh là lính đẹp trai mà khỏe hơn ai
Anh là thiên thần giữa trời mây
Anh làm quân thù khiếp sợ oai
Biết bao cô chờ biết bao cô đợi biết bao người mơ.

Anh như là mây nổi trôi giữa trời giông bao la
Ở đâu cũng là quê, là nhà
Yêu anh! khổ lắm em ơi!
Khi yêu là yêu dù cho cách trở đầy thương đau
Dù cho đói no hay giàu nghèo, dù đời khổ đến bao nhiêu.

Như thế th́ mê lính dù như là điếu đổ
Em mong được sống cùng nhau làm tổ uyên ương
Em là vợ hiền chốn hậu phương
Anh làm trai hùng giữa trường xa
Ước mơ thanh b́nh góp tay ong tạo hóa thân t́nh ta



CHUẨN BỊ - KIỂM TRA LẠI DÙ LƯNG DÙ BỤNG


LÊN ĐƯỜNG


HUẤN LUYỆN VIÊN NHẢY DÙ TRÊN PHI CƠ


THIÊN THẦN VÀO VÙNG HÀNH QUÂN

longhue 12-03-2019 00:16

Mời ACE nghe chơi.


hoanglan22 12-12-2019 22:39

Một Thời Chinh Chiến Điêu Linh
 
1 Attachment(s)


Anh là một phóng viên chiến trường, ngoài phần lương khô và vật dụng cá nhân trong ba lô mang trên lưng như bao nhiêu người lính khác, anh c̣n phải đeo lủng lẳng cái máy quay phim và máy chụp h́nh trước ngực. Hành trang anh chỉ có thế, mũ sắt trên đầu, cuốn sổ tay trong chiếc túi áo có nắp gắn hai chữ “Báo Chí”, hai tấm thẻ bài, một bộ râu tua tủa v́ đă mấy ngày anh theo đoàn quân tiến vào trận địa. Người lính ra chiến trường đă có cây súng làm bạn, riêng anh, người phóng viên chiến trường đi vào vùng lửa đạn, chỉ vỏn vẹn có chiếc máy quay phim, đă ghi lại biết bao nhiêu h́nh ảnh trung thực của người lính sống thời chiến chinh gian khổ, trên mọi nẻo đường đất nước.

Tiếng đạn bay líu chíu ngang đầu, anh thầm nghĩ: "Không biết sống chết lúc nào". Chiếc máy quay phim đă thu vào bao nhiêu thước phim giữa mặt trận khi nóng bỏng, lúc âm ỉ đến lạnh người. Đoàn quân lầm lũi tiến vào rừng dừa trước mặt, phân tán mỏng theo lệnh viên sĩ quan chỉ huy. Những bóng người lầm lũi bước, đôi giày vải ướt sũng trên thửa ruộng xâm xấp nước, đói và mệt, chiếc ba lô trên vai anh như nặng trĩu xuống. Trong bóng chiều nhập nhoạng, thần chết như rập ŕnh chiếc lưỡi hái trên thân phận người lính, cơn mưa chiều luồn những giọt tái tê vào ḷng người chiến sĩ.

Anh nhớ lại trận đánh ở vùng Thới Lai, Cờ Đỏ vào mùa mưa năm trước, trong một vùng dầy đặc cỏ lác và sông rạch. Không phải lần nào quân ta cũng thắng. Đêm ấy, anh bị mất phương hướng, giữa bóng đêm chập chùng và ánh trăng khuya mờ ảo, anh lần ṃ ra được đường cái, ở đấy có một ngôi chùa nằm chơ vơ ven quốc lộ. Dưới ánh trăng mờ, ngôi chùa âm u không một ánh đèn, không một tiếng chuông tiếng mơ, chỉ có mùi d́u dịu của hoa sứ phảng phất giữa đêm khuya. Đă mấy ngày mà trận đánh chưa kết thúc, sự yên tĩnh tạm thời để chờ một cuộc đụng độ tiếp theo, dân chúng hầu như đă tản cư ra quận lỵ, hoặc chạy theo phía bên kia vào những làng mạc xa hơn.

Ngôi chùa tương đối nằm ở khu khá yên tĩnh giữa hai lằn đạn, nhưng không có bóng dáng người dân nào ở đó. Trong bóng tối mờ mờ và yên lặng, anh lần ṃ men theo mấy bụi cây thấp trước cổng chùa, anh nh́n thấy nhiều thân người nằm la liệt trên sân, im lặng như một băi tha ma. Họ đang ngủ, quá mệt mỏi cho nên anh chỉ kịp cởi ba lô vứt xuống đất, rồi cứ thế nằm vật xuống bên cạnh một người lính. Anh cần ngủ hơn tất cả mọi thứ trên đời, dù chưa ăn uống ǵ nhưng anh không cảm thấy đói, chỉ có giấc ngủ mới làm anh tạm quên đi tiếng đạn réo, tiếng bom rơi, tiếng đại bác rền rĩ trong những giờ phút căng thẳng của chiến trường. Anh thiếp đi thật mau, trong lúc ngủ mê h́nh như anh có đạp chân vào người lính kế bên nhưng không nghe tiếng chửi thề, hạnh phúc nhất của người lính có lẽ là những phút giây hiện tại, tạm quên đi nỗi nguy hiểm, cận kề với nỗi chết.

Chưa bao giờ anh có một giấc ngủ ngon lành đến thế. Không chiêm bao mộng mị, không giường, không chiếu, chỉ có một mặt đất ẩm lạnh và bầu trời nhấp nháy sao đêm. Gió đêm như được ướp mùi hương của những bông hoa sứ làm loăng đi mùi ǵ tanh tanh giống như mùi máu.

Sáng ra, ánh mặt trời rọi vào mặt anh khiến anh thức giấc, chim chóc hót líu lo chào một ngày vừa lên, sự sống của muôn loài vẫn diễn ra b́nh thường dù chiến tranh và sự chết đang hiện diện quanh quất, đó đây. Anh hoàn toàn tỉnh giấc, thèm một ly cà phê và điếu thuốc thơm buổi sáng, rồi lạ lùng ngó đám người nằm ngủ trên sân chùa, chợt một cảm giác lạnh toát chạy dài trên sống lưng người lính. Giờ th́ anh đă hiểu, đêm qua anh đă ngủ một giấc ngủ tṛn trịa và yên b́nh bên những người lính tử trận, xác họ ngày hôm nay sẽ được chở về nhà xác trên tỉnh lỵ, chờ thân nhân đến nhận.

"Không phải lúc nào ta cũng thắng", anh nghĩ như vậy khi nh́n những tử thi nằm lạnh lẽo suốt đêm trên sân chùa. Chiến tranh là vậy, thắng hay thua th́ bên nào cũng có người nằm xuống, có những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ, chỉ có điều thật buồn khi tất cả đều là người Việt Nam. Anh nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng của một tà áo đà lướt bên hiên chùa, và mùi nhang thoảng bay trong gió. Một vị sư già có lẽ là người duy nhất c̣n lại nơi đây, đang cầm một nắm nhang ra cắm xuống trước những thây người nằm la liệt dưới sân chùa, miệng lầm rầm niệm Phật. Đôi mắt nhà sư thoáng một vẻ ngơ ngác và sợ hăi, khi nh́n thấy một người sống đang ngồi thu lu giữa đám người chết, cả hai cùng im lặng không nói được lời nào.

Năm 1969, anh theo cuộc hành quân miền biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, Cộng quân đang cố thủ trong vùng núi Cô Tô, Châu Đốc. Người phóng viên chiến trường hơn ba mươi tuổi, đang độ chín muồi của nghề nghiệp, hăng say lao vào vùng lửa đạn khi Cộng quân dùng Campuchia làm bàn đạp thôn tính miền Nam.

Gia đ́nh anh gốc gác miền Bắc, cả một thời ấu thơ và thanh niên anh gắn bó với quê nhà, may mà năm 1954 anh nhanh chân chạy thoát. Bố anh chết ngay năm đó, tất cả gia tài, sự nghiệp bỗng dưng mất hết trong một ngày khiến người cha phẫn chí mà chết. Mẹ anh dẫn ba đứa em dại, đầu quấn khăn tang lếch thếch lên chuyến tàu há mồm xuôi Nam. Một cuộn phim của dĩ văng vừa hiện về trong trí anh, căn nhà gạch hai gian bề thế phố Cửa Tiền, rặng bàng trước cửa, hoa gạo đỏ mùa hè, giếng nước Tiền Hùng, cái ao sau nhà xanh um khóm chuối ngự, cả một tuổi thơ đầm ấm và mối t́nh đầu tuổi thanh xuân nằm lại sau lưng cho một tất tả bỏ chạy.

Từ trên máy bay trực thăng anh nhảy xuống theo gót chân người sĩ quan chỉ huy, máy quay phim chạy rè rè thâu vào h́nh ảnh núi non chất ngất, những người lính chạy lúp xúp nép vào những bờ đá cao tiến tới. Địch bắn ra như mưa, viên đạn đi ngọt như cắt từ một hốc núi bay thẳng tới ngực anh, anh chưa thấy đau v́ tầm đạn đi nhanh quá khiến anh ê ẩm như bị một viên gạch ném tới đột ngột. Cho đến khi anh thấy ấm ấm và rát bỏng trên ngực áo, máu đă ướt thẫm hai chữ Báo Chí trên chiếc áo nhà binh. Anh loạng choạng ngă xuống với thước phim đang quay dở, chỉ kịp nh́n thấy loà nhoà h́nh ảnh người lính cứu thương bế anh lên chiếc trực thăng tải thương, đang phần phật đôi cánh quạt trên một vùng cỏ xanh.

Lần ấy viên đạn đi cách tim anh khoảng hai cm, nếu không giải phẫu kịp, máu ứ đầy phổi có lẽ anh đă nằm xuống ngay tuổi ngoài ba mươi. Anh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, phải nằm trong Quân y viện mấy tháng trời, để được nh́n thấy sự hy sinh và đau đớn tận cùng của người lính trong thời chiến. Những h́nh ảnh ấy vương vấn trong hồn anh, măi măi về sau, tim anh vẫn thắt lại khi bất chợt hôm nào nh́n thấy trên vỉa hè, người thương binh lê đôi nạng gỗ, khập khễnh bước khi đôi mắt chất chứa nỗi bất hạnh cho cả một tương lai

Năm 1972, mặt trận lại sôi động ở vùng biển Long Toàn, Trà Vinh. Bom đạn rền rền át cả tiếng sóng biển ŕ rào, người dân Khờ Me sống ở những làng mạc hiền hoà với chùa chiền cổ kính, lại vội vă bỏ vùng quê đi lánh bom đạn. Nhà cửa đổ nát, vườn tược tan hoang, anh ứa lệ nh́n hai đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhếch nước mắt, nước mũi giữa cảnh khói lửa tơi bời. Giữa vùng giao tranh, chỉ có lằn đạn líu chíu trên đầu người thường dân vô tội, quê hương ḿnh sao khốn khổ đến thế.

Anh nhớ lại một ngày năm 54, năm ấy anh mới mười tám tuổi và đứa em út mới lên sáu, mẹ anh trắng hai bàn tay làm lại cuộc đời trên miền Nam tự do. Những buổi chiều gió mưa, mẹ con ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Khu phố êm ả có rặng bàng trở màu khi mùa thu đến, những buổi chợ phiên người trong các làng quê kĩu kịt gánh hàng ra chợ Nghệ.

Người phóng viên chiến trường đâu phải lúc nào cũng ngồi trên máy bay, đâu phải lúc nào cũng theo đuôi Tư lệnh để quay cảnh chiến thắng, gắn huy chương lên ngực áo người chiến sĩ. Anh đă phải ngắm nh́n chiến tranh như phải xem một bức tranh vẽ bằng máu, thâu vào h́nh ảnh và sự chiến đấu cam go của người lính nơi vùng lửa đạn. Trong khi ấy, chiến tranh quả là khó hiểu, những bàn tay giấu mặt như mụ phù thuỷ đang vẽ vời những lời nguyền rủa sấm sét xuống quê hương anh. Chiến trường này tiếp nối đến chiến trường khác, những cuộc hành quân liên miên từ tháng này qua tháng nọ, nghĩ đến đời sống gian khổ của người lính trong vùng đóng quân đầy những rủi ro bất trắc, anh chỉ ao ước một ngày nào chiến tranh chấm dứt. Một ngày nào đó những thước phim của anh chỉ là h́nh ảnh nụ cười dễ thương của trẻ thơ, là nét mặt vui tươi của người lính giữa khung cảnh ấm cúng của gia đ́nh, là đôi mắt hấp háy của mẹ già không ứa lệ, khi đêm đêm vẫn th́ thầm cầu nguyện sự an b́nh cho những đứa con.

Anh phóng viên chiến trường giơ ống kính lên, thâu bằng cận ảnh hai khuôn mặt ngây thơ, bốn con mắt ngơ ngác giữa khói lửa mịt mù của hai đứa trẻ thơ mà anh bắt gặp, khi cuộc chiến không bao giờ tính toán được sự bi thảm của nó. Những đôi mắt trẻ thơ sợ hăi, ngác ngơ khi địch quân dùng khu vực nhà dân làm bàn đạp để tiến quân, hai đứa bé c̣n lại khi cha mẹ chúng có thể đă ngă xuống bởi những lằn đạn vô t́nh.

T́nh cảm giữa người và người bắt anh phải quên đi những thước phim, những tấm h́nh giá trị khi lọt vào tay bọn thông tấn nước ngoài. Hai tay bế hai đứa bé anh băng ra khỏi khu nhà đang rần rật cháy, giờ phút ấy anh chỉ có một ư nghĩ phải mang hai đứa bé ra khỏi vùng giao tranh, dù có thể lănh một viên đạn của đối phương.

Suốt một đời làm lính và xông pha nơi những chiến trường nóng bỏng, anh phóng viên chiến trường đă bao phen đối mặt với tử thần. Anh c̣n bị thương một lần nữa trước khi chiến tranh kết thúc, chiếc máy bay trực thăng bị hỏa tiễn tầm nhiệt bắn trúng đằng sau đuôi, như một khối sắt khổng lồ rớt xuống cánh đồng ngập nước vùng Đồng Tháp Mười. May là Thượng đế đă che chở anh, đă cho anh trở về với một xác thân lành lặn.

Ngày chiến tranh kết thúc, một kết thúc bi thảm khiến anh hụt hẫng. Người lính bại trận trở về miền quê với những vết đau âm ỉ mỗi lần nhớ đến bạn đồng đội cũ. Trong những chiều gió mưa, ḷng anh bùi ngùi khi hồi tưởng đến một khoảnh khắc nào đó, bóng dáng những người lính năm xưa giờ như những bóng ma buồn bă trong dĩ văng, và anh lặng lẽ nghe những giọt nước mắt buồn tủi chảy ngược vào tim buốt lạnh.

Từ đây cuộc đời bắt đầu là những chia xa, bạn bè anh tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Có những người nằm xuống trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, đă bị quên lăng với mồ hoang mả lạc. Có những người ra đi làm cánh chim cô đơn, gậm nhấm nỗi sầu vong quốc. Có những người đi vào chốn lao tù với đói khát triền miên, khi trở về chỉ là những chiếc bóng ngác ngơ, sợ hăi cả tiếng bước chân của chính ḿnh.

Sau ba mươi năm ngày chiến tranh kết thúc, người phóng viên chiến trường năm xưa nay đă già, ngồi bán cá kiểng, cá đá cho trẻ con trước khuôn viên một trường tiểu học, cạnh ngôi giáo đường cổ kính. Mỗi lần nghe tiếng chuông ngân ban chiều, anh lại th́ thầm đọc mấy câu kinh cho những linh hồn đă khuất.

Gia tài của anh chỉ có một hồ cá bằng thủy tinh với những con cá đủ màu bơi lội nhởn nhơ. Cả một xă hội cá quây quần bên nhau lượn lờ tranh sống, những cọng rong xanh, vài con lăng quăng sót lại từ bữa ăn chiều. Anh chép miệng, bầy cá đă no rồi, chứ lúc đói chúng nó cũng tranh nhau đớp mồi như đám người khốn khổ chen nhau chờ phát chẩn. Lúc này anh đâm lẩn thẩn như thế, chuyện cá chuyện người cứ lẫn lộn trong con mắt người phóng viên đă hết thời

Lúc ấy trời đă về chiều, hai đứa bé đánh giày độ trên mười tuổi vào hàng, ngắm nghía mấy con cá lia thia được rọng riêng trong những chiếc keo thủy tinh trên bệ gỗ, giữa mỗi cái keo đều có một tấm giấy cứng để che cho chúng khỏi nh́n thấy mặt nhau. Mỗi đứa chọn một con, chúng tḥ tay vào túi lôi ra những đồng tiền nhàu nát, đưa cho người bán cá. Hai thằng nhỏ bày ra cuộc đá cá ngay cửa hàng của người bán cá, tự nhiên anh cũng cảm thấy hào hứng muốn theo dơi trận đá cá của hai đứa trẻ con. Không biết ở đâu lố nhố mấy đứa trẻ nữa quần áo bẩn thỉu, chân đi đất, xúm vào bu xung quanh hai thằng nhỏ đánh giày, khiến anh tự nhiên hồi hộp như ngày xưa mỗi lần theo đoàn quân vào vùng lửa đạn.

Hai con cá trong một cái keo, không biết thù nhau tự kiếp nào xông vào nhau, hai cái thân cá ḿnh xanh vây đỏ lúc ấy phồng lên những chiếc vảy óng ánh, ḿnh chúng như to ra qua thành thuỷ tinh, xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả. Lũ trẻ vây xung quanh nín thở, hai con cá lia thia mê mải tấn công nhau, thỉnh thoảng chiếc mỏ cá lại va vào thành keo đau điếng. Sau một lúc quần nhau dữ dội, một con như ngộp thở ngoi lên mặt nước hớp không khí, cái ḿnh cá vẩy óng ánh màu xanh nay đă nhợt nhạt như màu miếng vỏ dưa cố chạy thoát thân, lũ trẻ đứng bên ngoài vỗ tay hét rộ lên những tràng cười khoái chí.

Tan cuộc, hai thằng nhỏ đánh giày bỏ hai con cá cho người bán cá, bưng hộp đồ nghề đi về ngả thành phố, chỗ “hotel” và mấy quán rượu có đông người ngoại quốc và đám Việt kiều về thăm quê. Trời giăng giăng những đám mây đen khiến phố xá chừng như tối xầm lại, bất giác anh chợt nhớ đến cơn mưa đầu mùa của tháng tư năm nào làm ḷng quặn lên một nỗi buồn. Tự nhiên, người phóng viên chiến trường năm xưa cảm thấy ngùi ngùi, tưởng ḿnh như con cá bại trận manh giáp tả tơi, bị vứt lại bên lề đường một cách thảm thương

Tội nghiệp anh, những cuộn phim của dĩ văng như run rẩy theo làn khói thuốc, anh bập hoài điếu thuốc đen trên môi, những móng tay cáu vàng ám khói. Cơn mưa chiều đột ngột đổ xuống rơi lộp độp trên tấm poncho nhà binh che trên vỉa hè, gơ những nhịp trống vào đầu khiến anh nghĩ đến những cơn mưa nơi vùng hành quân năm xưa, khi anh c̣n là một người lính. Anh tưởng tượng lát nữa đây khi về nhà, với âm thanh hùng hồn của một ngày nào rất xa, anh sẽ tường thuật cho đứa cháu ngoại nghe trận đá cá chiều hôm nay trước cửa trường học. Hai con cá cùng một loại đá nhau chí tử, một con thắng nhưng cũng ê ẩm, ḷng ṿng trong chiếc keo thuỷ tinh chật hẹp, không hy vọng đá nổi một trận nữa, một con bại anh quăng ra mặt đường, đă nát ḿnh dưới những ṿng xe lăn.

Phố đă lên đèn, anh thu dọn cửa hàng để về nhà mà ḷng nặng trĩu một nỗi buồn không tên tuổi. Anh phóng viên chiến trường năm xưa th́ thầm nói với ḿnh, "Hơn ba mươi năm rồi, chẳng biết c̣n ai nhớ đến ḿnh không nhỉ?"

Nguyên Nhung
Viết cho anh tôi, người phóng viên chiến trường.

hoanglan22 12-13-2019 14:43

Bút kư: Một cái Tết khó quên
 
4 Attachment(s)
Trung Úy Minh đă lên phiên Sĩ Quan trực nhật được mấy tiếng đồng hồ. Trời tối đen như mực. Trước cổng trại, đoạn đường Trưng Nữ Vương ngoài ven thành phố Đà Nẵng, thật im vắng. Lâu lâu mới có 1 chiếc quân xa vụt qua, rồi tất cả chỉ c̣n lại những bóng đèn đường vàng vọt xa xa…

Tiếng điện thoại dă chiến reo vang trong pḥng trực. Minh nói với ông Thượng Sĩ già, “Thượng Sĩ nghe coi có chuyện chi vào lúc này ! “Ông Thượng Sĩ nói vọng ra phía Minh, “Có điện thoại từ Bộ Chỉ Huy Quân Trấn, muốn gặp Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng hay Sĩ Quan trực.


Người Lính VN Cộng Ḥa trong Tết Mậu Thân 1968 –



Minh bắt điện thoại, “Trung Úy Phan Đức Minh, Sĩ Quan trực Tiểu Đoàn Truyền Tin Quân Đoàn I, tôi nghe đây!” Có tiếng nói ở đầu dây bên kia… Minh quả quyết “Chúng tôi đă thi hành đúng đắn lệnh của Quân Đoàn và Bộ Chỉ Huy Quân Trấn. Xin Đại Tá yên tâm ! Cấm trại và ứng chiến 100 phần trăm. Các toán ứng chiến đă đi nhận nhiệm vụ.Toán đóng quân ở chốt Ḥa Cường do 1 Thiếu Úy chỉ huy, tinh thần rất tốt. Đại tá yên tâm đi ! Vâng, xin kính chào Đại Tá ! ”Ông Thượng Sĩ già lo lắng hỏi “Có chi quan trọng không Trung Úy ?” “B́nh thường thôi! Đại Tá Tham Mưu Trưởng Bộ Chỉ Huy Quân Trấn nhắc nhở anh em ḿnh. Tính ông cẩn thận lắm.”

Minh vớ khẩu Colt-45 trên bàn rồi xách đèn pin đi kiểm soát canh pḥng. Đêm nay điểm canh gác nào cũng gác đôi. Một binh sĩ chặn Minh lại từ xa, hỏi mật khẩu “Quyết Tâm!” Minh đáp lại “ Xây Dựng !” Hai binh sĩ cùng nói “Chào Trung Úy !” Minh dặn ḍ “Anh em cẩn thận tối đa nghe không ! Nhất là phía bên kia đường rầy xe lửa.”

Qua khu vực băi đậu quân xa, Minh thấy anh em canh gác cẩn thận, nghiêm chỉnh. Đă định quay đi, Minh lại gọi cậu lính trẻ tới dặn “Anh em cẩn thận coi chừng phia bên kia hàng rào kẽm gai, cánh đồng hướng ra đài khí tượng và trại gia đ́nh binh sĩ ! “ Nói xong, theo thói quen, Minh vỗ vai cậu binh sĩ rồi đi về phía đồn canh.

Minh xuất thân là binh nh́, không theo học Trường Sĩ Quan nào cả nhưng v́ tinh thần và khả năng làm việc, tŕnh độ học vấn, anh lên cấp rất mau, bỏ băng nhiều cấp bậc so với những trường hợp b́nh thường. Ngày xưa đi kháng chiến chống Pháp hơn 6 năm, bị Tây bắt, giam lên giam xuống. Lần sau chót, khi được tha khỏi trại giam Nhà máy Rượu Nam Định, anh quyết định ở lại thành phố dù rằng ở lại thành phố lúc ấy chưa chắc đă là con đường tốt nhất. Tuy nhiên, giữa hai cái xấu, ḿnh phải chọn cái nào ít xấu hơn.

Được động viên gọi đi học khoá Sĩ Quan trừ bị Thủ Đức, v́ nhiều lư do, nhất là sức khỏe lúc đó, anh không đi, nhưng t́nh nguyện nhập ngũ với tư cách binh nh́, vào Đại Đội 3 Truyền Tin Việt Nam, lúc đó c̣n do Sĩ Quan người Pháp chỉ huy và đang chuyển dần sang cho Sĩ Quan Việt Nam. Mới ba tháng sau, Đại Úy Miraucourt, Đại Đội Trưởng, gắn lon Hạ Sĩ ( Caporal ) cho anh tại sân cờ đơn vị. Rồi 16 ngày sau nữa, cũng tại sân cờ này, trước hàng quân, Đại Úy Miraucourt long trọng đọc quyết định thăng cấp đặc biệt của Tướng Tư Lệnh Đệ Tam Quân Khu, có hiệu lực hồi tố ( retroactive effect ) và gắn lon Trung Sĩ ( Sergent ) cho anh. Cả đơn vị, anh em ai nấy đều ngạc nhiên v́ từ ngày thành lập, đây là lần đầu tiên trong đơn vị chuyên môn, không tác chiến, một binh sĩ dược thăng cấp quá mau, mang lon Hạ Sĩ rồi Trung Sĩ chỉ trong ṿng hơn 4 tháng nhập ngũ và có hiệu lực cùng 1 ngày, bỏ băng hàng Binh Nhất, Hạ Sĩ, Hạ Sĩ Nhất. Theo lệ thông thường th́ hàng Binh sĩ, Hạ sĩ quan ở đơn vị chuyên môn, không tác chiến thời đó, cần có 1 hay 2 năm công vụ mới lên được 1 bậc, 1 cấp…Sau này anh c̣n bỏ băng thêm cấp bậc khác nữa, như là từ Thượng sĩ lên thẳng Chuẩn Úy hiện dịch, bỏ qua cấp Thượng sĩ nhất… Đại Úy Miraucourt cần Minh ngồi vào cái chỗ thay thế Sergent-Chef Cordier sắp sửa hồi hương trở về Pháp, cho nên ông đă bằng mọi cách và thẩm quyền của ông lúc đó, đang chỉ huy một đơn vị 600 quân, phụ trách truyền tin cho toàn lănh thổ Quân Khu 3, trên toàn lănh thổ Bắc Việt. Ông muốn Minh ngồi vào chỗ đó,điều khiển cái văn pḥng khá đồ sộ của đơn vị, gồm cả chục nhân viên, điều hành, quản trị mọi mặt cho đơn vị, với rất nhiều toán nhân viên làm việc tại thành phố Nam Định, cả cho quân đội quốc gia Việt Nam, lẫn vài cơ sở quân đội Pháp, lại c̣n nhiều toán nhân viên biệt phái ( détachements ) đi khắp các nơi trên lănh thổ Bắc Việt… Anh luôn được giao phó chức vụ cao hơn cấp bậc thực sự của ḿnh cho nên khi anh đă lên Thiếu Tá, giữ chức vụ Phó Uỷ Viên Chính Phủ Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu I th́ bạn bè cùng nhập ngũ 1 ngày với anh, gặp lại nhau thật tưng bừng vui vẻ, có điều họ vẫn c̣n ở cấp Thượng Sĩ hay cao lắm là Chuẩn Uư. .. Minh c̣n có dịp đặc biệt . được mời về đơn vị cũ là Tiểu Đoàn Truyền Tin Quân Đoàn 1- Đà nẵng - tham dự buổi Lễ gắn lon Thiếu Úy cho anh bạn Nguyễn Văn Dương, cùng lên Thượng sĩ với Minh 1 ngày, hồi tháng 8, năm 1956. Theo lời yêu cầu của Thiếu úy Dương, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, gốc ca sĩ đài phát thanh Huế, vốn là Trung Úy Đại Đội Trưởng của Thượng sĩ trẻ Phan Đức Minh ngày trước đồng ư, điện thoại cho Minh về đơn vị cũ, dự Lễ gắn lon cho anh bạn ngày xưa, tên Nguyễn văn Dương.

Đâu xe trước Bộ Chỉ Huy, Minh bước vào pḥng họp Tiểu Đoàn giữa tiếng vỗ tay chào đón của các Sĩ Quan bạn cũ cũng như mới mẻ sau này. Những cái bắt tay thân thiết khi anh em gặp lại nhau… Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng nói vài lời rồi yêu cầu Minh gắn lon cho tân Thiếu úy Nguyễn Văn Dương…

Những tràng vỗ tay vang pḥng họp… Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng mời tất cả xuống Câu Lạc Bộ dự buổi họp mặt mừng Sĩ Quan tân thăng. Dọc lối đi, Minh cứ phải xin phép dừng lại bắt tay, chào hỏi những anh em Hạ sĩ Quan, Binh sĩ đón chào với những lời chúc mừng: Trời đất ! Thiếu Tá ở đây từ hồi c̣n là Thượng sĩ. Mấy năm trước, rời đơn vị chuyển sang ṭa án, là Trung Úy, nay về thăm đơn vị cũ, cũng là Thiếu Tá như Tiểu Đoàn Trưởng…. Nhiều anh em đứng từ xa, cũng giơ tay chào và la to như để chúc mừng…

*

Minh luôn luôn sống gần gũi và thương mến anh em. Có lẽ đă từng là binh sĩ cho nên anh hiểu họ nhiều hơn và họ cũng thương mến anh hơn…

Bước vào đồn canh, Minh giơ tay chào lại anh em khi Trung Sĩ Nhất đồn trưởng hô “Phắc!” để tất cả anh em đứng lên, chào vị Sĩ Quan chỉ huy của ḿnh. Sau khi xem xét, Minh dặn Hạ Sĩ Quan đồn trưởng “ Không một ai được phép ra khỏi cổng trại đêm nay, dù là đêm 30 Tết, nếu không có Sự Vụ Lệnh do Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng hay tôi kư. Nếu gặp khó khăn ( ư Minh muốn nói: nếu có các Sĩ Quan khác tự ư lái xe Jeep ra khỏi cổng ), cứ gọi điện thoại cho tôi giải quyết !” Giống hệt Thiếu Tá Nguyễn Hữu Viên, Tiểu Đoàn Trưởng, xuất thân Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Minh thích làm việc là làm việc hết ḿnh, khi chơi là chơi xả láng, thứ nào ra thứ đó, không có lộn xộn…

Chỉ c̣n nửa tiếng đồng hồ nữa là sang năm mới. Đúng 12 giờ đêm 30 Tết, đón chào năm mới Mậu Thân 1968… Pháo nổ tưng bừng. Chiêng trống vang lên khắp nơi. Lính tráng đâu đó đem súng ra bắn chơi cho vui. Riêng đơn vị anh, không một quân nhân nào được phép làm như vậy. Pháo nổ hoài mà súng cũng nổ hoài. Thế là cái ǵ ? Minh chạy như bay vào pḥng trực, đích thân nhấn c̣i điện báo động. Tất cả mọi quân nhân trong trại ào ra các hố cá nhân, giao thông hào chung quanh trại trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Các Sĩ Quan đi kiểm soát khu vực trách nhiệm của ḿnh. Những ánh đèn pin xanh lè, loáng thoáng đó đây…



- Chiến trận Tết Mậu Thân diễn ra ở nhiều nơi –



Tin từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và đài phát thanh cho hay: Việt Cộng đang từ ngả Đ̣ Xu đánh vào doanh trại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Một cánh quân khác đang tấn công vào Bộ Chỉ Huy Quân Trấn…



Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng điện thoại cho Minh, dặn ḍ rồi cho biết: Việt Cộng đang mở cuộc tổng tấn công vào thủ đô Sài G̣n cũng như hầu hết các thành phố quan trọng trên lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. Việt Cộng đă chiếm và kiểm soát một khu vực thành phố Huế. Tại Đà Nẵng, Việt Cộng từ hướng Đ̣ Xu đánh vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, nhưng không gây được áp lực mạnh mẽ. Phía Bộ Chỉ Huy Quân Trấn, Việt Cộng từ phía Ty Ngân Khố, đánh sang, do lực lượng đặc công chủ động. Các mũi tấn công từ ngoại vi thành phố đă bị lực lượng Thiết Giáp và Biệt Động Quân của ta chặn đánh. Tin từ Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn cho hay: Lực lượng tấn công của địch đă bị quân ta chặn đánh ngay từ ṿng đai bên ngoài cho nên số quân lọt được vào doanh trại Bộ Tư Lệnh rất yếu ớt và bị đánh bật ra ngay…

Minh cùng đơn vị đă thức suốt đêm. Đơn vị anh rất kỷ luật, quân số cấm trại ứng chiến luôn luôn đủ 100 phần trăm. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng rất thông cảm với binh sĩ cho nên những lúc cấm trại, ông luôn sống sát với anh em, chia sẻ vui buồn với mọi người. Ngày nghỉ, ban ngày b́nh yên, ông cho phép anh em thay phiên 50 % quân số về thăm gia đ́nh. Tối đến, giờ điểm danh bắt buộc đông đủ 100 %. Ông lo lắng đến đời sống tinh thần, vật chất, giải trí cho mọi quân nhân trong đơn vị, giúp đỡ gia đ́nh binh sĩ trong những hoàn cảnh khó khăn. Vấn đề thưởng phạt công minh. Hầu hết mọi người trong đơn vị đều thương mến và dành cho ông một ḷng kính phục. Tháng 6 - 1968, sau vụ Tết Mậu Thân ít lâu, Thiếu Tá Viên từ trần tại Tổng Y Viện Duy Tân, Đà Nẵng v́ bệnh tai biến mạch máu năo trầm trọng. Khi tiễn đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng, nhiều anh em đă khóc thật sự, trong đó có Trung Úy Phan Đức Minh, người từng mang ơn Quân Đội, mang ơn Thiếu Tá Viên là người đă cho anh những bài học quư giá, những gương sáng về nghệ thuật chỉ huy. Lúc hạ huyệt, Minh cầm một ḥn đất thả xuống nắp quan tài, xong đứng thẳng , chào Thiếu Tá Viên một lần cuối , rồi bỗng nhiên hai tay ôm lấy mặt … Anh bước vội ra chiếc xe Jeep đậu gần đó. Cậu Hạ Sĩ tài xế thấy thế cũng hai tay ôm lấy mặt, gục đầu xuống, hai vai rung lên trong sự nghẹn ngào… T́nh thương yêu Huynh Đệ Chi Binh trong Quân Đội ta là thế đấy!

Sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, Minh nhận được tin quân sự chính thức: Lực lượng vũ trang cộng sản đánh vào thành phố Đà Nẵng đă hoàn toàn bị đẩy lui. Việt Cộng coi như hoàn toàn thất bại, phải tháo chạy trở lại phía Đ̣ Xu, rút về ngả Vĩnh Điện, Hội An. Một phần lực lượng địa phương của Tỉnh Đội Quảng Nam – Đà Nẵng bị kẹt, phải chạy qua ngả Ḥa Cường. Ở đây, chúng đụng phải một đơn vị bộ binh Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa và Tiểu đội ứng chiến của Tiểu Đoàn Truyền Tin Quân Đoàn I. Minh nhận được báo cáo vô tuyến của Thiếu Uư Thạch, Sĩ Quan chỉ huy toán ứng chiến: Có 1 binh sĩ bị thương nặng, cần đưọc di tản ngay vào Tổng Y Viện Duy Tân. Với tư cách Sĩ Quan trực nhật, Minh cho toán cấp cứu nhẩy ngay lên xe Dodge 4 x 4 đi liền, sau khi ra lệnh “ Tất cả: lên đạn ! Trừ tài xế, c̣n tất cả súng cầm tay, sẵn sàng phản ứng ngay tức khắc! ”

Một lúc sau, toán cấp cứu trở về. Toán trưởng báo cáo: “Thưa Trung Úy! Binh nhất Thắng bị đạn AK thủng bụng, đă đưa vào Tổng Y Viện Duy Tân, pḥng cấp cứu ! “ Th́ ra: Một toán Việt Cộng bị đánh bật ra khỏi khu vực Quân Đoàn, chạy ngược về hướng Đ̣ Xu, bị đụng Biệt Động Quân. Thế là tụi nó chạy dạt sang phía Ḥa Cường, phía có toán ứng chiến của Thiếu Uư Thạch. V́ không phải là đơn vị tác chiến thật sự nên Thiếu Uư Thạch cho quân nằm tại chỗ, chỉ nổ súng khi địch lọt vào khu vực trách nhiệm, không tấn công hay truy kích địch trong khu vực trách nhiệm của các đơn vị bạn. Từ xa, Binh Nhất Thắng thấy thằng Việt Cộng chạy sau cùng bị thương ở chân, chạy không kịp đồng bọn. Thắng thấy thèm khẩu AK của nó quá nên dầu là lính truyền tin, nó cũng xách khẩu Carbin M-2 nhẩy lên khỏi hố cá nhân, rượt theo tên Việt Cộng bị thương. Thiếu Uư Thạch quát lên, nhưng nó không c̣n nghe thấy ǵ nữa, nó phóng theo, ria 1 băng. Thằng Việt Cộng té nhào. Đồng bọn của nó thấy chỉ có 1 người đuổi theo cho nên 1 thằng khác cố quay lại đáp lễ cho Thắng 1 băng AK. Thắng qụy xuống, nhưng vẫn c̣n trông rơ bọn chúng quay lại xốc thằng bị thương đem đi, lượm luôn khẩu AK dưới đất và biến sau lùm cây kế đó…



Tối Mồng Một Tết, cả Tiểu Đoàn tập họp tại Hội Trường đơn vị để Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng nói chuyện trước khi Ban 5 chiếu phim. Thiếu Tá Viên ngồi ở chiếc bàn phía trước. Cả Tiểu Đoàn, từ Sĩ Quan đến Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ ngồi đối diện với ông trên những hàng ghế chật ních Hội Trường. Thiếu tá Viên cất tiếng hỏi, “Anh em có biết tôi tập họp Tiểu Đoàn như thế này để nói chuyện chi không?”. Mọi người yên lặng . Có tiếng x́ xào bàn tán. Thiếu Tá Viên tiếp theo, “ Đơn vị chúng ta có chuyện đáng buồn. Đáng lẽ nó không xẩy ra mới phải. Đó là Binh Nhất Thắng, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Úy Thạch, đóng chốt ở Hoà Cường, đă vô kỷ luật, không tuân lệnh cấp chỉ huy, tự ư đuổi theo địch để đến nỗi bị bắn thủng bụng. May mà không thiệt mạng. Quân Đội là phải có chỉ huy, không phải ai muốn làm chi th́ làm…” Ông nói hăng say như muốn lôi đầu Binh Nhất Thắng ở bệnh viện về đây mà trị tội cho nó biết thế nào là kỷ luật. Sau cùng Thiếu Tá Viên tiếp, “ Đó, sự việc vô kỷ luật là như thế đó! Đến đây có anh em nào muốn nói chi không, nhất là các Sĩ Quan? ” Mọi người yên lặng trong không khí trang nghiêm, căng thẳng. Vừa lúc ấy th́ Trung Úy Minh đứng dậy: “Thưa Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, qúy vị Sĩ Quan cùng tất cả anh em! Tôi hoàn toàn công nhận những điều Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng vừa chỉ bảo, khuyên nhủ anh em chúng tôi là đúng với cương vị của một cấp chỉ huy có trách nhiệm. Tuy nhiên, thưa Thiếu Tá ! Trường hợp vô kỷ luật của Binh Nhất Thắng có những điều làm cho chúng ta suy nghĩ mà không thể đem nhốt Binh Nhất Thắng vào nhà giam chung với những quân nhân vô kỷ luật khác như: vi phạm những điều nghiêm cấm trong quân kỷ, cờ bạc, rượu chè, trai gái, đánh lộn, chống lại nhân viên công lực, trộm cướp, hiếp dâm, đào ngũ chạy theo địch vv… Hành động vô kỷ luật của Binh Nhất Thắng xuất phát từ tinh thần chiến đấu, hi sinh, dũng cảm, danh dự, trách nhiệm của 1 quân nhân trước kẻ thù. Thưa Thiếu tá ! Nếu Binh Nhất Thắng bắn hạ được tên Việt Cộng, lấy được khẩu AK của nó, đem về tặng cho Thiếu Tá, và danh tiếng của Tiểu Đoàn Truyền Tin Quân Đoàn I, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá, tuy là đơn vị hoàn toàn chuyên môn, được loan truyền trên đài phát thanh Quân Đội cũng như Quốc Gia là có những quân nhân anh hùng, dũng cảm, nêu cao tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, th́ liệu lúc đó Thiếu Tá có thấy hành động vô kỷ luật của Binh Nhất Thắng là đáng đem nhốt vào nhà giam kỷ luật giống như những quân nhân vô kỷ luật khác hay không? Nhân danh Sĩ Quan trực trong thời gian đó, tôi xin Thiếu Tá tha tội vô kỷ luật cho Binh Nhất Thắng. Nếu Thiếu Tá phạt nó th́ xin Thiếu Tá phạt luôn cả tôi v́ tôi cũng có phần nào trách nhiệm về hành động của nó…” Cả Hội Trường vỗ tay ào ào không dứt. Anh em binh sĩ đứng hết cả lên: “ Hoan hô Trung Úy Phan Đức Minh ! Hoan hô Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng ! Hoan hô Binh Nhất Thắng!” Thiếu Tá Viên trầm ngâm suy nghĩ rồi nói, “ Tôi có làm chi đâu mà anh em hoan hô tôi? Điều đó nên dành cho Trung Úy Minh v́ ông ấy nói như vậy th́ c̣n ai căi được nữa? Cái nghề của ông ấy là nghề Luật Sư, Thầy Căi chớ không phải Sĩ Quan truyền tin. Mai mốt ông ấy có đổi sang ngành Quân Pháp để phục vụ tại các Ṭa Án Quân Sự th́ cũng đúng thôi ! Tôi chấp thuận lời xin của ông ấy ! Anh em nghĩ sao?” Cả Hội Trường lại vỗ tay vang như sấm dậy liên hồi…

Ngày Mồng 2 Tết Mậu Thân… Việt Cộng chiếm đóng và kiểm soát phần quan trọng của thành phố Huế. Một số Sĩ Quan cùng bị bắt với nhân viên chính quyền khi có mặt tại gia đ́nh trong đêm 30 Tết, trong đó có vài người bạn thân của Minh. Anh chép miệng, “ Nếu chúng nó cứ nằm trong đơn vị với anh em th́ đâu đến nỗi ! Ngày Tết ai chẳng muốn về đón Giao Thừa với gia đ́nh, nhưng quân đội cần ḿnh làm gương cho binh sĩ, tại sao ḿnh không làm ?”

Minh đă hết nhiệm vụ Sĩ Quan Trực từ chiều Mồng Một Tết. Sĩ Quan Trực ngày Mồng 2 là Sĩ Quan Trung Đội Trưởng vô tuyến. V́ nhu cầu hành quân của Quân Đoàn, Sĩ Quan này phải dẫn 1 toán chuyên viên với máy móc lên xe đi ngay. Khi tŕnh kư Sự Vụ Lệnh, Thiếu Tá Viên hỏi Minh, “ Trung Úy Phúc đang là sĩ quan trực, đă có ai thay nó chưa?” Ngày Tết mà dính mấy cái vụ này thật là kẹt ! Muốn lẹt xẹt đây đó trong hay ngoài đơn vị một tí, dù là ban ngày, cũng chịu chết! Thiếu Tá Viên đùa dai với Minh, “Cậu làm Sĩ Quan Trực ngày Mồng Một rồi, nay làm luôn ngày Mồng 2 được không ? ” Minh đáp, “Nếu Thiếu Tá và đơn vị cần th́ tôi làm liền !” Thiếu tá Viên vui vẻ, “Ờ thôi, Cậu làm luôn đi! Mai mốt rảnh rang, muốn nghỉ ngơi, Moa cho Cậu thoải mái! ” Thế là Minh lại lên Pḥng Trực nhận bàn giao. Minh vừa nhấc điện thoại kiểm soát các điểm canh pḥng th́ Hạ Sĩ Quan trực báo cáo “ Thưa Trung úy, có báo cáo vô tuyến từ toán ứng chiến Ḥa Cường!” Minh nghe vô tuyến rồi ra lệnh “Giữ chúng nó cẩn thận, sẽ có người tới đem về Tiểu Đoàn ! ” Th́ ra toán Việt Cộng bị rượt đuổi hôm qua, chui rúc đâu đó, sang Mồng 2, bị Quân Đội ta lục soát kỹ quá nên đành chạy qua ngả Ḥa Cường, nhào vào khu vực của Tiểu Đội truyền tin đóng chốt. Chúng nó vừa chạy vừa bắn xối xả vào các mục tiêu nghi ngờ phía trước. Tiểu đội truyền tin nổ súng. Một tên té nhào. Toán Việt Cộng xả đạn như mưa vào Tiểu Đội truyền tin rồi chạy dạt sang phía khác. Chúng nó cần súng đạn hơn là cần người của nó nên chúng bắn phủ lên Toán truyền tin rồi nhào vô lượm khẩu AK chạy đi, bỏ thằng bị thương nằm lại. Thằng Việt Cộng cầm 2 khẩu AK lúng túng nên tụt lại phía sau. Nó lănh luôn 1 băng Carbin M-2, chạy được vài buớc thí qụy xuống, nhưng nó vẫn cố quăng 2 khẩu AK cho đồng bọn mang đi rồi mới chịu nằm yên tại chỗ. Toán truyền tin bắt được 2 tù binh nhưng tiếc là không lấy được khẩu AK nào. Tụi Việt Cộng trở về đơn vị mà mất súng th́ chỉ có nước nó chôn sống hay bắn bỏ. Chúng nó cần súng đạn chớ đâu có cần sinh mạng con người, dù là con người của chúng nó.

Chiếc xe Dodge 4 x 4 đậu trước cửa Pḥng Trực. Minh ra lệnh “ Dẫn 2 anh đó vào trong này ! Gọi y tá chăm sóc cho họ. Họ bị bắt rồi. Ḿnh phải đối xử tử tế ! ” Hai tên Việt Cộng nh́n Minh với vẻ sợ sệt. Minh cởi dây nịt, đưa khẩu súng Colt-45 cho 1 binh sĩ phía sau cầm để chúng nó đỡ sợ. Hai tên Việt Cộng c̣n trẻ măng, nói tiếng Quảng Nam. Minh hỏi họ “Các anh có phải là bộ đội chủ lực của Tỉnh không ? ” Chúng gật đầu. Minh bảo họ, “Các anh cứ yên tâm. Các anh bị bắt rồi. Chúng tôi không làm ǵ các anh cả. Lát nữa sẽ có người đưa các anh tới cơ quan có trách nhiệm. À, mà các anh có đói không ? ” Hai tên Việt Cộng mắt sáng lên. Minh bảo Hạ Sĩ Quan trực xuống Câu Lạc Bộ nói đem lên đây 2 tô bún ḅ và 2 ổ bánh ḿ. Trông 2 tên Việt Cộng ăn uống ngon lành, Minh nói với họ, “Cách đây nhiều năm, tôi cũng đă từng chiến đấu như các anh. Các anh c̣n trẻ quá ! Một ngày nào đó, các anh cũng sẽ nhận ra bộ mặt thật của cuộc chiến đấu này, giống như tôi cách đây nhiều năm về trước.” Cả hai ngước mắt nh́n anh chậm chạp rồi cúi gầm mặt xuống. Ăn xong, hai tên Việt Cộng tỉnh táo hẳn lên, chứng tỏ rằng họ đă bị đói có thể từ hôm trước. Minh hỏi cậu binh sĩ đứng bên cạnh, “ Có bật lửa không ? Lấy bao thuốc lá trên bàn kia, đưa cho các anh ấy hút một điếu đỡ lạnh. Trời đất ngày Tết lạnh hơi nhiều ! ” Bất chợt, Minh nh́n xuống bộ quân phục của ḿnh: một cái áo “Field Jacket ” cổ bọc lông thú nhân tạo, hai bông mai vàng gắn trên cái nền bằng nhung mầu hạt dẻ, cài trên ngực áo, giầy cao cổ, đầu đội mũ, đeo bao tay da mà c̣n thấy lạnh, vậy mà hai thanh niên kia c̣n quá trẻ, đói khát cả ngày, bị thương, mỗi người 1 cái quần đùi và cái áo vải đen mỏng dính, sát vào người, lại bị rách vài ba chỗ hở cả da, cả thịt… Ai cũng là người cả, dù họ là 2 tên Việt Cộng bị bắt làm tù binh… Đất nước, dân tộc ḿnh đau khổ là thế. Không biết đến bao giờ ?

Chiếc xe Dodge lăn bánh, chở toán lính vũ trang, đem 2 tên tù binh Việt Cộng giao cho Đặc Khu Đà Nẵng. Minh nh́n theo, buông 1 tiếng thở dài…

Tin tức quân sự cho hay: cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trên khắp lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa đă bị đánh bại hoàn toàn. Địch chỉ c̣n chiếm giữ và kiểm soát khu vực Thành Nội của Cố Đô Huế. Một lúc nào đó, bọn Việt Cộng rồi cũng phải bỏ chạy khỏi nơi này. Số phận của các quân nhân, nhất là Sĩ Quan, nhân viên chính quyền, Đảng phái chính trị, nhân dân bị chúng coi là phản động đang trong gọng ḱm kiểm soát của chúng nó rồi sẽ ra sao?

Khi lực lượng Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân, rảnh tay ở các chiến trường đă thanh toán xong, cùng đổ về đây th́ bọn Việt Cộng chịu chi cho nổi. Chúng nó trên đường tháo chạy, đă lùa theo hàng ngàn người thuộc loại kể trên, trói lại từng xâu rồi cho lệnh bắn hàng loạt. Tiếc đạn quá, chúng nó cho lệnh giết bằng mă tấu, lưỡi lê, dao găm. Cứ thế mà chém ngang cần cổ, cứ lụi vào lưng. Không chết cũng đạp xuống những cái hố chôn tập thể đă được dân quân, du kích và dân công địa phương đào sẵn khi chúng thấy t́nh h́nh giữ Huế không c̣n nổi nữa. Phát xít Đức tàn sát người Do Thái, giết các quân nhân Ba Lan bằng pḥng hơi ngạt, bằng ḷ thiêu tập thể, hồi Thế Chiến thứ 2 đâu có ghê gớm, kinh khủng bằng lối giết người của Việt Cộng ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân !



Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa đă chiến thắng oanh liệt trên khắp 4 Vùng chiến thuật, cũng như tại thủ đô Sài G̣n…Tất cả Tiểu Đoàn tập họp tại Hội Trường. Thiếu Tá Viên muốn dành quyền cho các quân nhân trong đơn vị đề cử những Binh sĩ đă phục vụ xuất sắc, thuộc mọi lănh vực công tác, trong chiến dịch Tết Mậu Thân, vào danh sách thăng thưởng gửi lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn duyệt xét. Các Sĩ Quan Đại Đội Trưởng, Trung Đội Trưởng đưa ra những binh sĩ xuất sắc thuộc quyền chỉ huy của ḿnh, như các chyên viên điện thoại dă chiến, chuyên viên vô tuyến điện, viễn ấn tự, siêu tần số, chuyên viên sưả chữa quân xa vv… đă tích cực phục vụ khi đi theo các cuộc hành quân trong vùng hay ngay tại đơn vị bất kể ngày đêm. Danh sách gồm những binh sĩ thật là xứng đáng được cấp trên khen thưởng, cho thăng cấp. Đến lượt Trung Úy Phan Đức Minh đứng lên. Anh nói,“Thưa Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng! Thưa quư vị Sĩ Quan cùng toàn thể anh em! Những binh sĩ xuất sắc của đơn vị ta đă được đề nghị ghi vào danh sách thăng thưởng, thật là xứng đáng! Tuy nhiên, chúng ta đă quên, đă bỏ sót một binh sĩ, theo tôi rất xứng đáng được ghi tên vào danh sách này. Đó là binh sĩ mà cách đây vài hôm tôi đă xin Thiếu Tá tha cho tội “Vô kỷ luật, bất tuân thượng lệnh”. Binh sĩ đó đang nằm bệnh viện với vết thương nơi bụng. Thiếu Tá đă chấp thuận. Hôm nay, một lần nữa tôi xin Thiếu Tá, quư vị Sĩ Quan cùng anh em hăy nghĩ đến Binh nhất Thắng đang nằm bệnh viện. Nếu Thắng nó cũng b́nh thường như mọi người b́nh thường khác th́ giờ này nó cũng đang vui xuân với đơn vị, với anh em, với gia đ́nh, bạn bè của nó. Tôi dùng tiếng “Nó” ở đây v́ chúng tôi coi nhau như anh em ruột thịt trong một gia đ́nh, như bạn bè thân thiết. Ngày gần đây, tại sân cờ đơn vị, chúng ta sẽ có nhiều binh sĩ được thăng cấp v́ công lao khó nhọc, gian khổ. Tại sao chúng ta không cho Binh Nhất Thắng được chia sẻ niềm vinh dự đó? Trong phạm vi chuyên môn, kỹ thuật, Binh Nhất Thắng là một binh sĩ giỏi, luôn luôn xung phong trong mọi công tác khi cần. Điều này chắc Đại Úy Đại Đội Trưởng của Thắng cũng đồng ư với tôi! Ngoài ra, Binh nhất Thắng, dù là một binh sĩ truyền tin, không thuộc đơn vị tác chiến, nhưng có một tinh thần chiến đấu, hi sinh, dũng cảm, sẵn sàng v́ Quân Đội, mà xả thân, lăn vào nguy hiểm, dám quên sinh mạng của chính ḿnh. Trong cuộc chiến tranh không trận tuyến này, có thể một ngày nào đó, biết đâu đơn vị chúng ta lại chẳng có khi bị địch tấn công, tràn vào như ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, Bộ Chỉ Huy Quân Trấn. Lúc đó, chúng ta không những chỉ cần có các chuyên viên kỹ thuật tài giỏi, phục vụ hăng say như quư vị Sĩ Quan và anh em đă đề nghị ghi vào danh sách. Lúc đó chúng ta nhất định cần phải có những quân nhân dũng cảm như Binh Nhất Thắng để chúng ta không bị tiêu diệt, không bị bắt làm tù binh, để chúng ta chiến thắng.…”. Cả Hội trường lại ch́m ngập trong tiếng vỗ tay, lẫn những tiếng hoan hô… Yên lặng một lát, Thiếu tá Viên hỏi, “Các Sĩ Quan nghĩ sao về điều này?” Tất cả đều đồng thanh “Binh nhất Thắng xứng đáng được thăng thưởng như lời Trung Úy Minh!” Thiếu tá Viên nửa đùa nửa thật, “Quân đội không có chơi cái màn lấy đa số mà áp đảo như vậy nghe! Quân Đội mà như thế th́ tôi, Tiểu Đoàn Trưởng cũng chịu thua anh em là cái chắc! Nói vui vậy thôi, tôi chấp thuận lời đề nghị của Trung Úy Minh.” Anh em lại vỗ tay ào ào một lần nữa. Ở phía sau có tiếng ồn ào, “Ghê thật! Trung Uy Minh đă xin tha tội vô kỷ luật cho thằng Thắng, nay lại c̣n xin thăng cấp đặc cách cho nó nữa. Thật chịu ông ấy luôn!” Có tiếng anh em khác, “Mà không chịu ông ấy làm sao được? Sĩ Quan xuất thân Trường Luật chớ bộ! Có lư quá đi chớ !Quân Đội là phải thưởng phạt công minh, rơ ràng.”.

Ít ngày sau, tại sân cờ đơn vị, một sáng đẹp trời, dưới bóng cờ bay phất phới, Thiếu Tá Viên cùng một số Sĩ Quan Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đi duyệt hàng quân thật nghiêm trang, long trọng. Quân nhân từng Đại đội, đều như máy, nhất loạt bồng súng chào, sau tiếng hô của Sĩ Quan trực nhật. Thế rồi buổi họp mặt “khao lon” tuy đơn giản nhưng vô cùng vui vẻ rộn ràng trong tiếng đàn, giọng hát của Ban Văn Nghệ Tiểu Đoàn, đă nhiều phen đoạt giải xuất sắc của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn .

Trung Úy Minh xin phép Thiếu Tá Viên, dẫn một “Phái Đoàn” sang Tổng Y Viện Duy Tân, gắn lon Hạ Sĩ cho Binh nhất Thắng, người quân nhân anh hùng của đơn vị. V́ là bạn thân văn chương, báo chí với Bác sĩ Thiếu tá Chỉ Huy Phó bệnh viện, và thường có mặt trong các buổi sinh hoạt vui vẻ của đơn vị Quân Y này cho nên khi Trung Úy Minh dẫn phái đoàn sang tới nơi th́ đă có một số nhân viên bệnh viện túc trực tại đây. Sau khi đọc quyết định thăng cấp đặc cách của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Tư Lệnh Vùng I chiến thuật, Trung Úy Minh tươi cười, nói với Thắng, “Cậu đang nằm trên giường bệnh, không mặc quân phục nên tôi xin phép thượng cấp, gắn cấp hiệu Hạ Sĩ lên ngực áo bệnh nhân cho cậu như thế này.” Anh em và đám nhân viên bệnh viện vui vẻ vỗ tay chúc mừng Hạ Sĩ Thắng, người quân nhân dũng cảm của Tiểu Đoàn truyền tin Quân Đoàn I, quên cả là mọi người đang ở bệnh viện. Hạ Sĩ Thắng xúc động, hai mắt long lanh, “Bạn bè thân thiết đă kể cho em biết hết về câu chuyện này. Xin vô cùng cảm ơn Trung Úy !”

Minh xiết tay Hạ Sĩ Thắng cùng toán anh chị em nhân viên bệnh viện với t́nh Huynh đệ chi binh dâng ngập trong ḷng, tất cả thân thương như anh em một nhà…Trung Úy Minh và phái đoàn đă ra xe đậu gần đó mà Hạ Sĩ Thắng và anh chị em nhân viên bệnh viện vẫn c̣n vẫy tay chào từ biệt. Ngoài trời, nắng ấm đă lên tràn ngập khung trời bệnh viện Duy Tân…


San Diego, California

Phan Đức Minh

hoanglan22 12-20-2019 15:30

Nỗi Uất Hận Của Vị Tướng Mất Nước
 
1 Attachment(s)


Buổi sớm mai bầu trời có nhiều sương mù giăng dầy đặc khắp cả một vùng toàn rừng và đồi núi xung quanh, có hai người đàn ông, một trung niên và một trẻ, kẻ trước người sau lầm lũi đi về hướng những căn nhà của các cán bộ trại tù cải tạo. Người trẻ đi sau đeo cây súng AK trên vai, đó là viên vệ binh oắt con mặt lúc nào cũng vênh váo và thái độ th́ rất lấc cấc xấc xược. Viên vệ binh này nổi tiếng xấc xược với tất cả những người được gọi là cải tạo viên, dù người đó lớn tuổi đáng cha đáng chú của anh ta. Người đi trước lớn tuổi hơn và đó chính là vị Tướng bị mất nước và bị phỉnh gạt để phải có mặt ở chốn rừng thiêng nước độc này từ nhiều tháng qua. Theo cách làm việc của những người được gọi là “cách-mạng”, th́, luôn luôn bất ngờ và bí mật. Dù không được báo trước là sẽ đi đến đâu và làm ǵ, nhưng ông Tướng đoán biết là ông sẽ lại phải chịu bị thẩm vấn về một điều ǵ đó mà “cách-mạng” mới biết – hay đă biết rơ – nhưng muốn thẩm tra lại. Bản tính nghi ngờ cố hữu của người cộng sản luôn luôn là vậy.

Viên vệ binh đưa ông Tướng vào trong một căn pḥng và nói:

-Anh đứng chờ đấy. Cán bộ sẽ đến nàm việc với anh ngay bây giờ.

Nói xong viên vệ binh liền đi ra khỏi pḥng. C̣n một ḿnh, ông Tướng nh́n quanh quan sát căn pḥng. Căn pḥng vuông vức và không lớn; chỉ có một cái bàn và hai cái ghế. Căn pḥng chỉ có một cái cửa duy nhất mà ông Tướng vừa bước chân qua. Từ khi bị đưa về trại tù này, hôm nay là lần đầu tiên ông Tướng được đưa đến đây. Ông Tướng đă hiểu đúng là ḿnh được đưa đến đây để làm ǵ. Ông Tướng quay mặt lại nh́n ra phía sau lưng. Ông thấy tên vệ binh đáng tuổi con cháu ông vừa đi chân vừa đá những viên sỏi trên đường. Ông nhếch môi mỉm nụ cười nhẹ. Một nụ cười thương hại cho những người trẻ miền Bắc đă bị nhồi vào sọ một thứ chủ thuyết chỉ biết hận thù và xảo trá, nên họ mới có thái độ và những lời nói vô cùng xấc xược với những người bị thất thế mà phải vào đây; dù người đó đáng tuổi cha ông của họ. Đối với những người vệ binh có nhiệm vụ trong các trại tù mà ông đă ở qua, ông không hề oán trách hay giận họ khi họ có những thái độ và lời nói có tính miệt thị và hỗn xược với ông. Mà, nếu có trách oán th́ ông chỉ trách oán những người từ một đất nước xa lạ đă đến trên quê hương ông gọi là giúp đỡ mọi phương tiện pḥng thủ để chống lại bọn cộng phỉ phương Bắc đang âm mưu thôn tính các nước trong vùng. Từ đó, kẻ thù cùng màu da và tiếng nói với ông đă có lư do để tạo ra cuộc chiến tranh tương tàn. Khi quân đội miền Nam đang chiến thắng trên hầu hết các mặt trận th́ những người xa lạ kia liền rời bỏ quê hương ông ra đi sau khi đă cúp hết mọi viện trợ, để lại bao đau thương tang tóc uất hận cho đồng bào ông và, buộc quân đội hùng mạnh mà ông đang phục vụ phải buông súng đầu hàng trong tức tưởi. Quân đội miền Nam thật sự hùng mạnh và lừng danh với các sư đoàn thiện chiến,với các quân nhân gan dạ không hề sợ chết, quyết đem thân ḿnh ra chống trả lại sự xâm lăng để bảo toàn cuộc sống hạnh phúc ấm no cho đồng bào. Quân đội anh dũng đó đă và đang bị những đ̣n thù tàn độc mà kẻ thù cố ư giáng xuống bất cứ ở đâu và bất cứ nơi nào trên thân thể của những người được gọi với mỹ từ cao đẹp là, cải tạo viên.

“Buồn năo nề và hận tận xương tủy.” Đây là câu mà ông Tướng thường thốt ra mỗi khi ông nhớ lại những tháng ngày tung hoành trên khắp bốn quân khu, và, với hiện tại. Ông buồn và hận v́ đại đơn vị do ông chỉ huy chưa được đánh một trận nào ra hồn mà đă phải bị bắt buộc đầu hàng… dẫn đến việc ông phải đi tŕnh diện để vào tù. Ông Tướng lại nhớ đến vị Tướng Tư-Lệnh Quân Đoàn. Một vị Tướng tài giỏi và đức độ nhưng cô đơn.Trong trận Điện Biên Phủ ông ấyđă từng bắt nhịp bài Quốc ca Pháp La Marseillaise cho lính Quốc gia Việt Nam vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1 và được các sĩ quan Pháp nể phục. Ông Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn đă tự t́m đến cái chết để minh oan với toàn quân và toàn dân về việc thượng cấp đă đổ hết mọi tội lỗi cho ông trong cuộc lui quân khỏi vùng cao nguyên.

Cái c̣n lại trong cuộc đời mỗi con người là ân nghĩa. Ân nghĩa như ḍng suối mát tưới trên một đời người, một kiếp người. Vị Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn đă sống trọn vẹn ân nghĩa… cho đến ngày ông không c̣n trên cơi đời này nữa. Ông Tướng tin rằng, với một người như vị Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ luôn mỉm cười nơi chín suối. Nếu ông Tướng là người không có đạo Công Giáo th́ ông đă gặp lại vị Tư Lệnh tài ba và đức độ của ông từ lâu rồi. Một phát súng vào đầu, đó là việc mà ông đă từng muốn thực hiện trước khi Saigon thất thủ.

Ông Tướng không hề ân hận khi quyết định ở lại với quê hương đất nước mà ông đă quyết dâng hiến cả cuộc đời để bảo vệ đến cùng. Ông là một trong những vị Tướng lănh vào những ngày thủ đô Saigon hấp hối vẫn c̣n phương tiện, c̣n trực thăng để bay ra hạm đội 7. Ông ở lại và hănh diện v́ đă làm tṛn bổn phận: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Ông Tướng không lúc nào là không nhớ đến vợ con. Ông thương người vợ hiền và chung thủy đă quyết định ở lại quê hương cùng ông và chấp nhận mọi sự nghiệt ngă sẽ giáng xuống gia đ́nh, nên đă từ chối lời mời của viên Đại Tá Chỉ huy phó cơ quan DAO muốn giúp đưa đi di tản.

Ông Tướng vẫn đứng yên trước cái bàn và hai cái ghế. Hai mươi phút đă trôi qua mà vẫn chưa có người nào đến để gọi là làm việc với ông. Có lẽ kẻ thù muốn làm nhục ông bằng cách bắt ông phải đứng chờ dù trong bao lâu mà không được ngồi, nếu chưa được phép. Một sự lăng nhục có chủ ư và điều đó đă làm cho kẻ thù của ông lấy làm sung sướng. Họ sung sướng được hành hạ, được lăng nhục tất cả những vị sĩ quan của miền Nam, đặc biệt là những người mang cấp Tướng; là những người đă từng đánh cho họ tan tác và chạy trối chết đến phải trốn chui trốn nhủi tận trong rừng sâu. Nhưng, nếu như họ hả hê sung sướng một, th́ ông Tướng lại hả hê sung sướng gấp bội phần. Cho đến nay và măi măi kẻ thù sẽ không bao giờ khuất phục được ông. Kẻ thù đă áp dụng mọi cực h́nh tinh vi và tàn độc nhất… Ông và các vị Tướng thất thế luôn giữ thái độ của ngườiTướng lănh từng chỉ huy các đại đơn vị, nên, dù trong t́nh thế nào th́ kẻ thù cũng không bao giờ dám khinh thường.

Ông Tướng buồn bă nh́n lên tấm h́nh treo trên cao sau cái ghế. Cái ghế mà lát nữa đây sẽ có người cán bộ ngồi vào đó.Và, người đó dù với cấp bậc nào th́ cũng có quyền bắt ông Tướng phải nói ra những điều mà người đó muốn.Tấm h́nh lớn treo trên cao chụp gương mặt người đàn ông già với râu tóc bạc phơ mà đồng bào miền Bắc xem như là ông thánh.Trái lại, đối với ông Tướng và đồng bào miền Nam th́ lại xem ông là tên tội phạm đă đem một chủ nghĩa man rợ vô nhân tính vào quê hương để gieo rắc đau thương, hận thù, chia ly và tang tóc đến với mọi người.

Ông Tướng vẫn yên lặng đứng thẳng người trước cái ghế mà lát nữa đây ông sẽ ngồi vào đó. Ông sẽ ngồi vào cái ghế mà kẻ thù đă ví đó là ghế của bị cáo. Cũng như ở những nơi khác, cái ghế này đặt cách xa cái bàn khoảng nửa thước ngầm cho người ngồi vào ghế đó biết ḿnh là tội phạm.Tội không chịu buông súng sớm hơn để… được giải phóng sớm hơn. Ông Tướng miên man nghĩ, nếu như cuộc chiến chấm dứt mà phần thắng nghiêng về những người miền Nam th́ kẻ thù chắc chắn sẽ được đối xử đúng phẩm cách, đúng đạo lư và đúng với bản tính của con người Việt-Nam là, nhân đạo.

Cánh cửa sịch mở, một vị sĩ quan đeo cấp hàm đại úy xuất hiện.Viên đại úy đi thẳng đến cái ghế đặt sau cái bàn và rồi anh ta cố ư làm như là bận rộn t́m chỗ để đặt cái “xắc cốt” nên không nh́n đến ông. Ông Tướng quan sát viên sĩ quan. Anh ta là hiện thân của giai cấp bần cố nông v́ cái mặt nh́n thật ngu đần và gian ác, với mái tóc như rễ tre trên cái mặt đen xạm và tai tái của người bị bệnh sốt rét quanh năm. Cái hàm răng của viên sĩ quan làm cho ông Tướng nhớ đến những năm tháng ông phục vụ ở vùng đồng bằng sông Cửu-Long. Trong một đơn vị kia có một người lính gan ĺ và sát cộng nổi tiếng đến độ Việt cộng t́m mọi cách để trừ khử mà không được. Đó là theo lời khai của các cán binh Việt cộng khi bị bắt. Một hôm ông ghé thăm đơn vị này, các đồng đội của anh lính nổi tiếng sát cộng trong một lúc vui đùa đă chỉ vào người lính có hàm răng trên nhô ra như mái hiên nhà và nói với ông: “Trung Tá ơi, thằng này ngoài tài sát cộng, nó c̣n có tài nạo dừa mà chỉ trong tích tắc là hết một trái mà không cần đến bàn nạo.” Nghĩ đến những trái dừa làm cho ông Tướng nhớ đến một vùng quê hương nổi danh với món kẹo dừa thơm ngon và béo ngậy. Những viên kẹo dừa thơm phức và ngọt lịm làm cho ông Tướng phải nuốt vội nước miếng. Một trong những phương pháp trả thù của kẻ thù là không bao giờ cho những “cải tạo viên” được ăn no nhưng lại bắt phải làm việc thật nhiều và thật nặng. Nh́n cái tướng bần cố nông của viên Đại úy, ông Tướng đoán tŕnh độ học vấn của anh ta chắc chắn chỉ i tờ… đă làm cho ông, một lần nữa phải thốt ra câu: “Buồn năo nề và hận tận xương tủy.”

Sau khi viên sĩ quan đặt được cái ‘xắc cốt” lên bàn và kéo ghế ngồi, hắn chỉ tay vào cái ghế trước mặt:

-Anh… ngồi xuống đấy đi.

Ông Tướng từ từ ngồi xuống với hai tay đặt trên đùi. Ông Tướng hơi ngẩng đầu nh́n lên cao nhưng lại vội vàng cúi xuống nh́n ngay mặt viên sĩ quan; tuy có ngu đần nhưng cũng đỡ hơn nh́n h́nh tên tội phạm.

Viên sĩ quan rót nước trà vào hai cái ly, hắn đặt ly nước trà trước mặt ông Tướng và mời:

-Mời anh dùng cốc lước chè cho ấm. Giời hôm lay hơi nạnh đấy.

Ông Tướng mỉm nụ cười nhưng vẫn ngồi yên và mắt vẫn nh́n ngay mặt viên sĩ quan chờ đợi.Từ khi phải đi tù, ông Tướng đă tiếp xúc với những người sĩ quan đối nghịch từ cấp nhỏ cho đến cấp Tướng. Nhiều người trong họ nói ngọng N ra L và ngược lại. Mặc dù là người đang có quyền nhưng rơ ràng viên sĩ quan đă tỏ ra lúng túng khi thấy thái độ của ông Tướng nh́n ḿnh và cười mỉm. Anh ta cố giữ cho b́nh tĩnh khi cầm bao thuốc lá Sông Hương, một loại thuốc thơm cao cấp rút ra một điếu gắn lên đôi môi thâm đen ś và đốt hút. Hút xong một hơi dài, anh ta đưa bao thuốc về phía ông Tướng và mời:

– Mời anh.

– Cám ơn cán bộ, tôi không hút.

– Anh không hút thuốc à?

– Có… nhưng hiện tại tôi không thấy thèm.

Viên sĩ quan để bao thuốc lá bên cạnh, bên tay trái của anh ta rồi từ từ lấy trong cái “xắc cốt”ra một tập hồ sơ. Viên sĩ quan nh́n vào tập hồ sơ và nói chứ không nh́n ông Tướng:

-Hôm lay tôi được trên giao nhiệm vụ đến gặp anh để hỏi anh một vài vấn đề… cho được sáng tỏ hơn. Anh cũng hiểu nà chúng tôi đă biết hết mọi chuyện rồi nhưng chúng tôi vẫn muốn tự anh viết ra để trên có cơ sở đánh giá xem anh có thành thực và đă nĩnh hội được như thế lào về cách mạng. Trong bản tự khai của anh có hai vấn đề mà anh cố t́nh giấu giếm không viết ra. Buổi lói chuyện hôm lay nà cơ hội để cho anh lói ra hết những ǵ c̣n nấn cấn trong ṇng anh. Chúng tôi muốn biết nà… giai đoạn… từ núc anh về chỉ huy một đại đơn vị thuộc Quân khu II cho đến khi anh nên Tướng, cụ thể anh đă giết bao nhiêu người chiến sĩ cách mạng của chúng tôi mà trong tờ khai không thấy anh viết ra?

-Tôi vào…

Trong một phút sơ hở v́ phải chú ư lắng nghe xem viên sĩ quan muốn nói ǵ, hỏi ǵ với giọng ngọng nghệu và đặc sệt của người dân Nghệ Tĩnh, nên, ông Tướng đă để cho viên sĩ quan chỉ tay vô mặt ông và nói như quát:

-Trước khi trả nời tôi hay anh muốn lói với tôi điều ǵ anh phải… thưa gởi cho đúng phép nhé. Chúng tôi nà cán bộ được đảng giao trách nhiệm giáo dục các anh để trở thành người có ích cho xă hội. Chúng tôi sẽ nghiêm trị bất cứ người lào vẫn ngoan cố không chịu tiếp thu những ǵ chúng tôi đă truyền dạy.

Sau câu nói, viên sĩ quan thay đổi nét mặt và nh́n ông Tướng vẻ dịu dàng hơn:

– Bây giờ anh lói tiếp đi.

Ông Tướng nuốt nhanh nước miếng như nuốt nỗi uất nghẹn vào tận đáy ḷng. Quân đội mà ông từng phục vụ luôn tôn trọng phẩm cách con người, dù người đó là người dân b́nh thường hay là kẻ thù bị lính của ông bắt được. Ông Tướng từng cảm thấy phiền ḷng khi biết được những người an ninh thuộc quyền ông đă có hành vi tra tấn hay lời nói mạt sát với những người cán binh Việt cộng trong lúc bị thẩm cung; ngoại trừ những người ngoan cố. Nhưng, hôm nay vị thế của ông Tướng đă khác rồi. Được làm vua, thua làm… tù binh. Mà, tù binh của cộng sản th́ phải chịu đủ mọi thứ hành hạ. Ông nói nho nhỏ trong miệng câu mà ông vẫn thường nói: “Buồn năo nề và hận tận xương tủy.”

-Thưa cán bộ, tôi về Quân khu II năm 1972 và chỉ huy một trong những binh chủng thiện chiến nhất của miền Nam.Tôi đă chỉ huy nhiều chiến dịch và những trận đánh… Chẳng hạn như trận Pleime năm 1965 và 1974. Đặc biệt là năm 1974 khi Sư đoàn 320… của cách mạng sau ba mươi ba ngày đêm với hai mươi hai lần tấn công biển người vào căn cứ… chỉ có năm Đại đội pḥng thủ, nhưng, đă không chiếm được căn cứ. Nếu cán bộ muốn biết chúng tôi đă giết bao nhiều người của cách mạng th́ tôi xin xác nhận là… rất nhiều.Tôi chỉ có thể phỏng chừng là… nhiều chục ngàn…

Viên sĩ quan ngắt ngang lời ông Tướng và hỏi:

-Anh có thấy đó nà tội ác chống nại nhân dân chống nại cách mạng với vũ khí của bọn Mỹ không?

-Thưa cán bộ, đă là người lính, mà lại là người lính trong suốt hai mươi hai năm trời ngoài mặt trận để chống lại sự xâm lăng…

Viên sĩ quan đổi sắc mặt giận dữ và đập mạnh tay lên bàn. Đôi con mắt của anh ta long lên như tóe lửa nh́n ngay mặt ông Tướng thất thế và quát lên thật lớn đến văng cả nước miếng ra bàn:

-Anh phải nhận định cho rơ ai nà người xâm năng mới được. Có phải đó nà bọn Mỹ ác ôn không? Bọn Mỹ đă đem vũ khí súng đạn tàu bay tàu thủy vô xâm chiếm lước ta và c̣n được bọn ngụy các anh tiếp tay lên đảng của chúng tôi mới phát động cuộc chiến tranh giải phóng và đă đưa đến thắng nợi hoàn toàn vào lăm một chín bảy nhăm. Đảng của chúng tôi đă nănh đạo công cuộc giải phóng miền lam khỏi bọn xâm nược Mỹ, và đánh cho bọn ngụy ác ôn các anh phải đầu hàng vô điều kiện để đưa đến thắng nợi nà v́ đảng của chúng tôi, quân đội anh hùng của chúng tôi được toàn dân ủng hộ. Anh nà Tướng anh phải thấy rơ điều lày hơn ai hết để mà ăn lăn hối cải qua việc học tập và nao động để trở thành người có ích cho xă hội sau lày. Lếu các anh cải tạo tốt th́ rồi đây trên cũng sẽ xem xét mà dùng nại các anh tùy theo khả lăng và tŕnh độ nhận thức của mỗi người.

Viên sĩ quan ngưng nói và cầm ly nước trà lên uống. Viên sĩ quan thấy ông Tướng ngồi im như lắng nghe nên anh ta cố tỏ ra nhă nhặn với ông Tướng và hỏi với giọng nhẹ nhàng hơn:

-Một điều quan trọng lữa cũng không thấy anh viết ra đó nà: Anh nà người được nên Tướng sau cùng của miền lam để lắm quyền Tổng chỉ huy cuộc tháo chạy khỏi cao nguyên. Chúng tôi muốn anh lói ra đây rơ ràng và chính xác về cái kế hoạch rút quân khỏi cao nguyên của anh như thế lào mà để rồi bị chúng tôi đánh đến không c̣n một manh giáp lào cả, nà sao?

-Thưa cán bộ, cán bộ cũng là quân nhân và cũng có cấp bậc cao th́ cán bộ cũng hiểu là, ngoài tôi là vị Tướng mới được vinh thăng th́ Quân đoàn c̣n có vị Tư lệnh và Phó Tư lệnh. Quân đoàn có nhiều đơn vị, có nhiều cơ quan, tôi đâu biết là những đơn vị nào, đồn trú ở đâu, ai chỉ huy…Vậy làm sao tôi thảo kế hoạch và điều động được để gọi là Tổng chỉ huy?

-Thế… đài phát thanh Saigon và đài quân đội… Chẳng nẽ họ lói sai?

-Thưa cán bộ, tôi không biết v́ đâu và do ai mà đài phát thanh đă gọi tôi là Tổng chỉ huy trong khi hai vị Tư lệnh và Tư lệnh phó Quân đoàn c̣n đó… th́ làm sao tôi là Tổng chỉ huy cho được… Do đó tôi đă không viết ra trong bản tự khai.

Viên sĩ quan bây giờ không c̣n nh́n ông Tướng với ánh mắt hằn học nữa. Anh ta nh́n vào tập hồ sơ trước mặt và hút thuốc liên tục, chứng tỏ anh ta đang bị bối rối và suy nghĩ nhiều. Có lẽ viên sĩ quan thấy điều cần muốn biết đă được ông Tướng giải đáp thỏa đáng nên một lúc lâu sau, viên sĩ quan kết luận:

-Thôi, hôm lay nàm việc với anh như thế nà tạm đủ. Hy vọng những nần tới anh sẽ… tiến bộ hơn và sẽ cho chúng tôi biết nhiều việc hơn. Anh về và viết nại bản tự khai khác rồi sẽ có người đến nhận.Thôi, anh về nghỉ… cho khỏe.

Viên vệ binh có cái mặt lấc cấc đă đứng chờ ngoài cửa khi ông Tướng bước ra. Ông Tướng bước từng bước chầm chậm đi trước tên vệ binh về hướng lán trại, nơi ông đang phải bị giam giữ chẳng khác ǵ Chúa Sơn Lâm bị giam trong lồng sắt. Ông Tướng cũng chính là Chúa Sơn Lâm, là con cọp đầu đàn của một đại đơn vị thiện chiến thuộc vùng rừng núi. Nh́n khung cảnh chung quanh trại tù, ông Tướng bùi ngùi nhớ lại những địa danh, những khu rừng, những chiến binh cảm tử đủ mọi cấp bậc đă cùng ông Tướng xông pha chiến trận ngày nào; không biết bây giờ họ ra sao. Ông Tướng cũng nhớ đến vị sĩ quan Thiếu Tá Tiểu đoàn trưởng anh hùng trong trận Pleime 1974 đă làm cho cả một Sư đoàn Việt cộng phải ôm hận. Ông ấy là người sĩ quan giỏi, đă dẫn đơn vị nguyên vẹn băng rừng từ Quăng Đức về đến Long Khánh, c̣n nhập vào Sư Đoàn 18 Bộ Binh đánh một trận để đời nữa. Đó là một trong những cấp chỉ huy ưu tú mà ông Tướng có được. Rất tiếc thời cuộc không cho phép ông Tướng thực hiện những ǵ ông ấp ủ.

Nh́n về nơi lán trại vẫn c̣n ch́m trong màn sương trắng, ông Tướng như thấy người vợ hiền và những đứa con thân yêu đang đứng đó… đưa những cánh tay gầy guộc về phía ông làm cho trái tim ông Tướng nhói đau như bị mũi dao ghim vào. Ông Tướng cúi đầu nh́n xuống bước chân ông đang bước những bước nặng nề và nói khe khẽ:

-Buồn năo nề và hận tận xương tủy!./.

ToPa (Ḥa-Lan)


All times are GMT. The time now is 14:15.
Page 13 of 20
« First 3101112 13 141516 Last »

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.43331 seconds with 8 queries